BỘ NGOẠI GIAO | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 33/2018/TB-LPQT | Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2018 |
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Điều 56 của Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao Hiệp định theo quy định tại Điều 59 của Luật nêu trên./.
TL. BỘ TRƯỞNG
KT.VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Lê Hải Triều
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc trành đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập,
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập hoặc nhũng phần của thu nhập, kể cả các loại thuế đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp chi trả sẽ được coi là các loại thuế đánh vào thu nhập.
a) tại Lát-vi-a:
(ii) thuế thu nhập cá nhân;
b) tại Việt Nam:
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp;
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với các loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung hoặc thay thế các loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết những thay đổi đáng kể trong các luật thuế của từng Nước.
a) thuật ngữ “Lát-vi-a” có nghĩa là nước Cộng hòa Lát-vi-a và khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa là lãnh thổ của nước Cộng hòa Lát-vi-a và bất kỳ vùng nào tiếp giáp với lãnh hải của nước Cộng hòa Lát-vi-a mà phù hợp với các luật của Lát-vi-a và luật pháp quốc tế, các quyền của Lát-vi-a có thể thực hiện đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và tài nguyên thiên nhiên ở đó;
c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có nghĩa là Lát-vi-a hoặc Việt Nam tùy ngữ cảnh đòi hỏi;
e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
g) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay do đối tượng cư trú của một Nước ký kết điều hành, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia;
(i) tại Lát-vi-a, Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
i) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”, liên quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(ii) bất kỳ pháp nhân, hợp danh hoặc hiệp hội nào có tư cách như vậy theo luật pháp hiện hành tại Nước ký kết.
2. Trường hợp theo các quy định tại khoản I khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
b) nếu không thể xác định được Nước nơi cá nhân đó có trung tâm của các quyền lợi thiết yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó thường sống;
d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của cả hai Nước, thì các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề bằng thỏa thuận song phương.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
b) một chi nhánh;
d) một nhà máy;
f) một kho hàng; và
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm:
b) việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự án có liên quan) tại Nước ký kết kia trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ giai đoạn mười hai tháng nào.
4. Mặc dù đã có các quy định trên của Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho, trưng bày hoặc giao tài sản;
d) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ với mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hoặc để thu thập thông tin cho doanh nghiệp;
f) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chi cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động nêu tại các điểm từ a) đến e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của địa điểm kinh doanh cố định bắt nguồn từ sự kết hợp này mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
a) có và thường xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại các khoản đó; hoặc
6. Một doanh nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở thường trú tại một Nước ký kết nếu doanh nghiệp đó chỉ thực hiện kinh doanh tại Nước ký kết đó thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho việc đại diện cho doanh nghiệp đó, và điều kiện được tạo ra hay áp đặt giữa doanh nghiệp đó và đại lý trong quan hệ thương mại và tài chính khác với điều kiện được tạo ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập trong phạm vi ý nghĩa của khoản này.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa theo như luật pháp của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi trường hợp sẽ bao gồm cả tài sản đi liền với bất động sản, dàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền sản, bất kỳ quyền nào về bất động sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả cho việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác. Các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi là bất động sản.
4. Khi việc sở hữu có phần hay các quyền lợi công ty khác tại một công ty cho phép chủ sở hữu các cổ phần đó hoặc các quyền lợi công ty đó được hưởng tài sản cố định do công ty đó nắm giữ thì thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào khác quyền được hưởng tài sản đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi có tài sản cố định đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở thường trú đó có thể thu được nếu đó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng các điều kiện như nhau hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được chấp nhận số có kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
6. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó sẽ không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
2. Theo nội dung của Điều này, lợi nhuận của một doanh nghiệp từ hoạt động của các tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế bao gồm:
b) lợi nhuận từ việc sử dụng, bảo dưỡng hoặc cho thuê các công-ten-nơ (bao gồm cả khoang móoc và thiết bị kèm theo phục vụ cho việc vận chuyển công-ten-nơ) dùng để vận chuyển hàng hóa hay tài sản;
3. Những quy định tại các khoản 1 và 2 cũng sẽ áp dụng đối với các khoản lợi nhuận từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
và trong cả hai trường hợp, trong mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo luật pháp của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó số không vượt quá:
b) 10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần trong tất cả các trường hợp khác.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc các quyền khác, không phải các khoản nợ, được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật pháp của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia, Nước kia có thể không đánh bất kỳ khoản thuế nào đối với các khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ trường hợp các khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước kia hoặc trừ trường hợp việc nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với các khoản lợi nhuận không chia của công ty, cho dù các khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho vay này cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật pháp của Nước đó, nhưng nếu chủ sở hữu thực hưởng lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, thì mức thuế khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản nợ dưới bất kỳ hình thức nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi nhuận của người đi vay và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu công ty, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu công ty đó. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” sẽ không bao gồm bất kỳ khoản thu nhập nào được xem như tiền lãi cổ phần theo các quy định của Điều 10. Các khoản phạt trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo quy định của Điều này.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi từ tiền cho vay, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản lãi từ tiền cho vay này vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
TIỀN BẢN QUYỀN VÀ PHÍ DỊCH VỤ KỸ THUẬT
2. Tuy nhiên, các khoản tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật này cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi các khoản tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh và theo luật pháp của Nước đó, nhưng chủ sở hữu thực hưởng các khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật đó là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, thì mức thuế khi đó sẽ không vượt quá:
b) trong trường hợp đối với phí dịch vụ kỹ thuật, 7,5 phần trăm tổng số phí dịch vụ kỹ thuật.
b) Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào, trừ các khoản thanh toán được đề cập tại Điều 14 và 15 của Hiệp định này, được trả cho các dịch vụ mang tính chất quản lý hoặc kỹ thuật hoặc tư vấn, bao gồm cả việc cung cấp các dịch vụ kỹ thuật hoặc dịch vụ nhân sự khác.
5. Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật sẽ được coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật đã phát sinh, và khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng đó có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật này sẽ vẫn được coi là phát sinh tại Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
2. Thu nhập thu được bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết từ việc chuyển nhượng các cổ phần trong một công ty hoặc các quyền lợi tương tự trong một hợp danh, một tín thác hoặc một tổ chức khác tương tự mà từ 50 phần trăm giá trị tài sản trực tiếp hoặc gián tiếp là bất động sản đặt tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
4. Thu nhập thu được bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết điều hành tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế hoặc động sản gắn liền với việc điều hành các tàu thủy, máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
6. Thu nhập từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản 1,2, 3,4 và 5 sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
a) nếu đối tượng đó thường xuyên có tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động của đối tượng đó; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu các hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
2. Mặc dù đã có các quy định tại khoản 1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại Nước ký kết kia sẽ chì bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
b) tiền công được trả bởi chủ lao động hay đối tượng đại diện chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
3. Mặc dù đã có các quy định trên của Điều này, tiền công thu được từ lao động làm công trên một tàu thủy, hoặc máy bay do một doanh nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên mà trả cho một đối tượng khác thì thu nhập đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định tại các Điều 7, 14 và 15.
2. Mặc dù đã có các quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả theo một chương trình phúc lợi công cộng là một phần của hệ thống bảo hiểm xã hội của Nước ký kết đó hoặc chính quyền địa phương của Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao tương tự khác sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc nêu trên.
b) Tuy nhiên, những khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia.
2. Đối với các khoản thanh toán chưa được đề cập tại khoản 1, và tiền công từ các dịch vụ cá nhân phụ thuộc phục vụ cho quá trình học tập hoặc đào tạo đó, một sinh viên, thực tập sinh hoặc học sinh học nghề được đề cập tại khoản 1, trong quá trình học tập hoặc đào tạo đó, sẽ được hưởng khoản miễn thu, miễn thuế hoặc giảm thuế thu nhập mà các đối tượng cư trú của Nước ký kết nơi sinh viên, thực tập sinh hoặc học sinh học nghề đó đến được hưởng.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng nhận khoản thu nhập đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước kia, hoặc thực hiện tại Nước kia các dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước đó, và quyền hoặc tài sản liên quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp như vậy, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 sẽ được áp dụng tùy theo từng trường hợp.
a) trường hợp một đối tượng cư trú của Lát-vi-a nhận được thu nhập, phù hợp với các quy định của Hiệp định này, đã chịu thuế tại Việt Nam, thể theo các quy định tại các điểm b) và c), Lát-vi-a sẽ miễn thuế đối với các khoản thu nhập đó; và
Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ đó sẽ không vượt quá phần thuế đánh trên thu nhập, được tính trước khi cho phép khấu trừ, phân bổ cho thu nhập có thể bị đánh thuế tại Việt Nam.
(i) Các Điều 13, 14, 15 và 17 của Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp của Việt Nam năm 2008 và các quy định dưới luật được sửa đổi, chừng nào những quy định đó có hiệu lực, và chưa được sửa đổi kể từ ngày ký Hiệp định này, hoặc sau đó đã được sửa đổi chỉ trong phạm vi nhỏ không ảnh hưởng đến tính chất chung của những quy định đó, và luôn luôn với điều kiện nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam đã xác nhận việc miễn hoặc giảm thuế Việt Nam theo những Điều này được áp dụng nhằm khuyến khích việc phát triển công nghiệp, thương mại, khoa học hoặc giáo dục tại Việt Nam và nhà chức trách có thẩm quyền của Lát-vi-a đã chấp nhận việc miễn hoặc giảm thuế đó là vì những mục đích nêu trên; hoặc
d) việc miễn thuế của Lát-vi-a theo nội dung điểm c) sẽ chỉ được áp dụng trong thời hạn 10 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực.
a) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản mà theo luật của Lát-vi-a và phù hợp với Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại Lát-vi-a, Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đánh trên thu nhập một khoản tiền bằng số tiền thuế đã nộp tại Lát-vi-a. Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản được tính phù hợp với luật và các quy định về thuế của Việt Nam.
2. Hình thức thuế áp dụng đối với một cơ sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ không kém thuận lợi hơn hình thức thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp của Nước ký kết kia cùng thực hiện những hoạt động tương tự. Quy định này sẽ không được giải thích là buộc một Nước ký kết phải dành cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế nào vì lợi ích của thân phận dân sự hoặc trách nhiệm gia đình mà Nước ký kết đó dành cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước thứ nhất bất kỳ hình thức thuế hoặc yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuê đó khác với hoặc nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
THỦ TỤC THỎA THUẬN SONG PHƯƠNG
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với quy định của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được thực hiện mặc dù đã có bất kỳ những giới hạn về thời gian quy định tại luật trong nước của hai Nước ký kết.
4. Các nhà chức trách có thẩm quyền của các Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau, bao gồm việc thông qua một Ủy ban có thành viên là chính các nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các đại diện của họ, nhằm đạt được một thỏa thuận theo nội dung của các khoản trên đây.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được theo khoản 1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo nội luật của Nước này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế nêu tại khoản 1, hoặc giám sát các nội dung trên. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các quyết định của tòa án.
a) thực hiện các biện pháp hành chính khác với pháp luật hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
c) cung cấp các thông tin có thể làm tiết lộ bí mật về thương mại, kinh doanh, bí mật công nghiệp, thương nghiệp hoặc nghề nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể trái với chính sách công (trật tự công cộng).
5. Không có trường hợp nào cho phép những quy định tại khoản 3 được giải thích là cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì thông tin do một ngân hàng, tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc đối tượng với tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
CÁC THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO VÀ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN LÃNH SỰ
a) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, liên quan đến khoản thu nhập phát sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực;
a) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập phát sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm tiếp sau năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định;
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp thức, đã ký vào Hiệp định này.
Thay mặt Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam | Thay mặt Chính phủ Nước Cộng hòa |
1. Liên quan đến các Điều 10, 11 và 13
2. Liên quan đến khoản 5 của Điều 13
“5. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng trực tiếp hoặc gián tiếp các cổ phần, không phải là các cổ phần được đề cập tại khoản 2, chiếm không ít hơn 15 phần trăm của toàn bộ số cổ phần của một công ty là một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có thể chịu thuế tại Nước ký kết đó.”
LÀM tại Ri-ga ngày 19 tháng 10 năm 2017 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng Lát-vi-a và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
Thay mặt Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đoàn Thị Phương Dung
ĐẠI SỨ ĐẶC MỆNH TOÀN QUYỀN
Thay mặt Chính phủ Nước Cộng hòa
Lát-vi-a
Dana Reiznicce-Ozola
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Desiring to conclude an Agreement for the avoidance of double taxation and the prevention of fiscal evasion with respect to taxes on income,
2. There shall be regarded as taxes on income all taxes imposed on total income or on elements of income, including taxes on gains from the alienation of movable or immovable property, taxes on the total amounts of wages or salaries paid by enterprises.
a) in Latvia:
(ii) the personal income tax;
b) in Viet Nam:
(ii) the business income tax;
4. The Agreement shall apply also to any identical or substantially similar taxes that are imposed after the date of signature of the Agreement in addition to, or in place of, the existing taxes. The competent authorities of the Contracting States shall notify each other of any significant changes which have been made in their taxation laws.
a) the term “Latvia” means the Republic of Latvia and, when used in the geographical sense, means the territory of the Republic of Latvia and any other area adjacent to the territorial waters of the Republic of Latvia within which under the laws of Latvia and in accordance with international law, the rights of Latvia may be exercised with respect to the seabed and its subsoil and their natural resources;
c) the terms “a Contracting State” and “the other Contracting State” mean Latvia or Viet Nam, as the context requires;
e) the term “company” means any body corporate or any entity that is treated as a body corporate for tax purposes;
g) the term “international traffic” means any transport by a ship or aircraft operated by a resident of a Contracting State, except when the ship or aircraft is operated solely between places in the other Contracting State;
(i) in Latvia, the Ministry of Finance or its authorised representative;
i) the term “national”, in relation to a Contracting State, means:
(ii) any legal person, partnership or association deriving its status as such from the laws in force in a Contracting State.
2. Where by reason of the provisions of paragraph 1 an individual is a resident of both Contracting States, then his status shall be determined as follows:
b) if the State in which he has his centre of vital interests cannot be determined, or if he has not a permanent home available to him in either State, he shall be deemed to be a resident only of the State in which he has an habitual abode;
d) if he is a national of both States or of neither of them, the competent authorities of the Contracting States shall settle the question by mutual agreement.
2. The term “permanent establishment” includes especially:
b) a branch;
d) a factory;
f) a warehouse, and
3. The term “permanent establishment” shall also include:
b) the furnishing of Services, including consultancy Services, by an enterprise of a Contracting State through its employees or other personnel engaged by the enterprise for such purpose, but only where such activities continue (for the same or a connected project) in the other Contracting State for a period or periods exceeding in the aggregate six months in any twelve month period;
4. Notwithstanding the preceding provisions of this Article, the term “permanent establishment” shall be deemed not to include:
b) the maintenance of a stock of goods or merchandise belonging to the enterprise solely for the purpose of storage, display or delivery;
d) the maintenance of a fixed place of business solely for the purpose of purchasing goods or merchandise or of collecting information, for the enterprise;
f) the maintenance of a fixed place of business solely for any combination of activities mentioned in sub-paragraphs a) to e), provided that the overall activity of the fixed place of business resulting from this combination is of a preparatory or auxiliary character.
a) has and habitually exercises in that State an authority to conclude contracts in the name of the enterprise, unless the activities of such person are limited to those mentioned in paragraph 4 which, if exercised through a fixed place of business, would not make this fixed place of business a permanent establishment under the provisions of that paragraph; or
6. An enterprise of a Contracting State shall not be deemed to have a permanent establishment in the other Contracting State merely because it carries on business in that other Contracting State through a broker, general commission agent or any other agent of an independent status, provided that such persons are acting in the ordinary course of their business. However, when the activities of such an agent are devoted wholly or almost wholly on behalf of that enterprise, and conditions are made or imposed between that enterprise and the agent in their commercial and financial relations which differ from those which would have been made between independent enterprises, he will not be considered an agent of an independent status within the meaning of this paragraph.
INCOME FROM IMMOVABLE PROPERTY
2. The term “immovable property” shall have the meaning which it has under the law of the Contracting State in which the property in question is situated. The term shall in any case include property accessory to immovable property, livestock and equipment used in agriculture and forestry, rights to which the provisions of general law respecting landed property apply, any rights in respect of immovable property, usufruct of immovable property and rights to variable or fixed payments as consideration for the working of, or the right to work, mineral deposits, sources and other natural resources. Ships and aircraft shall not be regarded as immovable property.
4. Where the ownership of shares or other corporate rights in a company entitles the owner of such shares or corporate rights to the enjoyment of immovable property held by the company, the income from the direct use, letting, or use in any other form of such right to enjoyment may be taxed in the Contracting State in which the immovable property is situated.
2. Subject to the provisions of paragraph 3, where an enterprise of a Contracting State carries on business in the other Contracting State through a permanent establishment situated therein, there shall in each Contracting State be attributed to that permanent establishment the profits which it might be expected to make if it were a distinct and separate enterprise engaged in the same or similar activities under the same or similar conditions and dealing wholly independently with the enterprise of which it is a permanent establishment.
4. Insofar as it has been customary in a Contracting State to determine the profits to be attributed to a permanent establishment on the basis of an apportionment of the total profits of the enterprise to its various parts, nothing in paragraph 2 shall preclude that Contracting State from determining the profits to be taxed by such an apportionment as may be customary; the method of apportionment adopted shall, however, be such that the result shall be in accordance with the principles contained in this Article.
6. Where profits include items of income which are dealt with separately in other Articles of this Agreement, then the provisions of those Articles shall not be affected by the provisions of this Article.
2. For the purposes of this Article, profits of an enterprise from the operation of ships or aircraft in international traffic include:
b) profits from the use, maintenance or rental of containers (including trailers and related equipment for the transport of containers) used for the transport of goods or merchandise;
3. The provisions of paragraphs 1 and 2 shall also apply to profits from the participation in a pool, a joint business or an international operating agency.
a) an enterprise of a Contracting State participates directly or indirectly in the management, control or Capital of an enterprise of the other Contracting State, or
and in either case conditions are made or imposed between the two enterprises in their commercial or financial relations which differ from those which would be made between independent enterprises, then any profits which would, but for those conditions, have accrued to one of the enterprises, but, by reason of those conditions, have not so accrued, may be included in the profits of that enterprise and taxed accordingly.
2. However, such dividends may also be taxed in the Contracting State of which the company paying the dividends is a resident and according to the laws of that State, but if the beneficial owner of the dividends is a resident of the other Contracting State, the tax so charged shall not exceed:
b) 10 per cent of the gross amount of the dividends in all other cases.
3. The term “dividends” as used in this Article means income from shares, mining shares, founders’ shares or other rights, not being debt-claims, participating in profits, as well as income from other rights which is subjected to the same taxation treatment as income from shares by the laws of the State of which the company making the distribution is resident.
5. Where a company which is a resident of a Contracting State derives profits or income from the other Contracting State, that other State may not impose any tax on the dividends paid by the company, except insofar as such dividends are paid to a resident of that other State or insofar as the holding in respect of which the dividends are paid is effectively connected with a permanent establishment or a fixed base situated in that other State, nor subject the company's undistributed profits to a tax on the company’s undistributed profits, even if the dividends paid or the undistributed profits consist wholly or partly of profits or income arising in such other State.
2. However, such interest may also be taxed in the Contracting State in which it arises and according to the laws of that State, but if the beneficial owner of the interest is a resident of the other Contracting State, the tax so charged shall not exceed 10 per cent of the gross amount of the interest.
4. The term “interest” as used in this Article means income from debt- claims of every kind, whether or not secured by mortgage, and whether or not carrying a right to participate in the debtor’s profits, and in particular, income from government securities and income from bonds or debentures, including premiums and prizes attaching to such securities, bonds or debentures. The term “interest” shall not include any income which is treated as a dividend under the provisions of Article 10. Penalty charges for late payment shall not be regarded as interest for the purpose of this Article.
6. Interest shall be deemed to arise in a Contracting State when the payer is a resident of that State. Where, however, the person paying the interest, whether he is a resident of a Contracting State or not, has in a Contracting State a permanent establishment or a fixed base in connection with which the indebtedness on which the interest is paid was incurred, and such interest is borne by such permanent establishment or fixed base, then such interest shall be deemed to arise in the State in which the permanent establishment or fixed base is situated.
ROYALTIES AND FEES FOR TECHNICAL SERVICES
2. However, such royalties and fees for technical Services may also be taxed in the Contracting State in which they arise and according to the laws of that State, but if the beneficial owner of the royalties or of the fees for technical Services is a resident of the other Contracting State, the tax so charged shall not exceed:
b) in the case of fees for technical Services, 7.5 per cent of the gross amount of the fees.
b) The term “fees for technical Services” as used in this Article means payments of any kind, other than those mentioned in Articles 14 and 15 of this Agreement, as consideration for managerial or technical or consultancy Services, including the provision of Services of technical or other personnel.
5. Royalties and fees for technical Services shall be deemed to arise in a Contracting State when the payer is a resident of that State. Where, however, the person paying the royalties or the fees for technical Services, whether he is a resident of a Contracting State or not, has in a Contracting State a permanent establishment or a fixed base in connection with which the obligation to pay the royalties or fees for technical Services was incurred, and such royalties or fees for technical Services are borne by such permanent establishment or fixed base, then such royalties or fees for technical Services shall be deemed to arise in the State in which the permanent establishment or fixed base is situated.
INCOME FROM THE ALIENATION OF PROPERTY
2. Gains derived by a resident of a Contracting State from the alienation of shares in a company or of a comparable interest in a partnership, trust or other similar entity deriving more than 50 per cent of their value directly or indirectly from immovable property situated in the other Contracting State may be taxed in that other State.
4. Gains derived by a resident of a Contracting State operating ships or aircraft in international traffic from the alienation of ships or aircraft operated in international traffic or movable property pertaining to the operation of such ships or aircraft, shall be taxable only in that State.
6. Gains from the alienation of any property other than that referred to in paragraphs 1, 2, 3, 4 and 5, shall be taxable only in the Contracting State of which the alienator is a resident.
a) if he has a fixed base regularly available to him in the other Contracting State for the purpose of performing his activities; in that case, only so much of the income as is attributable to that fixed base may be taxed in that other Contracting State; or
2. The term “professional Services” includes especially independent scientific, literary, artistic, educational or teaching activities as well as the independent activities of physicians, lawyers, engineers, architects, dentists and accountants.
2. Notwithstanding the provisions of paragraph 1, remuneration derived by a resident of a Contracting State in respect of an employment exercised in the other Contracting State shall be taxable only in the first-mentioned State if:
b) the remuneration is paid by, or on behalf of, an employer who is not a resident of the other State, and
3. Notwithstanding the preceding provisions of this Article, remuneration derived in respect of an employment exercised aboard a ship or aircraft operated in international traffic by a resident of a Contracting State shall be taxable only in that State.
2. Where income in respect of personal activities exercised by an entertainer or a sportsman in his capacity as such accrues not to the entertainer or sportsman himself but to another person, that income may, notwithstanding the provisions of Articles 7, 14 and 15, be taxed in the Contracting State in which the activities of the entertainer or sportsman are exercised.
2. Notwithstanding the provisions of paragraph 1 of this Article and paragraph 2 of Article 19, pensions and other similar remuneration paid under a public scheme which is part of the social security System of a Contracting State or a local authority thereof shall be taxable only in that State.
b) However, such salaries, wages and other similar remuneration shall be taxable only in the other Contracting State if the Services are rendered in that State and the individual is a resident of that State who:
(ii) did not become a resident of that State solely for the purpose of rendering the Services.
b) However, such pension shall be taxable only in the other Contracting State if the individual is a resident of, and a national of, that State.
2. In respect of the payments not covered by paragraph 1, and remuneration for dependent personal Services rendered during such education or training, a student, an apprentice or a trainee shall be entitled to the same exemptions, reliefs or reductions in respect of taxes on income as are available to residents of the Contracting State he is visiting.
2. The provisions of paragraph 1 shall not apply to income, other than income from immovable property as defined in paragraph 2 of Article 6, if the recipient of such income, being a resident of a Contracting State, carries on business in the other Contracting State through a permanent establishment situated therein, or performs in that other State independent personal Services from a fixed base situated therein, and the right or property in respect of which the income is paid is effectively connected with such permanent establishment or fixed base. In such case the provisions of Article 7 or Article 14, as the case may be, shall apply.
ELIMINATION OF DOUBLE TAXATION
a) where a resident of Latvia derives income which, in accordance with the provisions of this Agreement, has been taxed in Viet Nam, Latvia shall, subject to the provisions of subparagraphs b) and c), exempt such income from tax; and
Such deduction shall not, however, exceed that part of the tax on income, as computed before the deduction is given, which is attributable to the income which may be taxed in Viet Nam.
(i) Articles 13, 14, 15 and 17 of the Law on Business Income Tax of Viet Nam 2008 and the regulations made thereunder, as amended, in so far as they were in force on, and have not been modified since the date of signature of this Agreement, or have been modified since then only in minor respects so as not to affect their general character, and provided always that the competent authority of Viet Nam has certified that any such exemption from or reduction of Vietnamese tax given under these Articles has been granted in order to promote industrial, commercial, scientific or educational development in Viet Nam and the competent authority of Latvia has accepted that such exemption or reduction has been granted for such purpose; or
d) relief from Latvian tax by virtue of subparagraph c) shall be given for a period of 10 years only, beginning on the date on which this Agreement became effective.
a) Where a resident of Viet Nam derives income, profits or gains which under the law of Latvia and in accordance with this Agreement may be taxed in Latvia, Viet Nam shall allow as a credit against its tax on the income, an amount equal to the tax paid in Latvia. The amount of credit, however, shall not exceed the amount of the Vietnamese tax on that income, profits or gains computed in accordance with the taxation laws and regulations of Viet Nam.
2. The taxation on a permanent establishment which an enterprise of a Contracting State has in the other Contracting State shall not be less favourably levied in that other State than the taxation levied on enterprises of that other State carrying on the same activities. This provision shall not be construed as obliging a Contracting State to grant to residents of the other Contracting State any personal allowances, reliefs and reductions for taxation purposes on account of civil status or family responsibilities which it grants to its own residents.
4. Enterprises of a Contracting State, the Capital of which is wholly or partly owned or controlled, directly or indirectly, by one or more residents of the other Contracting State, shall not be subjected in the first-mentioned State to any taxation or any requirement connected therewith which is other or more burdensome than the taxation and connected requirements to which other similar enterprises of the first- mentioned State are or may be subjected.
2. The competent authority shall endeavour, if the objection appears to it to be justified and if it is not itself able to arrive at a satisfactory solution, to resolve the case by mutual agreement with the competent authority of the other Contracting State, with a view to the avoidance of taxation which is not in accordance with this Agreement. Any agreement reached shall be implemented notwithstanding any time limits in the domestic law of the Contracting States.
4. The competent authorities of the Contracting States may communicate with each other directly, including through a joint commission consisting of themselves or their representatives, for the purpose of reaching an agreement in the sense of the preceding paragraphs.
2. Any information received under paragraph 1 by a Contracting State shall be treated as secret in the same manner as information obtained under the domestic laws of that State and shall be disclosed only to persons or authorities (including courts and administrative bodies) concerned with the assessment or collection of, the enforcement or prosecution in respect of, the determination of appeals in relation to the taxes referred to in paragraph 1, or the oversight of the above. Such persons or authorities shall use the information only for such purposes. They may disclose the information in public court proceedings or in judicial decisions.
a) to carry out administrative measures at variance with the laws and administrative practice of that or of the other Contracting State;
c) to supply information which would disclose any trade, business, industrial, commercial or professional secret or trade process, or information, the disclosure of which would be contrary to public policy (ordre public).
5. In no case shall the provisions of paragraph 3 be construed to permit a Contracting State to decline to supply information solely because the information is held by a bank, other financial institution, nominee or person acting in an agency or a fiduciary capacity or because it relates to ownership interests in a person.
MEMBERS OF DIPLOMATIC MISSIONS AND CONSULAR POSTS
a) in respect of taxes withheld at source, on income derived on or after the first day of January in the calendar year next following the year in which the Agreement enters into force;
a) in respect of taxes withheld at source, on income derived on or after the first day of January in the calendar year next following the year in which the notice has been given;
In witness whereof, the undersigned, duly authorised thereto, have signed this Agreement.
For the Government of the Socialist Republic of Viet Nam | For the Government of the Republic of Latvia |
1. With reference to Articles 10, 11 and 13
2. With reference to paragraph 5 of Article 13
“5. Gains derived from the direct or indirect alienation of shares, other than the shares referred to in paragraph 2, of not less than 15 per cent of the entire shareholding of a company which is a resident of a Contracting State may be taxed in that Contracting State.”
Done in duplicate at Riga this 19 day of October 2017, in the Vietnamese, Latvian, and English languages, all three texts being equally authentic. In the case of divergence of interpretation the English text shall prevail.
For the Government of the Socialist Republic of Viet Nam
Doan Thi Phuong Dung
AMBASSADOR EXTRAORDINARY AND PLENIPOTENTIARY
For the Government of the Republic of Latvia
Dana Reizniece-Ozla
MINISTER OF FINANCE
Từ khóa: Điều ước quốc tế 33/2018/TB-LPQT, Điều ước quốc tế số 33/2018/TB-LPQT, Điều ước quốc tế 33/2018/TB-LPQT của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Cộng hoà Latvia, Điều ước quốc tế số 33/2018/TB-LPQT của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Cộng hoà Latvia, Điều ước quốc tế 33 2018 TB LPQT của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Cộng hoà Latvia, 33/2018/TB-LPQT
File gốc của Thông báo 33/2018/TB-LPQT hiệu lực Hiệp định và Nghị định thư của Hiệp định về Tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập giữa Việt Nam và Lát-vi-a đang được cập nhật.
Thông báo 33/2018/TB-LPQT hiệu lực Hiệp định và Nghị định thư của Hiệp định về Tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập giữa Việt Nam và Lát-vi-a
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Cộng hoà Latvia |
Số hiệu | 33/2018/TB-LPQT |
Loại văn bản | Điều ước quốc tế |
Người ký | Đoàn Thị Phương Dung, Dana Reizniece-Ozola |
Ngày ban hành | 2017-10-19 |
Ngày hiệu lực | 2018-08-06 |
Lĩnh vực | Thương mại |
Tình trạng | Còn hiệu lực |