Thông tư liên bộ 02-TT/LB-1966 hướng dẫn chế độ đối với công nhân, viên chức Nhà nước kể cả công nhân viên quốc phòng bị tai nạn chiến tranh do Bộ Nội vụ - Tổng công đòan Việt Nam ban hành
Tại thông tư số 120-TTg/NC ngày 28-9-1965, Thủ tướng Chính phủ đã quy định việc vận dụng chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức bị tai nạn chiến tranh. Sau khi trao đổi với các Bộ có liên quan, Liên bộ Nội vụ - Tổng công đoàn Việt Nam hướng dẫn cụ thể, việc thi hành thông tư nói trên của Thủ tướng Chính phủ như sau:
...
C. Công nhân, viên chức chết được xác định là liệt sĩ.
Công nhân, viên chức, trong khi địch đến bắn phá, nếu chế do đã có những hành động hy sinh, dũng cảm như quy định ở phần B của thông tư này, thì được xét để xác định là liệt sĩ. việc xác định liệt sĩ phải căn cứ vào trường hợp hy sinh: nếu vì nhiệm vụ công tác của cách mạng mà hy sinh một cách vẻ vang, xứng đáng để mọi người học tập thì được xác định là liệt sĩ.
Nếu công nhân, viên chức chết được xác định là liệt sĩ thì gia đình được hưởng chế độ như gia đình quân nhân chết được xác định là liệt sĩ quy định tại tiết 5 của Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân (ban hành ngày 30-10-1964) và tại thông tư Liên bộ Quốc phòng-Công an-Nội vụ số 104-LB/QP ngày 12-4-1965. cụ thể là:
1. Những thân nhân của liệt sĩ không có sức lao động mà liệt sĩ khi còn sống phải nuôi dưỡng được hưởng chế độ trợ cấp quy định dưới đây:
a) Liệt sĩ có lương chính từ 40đ trở xuống, thân nhân được hưởng tiền tuất hàng tháng như sau:
Gia đình có 1 người phải nuôi dưỡng, được trợ cấp 10 đồng
- 2 - - 18 –
- 3 - - 24 –
- 4 người trở lên - 30 –
Nếu tiền lương cao hơn 40 đồng, còn được trợ cấp thêm 5% của phần tiền lương cao hơn 40 đồng. nếu đã công tác liên tục từ 10 năm trở lên, còn được trợ cấp thêm 10% của tổng số tiền trợ cấp, và do được xác định là liệt sĩ, còn được trợ cấp thêm 10% của tổng số các khoản trợ cấp nói trên.
b) Ngoài tiền tuất hàng tháng, thân nhân còng được hưởng khoản trợ cấp một lần: cứ mỗi năm công tác liên tục của liệt sĩ, thân nhân được trợ cấp bằng một tháng lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có), mức trợ cấp thấp nhất bằng ba tháng lương và cao nhất không quá năm tháng.
Việc xét trợ cấp tiền tuất hàng tháng cho gia đình công nhân, viên chức chết nói chung thì căn cứ vào tình hình của gia đình lúc công nhân, viên chức chết. nhưng riêng đối với gia đình liệt sĩ, thì dù khi liệt sĩ chết, vợ, con hoặc cha mẹ chưa đủ điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng, nhưng sau này các thân nhân do già yếu hoặc ốm đau, bị tai nạn mà mất sức lao động, thì cũng được xét để hưởng tiền tuất hàng tháng. Khi xét để trợ cấp tiền tuất hàng tháng, thì chỉ cần xét một điều kiện là thân nhân của liệt sĩ không có sức lao động mà liệt sĩ khi còn sống phải nuôi dưỡng, không cần phải có điều kiện về thời gian công tác liên tục của liệt sĩ cũng như không cần điều kiện gia đình sút thu nhập 60% trở lên.
2. Trường hợp thân nhân của liệt sĩ không đủ điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng thì được hưởng trợ cấp một lần: mức trợ cấp là sáu tháng lương, nhưng nếu sáu tháng lương đó không bằng 300 đồng thì được trợ cấp 300đ.
Thân nhân được hưởng trợ cấp này là vợ hoặc chồng, con, cha mẹ. nếu không có vợ hoặc chồng, con hoặc cha mẹ thì phải là người có công nuôi dưỡng liệt sĩ đó lúc nhỏ dưới 17 tuổi từ 5 năm trở lên được Ủy ban hành chính xã hoặc khu phố xác nhận.
Các khoản trợ cấp đối với trường hợp công nhân, viên chức chết nói trên đều do quỹ bảo hiểm xã hội 1% chi.