SẮC LỆNH
SỐ 40 CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NGÀY 29 THÀNG 03 NĂM 1946 VỀ VIỆC BẢO VỆ TỰ DO CÁ NHÂN
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
RA SẮC LỆNH:
TIẾT I VIỆC BẮT NGƯỜI VÀ GIAM CỨU
Lệnh đó phải viết ra giấy và bao giờ cũng phải do nhân viên của các cơ quan chính thức đem thi hành.
Điều thứ 2: Khi nào sự phạm pháp đương xẩy ra hoặc vừa xẩy ra trước mắt, hoặc khi nào kẻ phạm pháp còn đương bị công chứng theo đuổi hay còn đương cầm giữ tang vật, thì gọi là phạm pháp quả tang.
Tư nhân bắt được kẻ phạm pháp quả tang phải lập tức dẫn đến trình nhà chức trách ở gần đấy nhất.
Điều thứ 3: Việc giam cứu, trước khi xử, bao giờ cũng do các cơ quan tư pháp quyết định.
1- Nếu người bị bắt bị truy tố về tiểu hình thì hạn giam cứu không được quá một tháng kể từ ngày bắt;
Điều thứ 4: Tuy nhiên, nếu xét ra cần phải giam cứu lâu hơn một tháng hay ba tháng như đã nói trong Điều 3, thì có quan tư pháp có thể quyết nghị gia hạn thêm hai lần nữa, mỗi lần thêm một tháng hay ba tháng tuỳ theo việc tiểu hình hay đại hình.Toà Thượng thẩm sẽ xét việc kháng nghị ấy trong phòng hội đồng trong một phiên họp gần nhất; nghị quyết sẽ tuyên bố ở phiên công khai.
Quá hạn đó nếu chưa kịp xét lại án văn của toà trừng trị mà xét ra cần phải gia hạn giam cứu thì toà thượng thẩm phải tuyên bố một quyết nghị riêng. Nhưng dầu sao thì hạn giam cứu kể từ ngày bắt cũng không bao giờ được quá hạn tù do toà trừng trị đã tuyên phạt. Nếu bị cáo bị kết án về đại hình thì điều này không tái hàn.
TIẾT II NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐỀ PHÒNG ĐẶC BIỆTChủ tịch Uỷ ban hành chính kỳ cũng có thể ra lệnh cấm những người kể trên không được ở luôn hoặc lui tới một hay nhiều nơi sẽ ấn định.
1- 2 đại biểu hành chính (do nghị định Nội vụ cử ra)
Điều thứ 9: Khi nào cấp bách đặc biệt, Chủ tịch Uỷ ban hành chính các tỉnh được phép tạm bắt giữ người xét ra lời nói hay việc làm nguy hại cho việc trị an những phải báo tin lập tức ngay trong ngày tạm bắt giữ ấy cho Uỷ ban hành chính kỳ. Điều thứ 10: Nghị định giam trong trường hợp nói ở Điều thứ 7 phải thông đạt cho người đương sự chậm nhất là 15 ngày sau ngày bắt.Các nghị định ấy khi làm rồi đều phải gửi ngay một bản về Bộ Nội vụ.
1- 1 đại biểu Chính phủ (do Bộ Nội vụ đề nghị và sắc lệnh cử ra)
3- 1 thẩm phán (do Bộ Nội vụ đề nghị và sắc lệnh cử ra).
Điều thứ 12: Hội đồng phúc thẩm có quyền y nghị định của Uỷ ban hành chính kỳ, bác bỏ nghị định ấy, hay hạ lệnh cho các Uỷ ban hành chính đưa thêm bằng chứng hay cho điều tra thêm. Điều thứ 13: Bản kê những người bị đem đi an trí và những người bị cấm chỉ lưu trú theo lối cai trị ở các kỳ, hàng tháng phải gửi lên hội đồng phúc thẩm. Trong bản kê đó sẽ nói rõ ràng ngày bắt, hạn cấm chỉ lưu trú và nơi giam cầm những người bị giam. Điều thứ 14: Lúc nào hội đồng phúc thẩm và các Uỷ ban hành chính kỳ cũng có quyền huỷ bỏ những nghị định bắt giam hay cấm chỉ lưu trú xét ra không còn cần thiết cho việc trị an nữa.TIẾT III
CÁC NƠI GIAM CẦMViệc giam cầm trong các ty liêm phóng, hay các sở cảnh sát không được quá 24 giờ.
Điều thứ 16: Ngoài những nhà đề lao tỉnh thì không kể, còn bao nhiêu những nơi giam cầm khác đều phải kê khai rõ ràng tại phòng bí thứ hội đồng phúc thẩm.Điều thứ 17: Cấm ngặt không được dùng bất kỳ ở đâu những lối tra tấn để lấy cung.
TIẾT IV
HÌNH PHẠT VÀ TRÁCH NHIỆM CÁC CƠ QUAN ĐỊA PHƯƠNG1- Những người không có lệnh của thẩm phán viên hay của cơ quan hành chính tỉnh trở lên mà tự ý bắt người ngoài trường hợp phạm pháp quả tang;
3- Những người phụ trách các đề lao, các trại giam giữ người sau hạn giam cứu mà không có lệnh gia hạn; giữ người sau khi đã nhận được lệnh huỷ bỏ nghị định bắt giam đề phòng về cai trị; hoặc là đã giữ người quá hạn hai mươi ngày mà không có nghị định của cơ quan hành chính kỳ theo như khoản 10 trên đây;
5- Những tư nhân không tuân theo nghị định cấm chỉ lưu trữ về cai trị.
1- Những nhân viên trong cơ quan hành chính hàng tỉnh lạm dụng quyền nói trong điều 9 để theo đuổi tư hiềm hay tư lợi;
3- Những người dùng lối tra tấn để lấy cung. Nếu lối tra tấn làm chết người hay làm cho người thành tật thì kẻ phạm pháp còn có thể bị truy tố về những tội đó nữa.
Những nhân viên hành chính và những người có trách nhiệm về việc tuần phòng thấy bắt người trái phép, biết những nơi giam cầm không hợp lệ hay biết những sự tra tấn mà cố ý không dùng hết cách để ngăn gnừa hay báo cho cơ quan cai trị ở trên biết thì sẽ bị truy tố như là tòng phạm về những tội đó.
Điều thứ 22: Nếu có những lý do đáng khoan hồng, thì những người can vào Điều 18 có thể chỉ bị phạt dưới hai năm tù và những người can vào Điều 19 chỉ bị phạt dưới năm năm tù. Trong hai trường hợp này, toà án có thể cho bị cáo được hưởng án treo.
Điều thứ 24: Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp phụ trách thi hành Sắc lệnh này.
Hồ Chí Minh (Đã ký)
|
Từ khóa: Sắc lệnh 40, Sắc lệnh số 40, Sắc lệnh 40 của , Sắc lệnh số 40 của , Sắc lệnh 40 của , 40
File gốc của Sắc lệnh số 40 về việc bảo vệ tự do cá nhân do Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành đang được cập nhật.
Sắc lệnh số 40 về việc bảo vệ tự do cá nhân do Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | |
Số hiệu | 40 |
Loại văn bản | Sắc lệnh |
Người ký | |
Ngày ban hành | 1946-03-29 |
Ngày hiệu lực | 1946-04-13 |
Lĩnh vực | Tố tụng |
Tình trạng | Không còn phù hợp |