BỘ TƯ PHÁP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
V/v trả lời các đề xuất, kiến nghị của địa phương | Hà Nội, ngày 23 tháng 08 năm 2011 |
Kính gửi: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc chưa rõ, đề nghị Quý cơ quan phản ánh về Bộ Tư pháp (thông qua Văn phòng Bộ) để phối hợp xử lý./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/c);
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (để thực hiện);
- Các đơn vị thuộc Bộ;
- Lưu: VT, TH.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC
Hoàng Thế Liên
DANH MỤC
TRẢ LỜI CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CỦA SỞ TƯ PHÁP
(Kèm theo Công văn số 4982/BTP-VP ngày 23 tháng 8 năm 2011 của Bộ Tư pháp)
1.1. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành văn bản hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của địa phương để thuận tiện cho quá trình tổ chức thực hiện nội dung này (STP Hà Giang).
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang hoàn thiện lần cuối dự thảo Thông tư hướng dẫn về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch trước khi ban hành.
Trả lời: Thẩm định là một quy trình bắt buộc của việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Điều này đã được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, trước khi gửi hồ sơ trình cấp trên ký ban hành, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thẩm định dự thảo văn bản và phải có báo cáo thẩm định. Như vậy, giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định đã được xác định cụ thể trong Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp, ngày 08/4/2010, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1048/QĐ-BTP trong đó cũng có quy định cụ thể giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định.
Trả lời: Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 158. Dự thảo Thông tư liên tịch đã được tổ chức lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương và đang được tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện.
Trả lời: Hàng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL. Bộ Tư pháp đã hướng dẫn lập cơ sở dữ liệu để trao đổi trong Hội nghị tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ được tổ chức vào ngày 29, 30/6 và 01/7/2011.
Trả lời: Hiện nay, Bộ Tư pháp đang rà soát, nhập dữ liệu vào cơ sở dữ liệu văn bản QPPL chung của Bộ. Việc hướng dẫn cụ thể về xây dựng hệ cơ sở dữ liệu của từng cấp, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn trong Hội nghị tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL được tổ chức vào ngày 29, 30/6 và 01/7/2011.
Trả lời: Thứ nhất, về việc tổ chức tập huấn và cung cấp tài liệu hướng dẫn kỹ năng, kinh nghiệm thẩm định và tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với các cơ quan có liên quan biên soạn nhiều tài liệu hướng dẫn về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho địa phương như Sổ tay nghiệp vụ soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND các cấp (NXB Tư pháp năm 2007), Tình huống, nghiệp vụ kiểm tra văn bản quy phạm phát luật (NXB Tư pháp năm 2006), Nghiệp vụ rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (NXB Tư pháp năm 2007), Cẩm nang pháp chế (NXB Tư pháp năm 2006)…
1.7. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể về xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật theo quy định của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý văn bản (STP Sơn La).
Khoản 4 Điều 34 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, Bộ trưởng Bộ Nội vụ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn cụ thể về xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật. Như vậy, theo quy định, Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì, Bộ Tư pháp sẽ tích cực phối hợp với Bộ Nội vụ trong quá trình triển khai xây dựng văn bản này.
2.1. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP chưa quy định về thời hạn cấp lại bản chính giấy khai sinh, trong khi đó Bộ thủ tục hành chính Đề án 30 lại quy định giải quyết trong 01 ngày làm việc nên chưa có cơ sở rõ ràng để thực hiện, mặt khác bản chính giấy khai sinh được cấp lại phải do Chủ tịch UBND huyện ký, nên việc giải quyết trong thời hạn 01 ngày làm việc khó thực hiện. Kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, quy định lại trường hợp này cho thống nhất, cụ thể (STP Tây Ninh).
2.2. Theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP, việc bổ sung hộ tịch không phải ra quyết định bổ sung hộ tịch, nhưng thực tế tại các địa phương hiện nay các Sở, ngành khác (công an, giáo dục…) yêu cầu người dân cung cấp quyết định bổ sung hộ tịch để làm căn cứ điều chỉnh lại các giấy tờ khác. Kiến nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn và quy định cụ thể (STP Tây Ninh).
2.3. Trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có nhiều trường hợp người dân đến yêu cầu được xác định lại dân tộc, từ dân tộc Stiêng thành dân tộc Tà Mun (có kèm theo hồ sơ chứng minh các giấy tờ của ông, bà của họ là người dân tộc Tà Mun), nhưng khi xem xét thì không có căn cứ để giải quyết vì trong số 54 dân tộc Việt Nam (Theo danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 2/3/1979) không có tên dân tộc Tà Mun. Kiến nghị Bộ Tư pháp có ý kiến hướng dẫn thực hiện (STP Tây Ninh).
2.4. Trẻ em sinh ra ở nước ngoài được mẹ đưa về Việt Nam sinh sống từ khi người mẹ còn quốc tịch Việt Nam (đứa trẻ đã có hộ chiếu nước ngoài hoặc đã có khai sinh ở nước ngoài) nhưng đến khi xin đăng ký khai sinh cho con tại Việt Nam để được đi học, thì mẹ của trẻ em đó không còn quốc tịch Việt Nam - Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn giải quyết cho đăng ký khai sinh như thế nào? (STP Tây Ninh).
Trả lời: Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài chưa được đăng ký khai sinh và vấn đề xác định quốc tịch của trẻ em đã được hướng dẫn tại Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008. Trường hợp trẻ em sinh ra ở nước ngoài, đã đăng ký khai sinh ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài thì không được đăng ký khai sinh tại Việt Nam. Khi đi học trẻ em sẽ sử dụng Giấy khai sinh do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp (Giấy khai sinh phải được hợp pháp hóa lãnh sự, dịch ra tiếng Việt).
Trả lời: Trường hợp một bên vợ hoặc chồng đã làm thủ tục ghi chú ly hôn tại Việt Nam, thì người kia không phải xin ghi chú lần nữa, mà chỉ đề nghị Sở Tư pháp nơi đã thực hiện ghi chú cấp Giấy xác nhận đã ghi vào sổ việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài.
Tại mục 2 khoản 7 Điều 1 Nghị định 69/2006/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình có yếu tố nước ngoài không có điều, khoản nào quy định việc từ chối không công nhận việc ghi chú kết hôn, cho nên STP tỉnh Tây Ninh đang gặp khó khăn trong việc chỉ đạo thực hiện (STP Tây Ninh).
2.7. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm cho ý kiến về việc giải quyết đăng ký kết hôn và ghi chú kết hôn đối với các trường hợp trước đây nữ công dân Việt Nam đã kết hôn với người nam nước ngoài do sử dụng giấy tờ giả để xuất cảnh định cư ở nước ngoài (chủ yếu là Hàn Quốc) nhằm đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em (STP Tây Ninh).
+ Trong trường hợp, đương sự có hành vi sử dụng giấy tờ giả để xuất cảnh, hiện nay đã định cư và sinh sống ổn định ở nước ngoài và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nay về Việt Nam làm thủ tục công nhận việc kết hôn đã tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài thì xem xét xử phạt hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh. Việc đăng ký kết hôn, ghi chú kết hôn được giải quyết như những trường hợp thông thường khác.
Bộ Tư pháp sẽ có Công văn trả lời Sở Tư pháp Tây Ninh cụ thể nội dung này trong thời gian tới.
Trả lời:
- Về đề nghị giao thẩm quyền quyết định việc ghi chú việc ly hôn cho Giám đốc Sở Tư pháp: Bộ Tư pháp ghi nhận kiến nghị của địa phương. Sau khi công việc này đi vào nề nếp, Bộ sẽ giao cho các địa phương thực hiện và chỉ hướng dẫn chung.
2.9. Về bảo vệ quyền lợi phụ nữ Việt Nam trong các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài: Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Chính phủ cần chỉ đạo khảo sát nắm tình hình gia đình có phụ nữ kết hôn với người nước ngoài và chỉ đạo tuyên truyền sâu rộng về những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi, danh dự và nhân phẩm của người phụ nữ; tạo điều kiện hỗ trợ vốn trong sản xuất đối với nữ giới là lao động nhàn rỗi trong nông thôn nhằm hạn chế tình trạng buôn bán phụ nữ trong việc lợi dụng kết hôn có yếu tố nước ngoài đã và đang xảy ra; tăng cường cơ chế phối hợp trong thẩm tra, xác minh giữa cơ quan công an, tư pháp và các ngành có liên quan khác nhằm phát hiện, ngăn chặn các trường hợp không đủ điều kiện kết hôn, vi phạm pháp luật… (STP Hưng Yên)
2.10. Đề nghị quy định thẩm quyền cấp lại bản chính giấy khai sinh thuộc UBND cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh trước; chuyển thẩm quyền thay đổi, cải chính hộ tịch cho người dưới 14 tuổi cho UBND cấp huyện (STP Quảng Bình).
2.11. Đề nghị bỏ xử phạt hành chính trong trường hợp khai tử; trong thủ tục đăng ký khai sinh (STP Quảng Bình).
2.12. Đề nghị hướng dẫn về thủ tục, thẩm quyền xác nhận tình trạng hôn nhân đối với những người đi lao động, làm ăn bất hợp pháp ở nước ngoài (STP Quảng Bình).
2.13. Đề nghị hướng dẫn: trường hợp đứa trẻ được sinh trong trại giam, không còn người thân, mẹ đang chấp hành hình phạt tù thì ai là người đi làm thủ tục đăng ký khai sinh; trường hợp bố là người Việt Nam định cư ở nước ngoài đăng ký kết hôn tại Việt Nam với người nước ngoài, khi sinh con đang ở nước ngoài thì đăng ký khai sinh ở đâu? Trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Trung Quốc, sống và sinh con tại Trung Quốc nhưng không đăng ký kết hôn nên không khai sinh cho con được ở Trung Quốc, sau đó 2 người bỏ nhau và vợ về Việt Nam sinh sống và đề nghị khai sinh cho con tại Việt Nam (STP Phú Yên).
- Trường hợp trẻ được sinh trong trại giam, không còn người thân, mẹ đang chấp hành hình phạt tù: khi nhận được kiến nghị của địa phương, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn theo hướng người đi đăng ký khai sinh có thể là Giám thị trại giam. Đây là trường hợp đặc biệt, do đó không đưa vào quy định tại văn bản quy phạm pháp luật.
- Trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Trung Quốc, sống và sinh con tại Trung Quốc nhưng không đăng ký kết hôn nên không khai sinh cho con được ở Trung Quốc, sau đó 2 người bỏ nhau và vợ về Việt Nam sinh sống và đề nghị khai sinh cho con tại Việt Nam: Trường hợp này được hướng dẫn cụ thể tại Mục 1 Phần II, Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì:
- Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn;
- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003)”.
Mục 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000;
Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Điểm c, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10).
Trả lời: Do hiện nay, việc tra cứu danh sách những người đã được Chủ tịch nước cho thôi quốc tịch Việt Nam vẫn phải thực hiện thủ công, nên thời gian trả lời các địa phương thường bị chậm. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng cơ sở dữ liệu về quốc tịch, dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2011. Từ đầu năm 2010, Bộ Tư pháp đã thực hiện việc cho đăng tải danh sách những người được Chủ tịch nước cho nhập, cho trở lại và cho thôi quốc tịch Việt Nam trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Trả lời: Theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, thì chỉ những người không có đủ giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định tại Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày 01/7/2009, thì mới được xem xét giải quyết cho nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ quy định tại Điều 8 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Tất cả các trường hợp khác xin nhập quốc tịch Việt Nam thì đều phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 19 và Điều 20 Luật Quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế thì những người không quốc tịch cư trú dưới 20 năm vì không có giấy tờ tùy thân và không thể đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam nên sẽ gặp khó khăn khi làm hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam. Bộ Tư pháp đang tập hợp phản ánh của địa phương, phối hợp với Bộ Ngoại giao (đang đề xuất đàm phán và ký kết Điều ước song phương với các nước láng giềng về giải quyết giấy tờ pháp lý cho những người di cư tự do) để có cơ sở pháp lý giải quyết vấn đề này.
Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam (người nước ngoài, người không quốc tịch đang thường trú tại VN) phải nộp Thẻ thường trú do Công an Việt Nam cấp. Tuy nhiên Sở Tư pháp hướng dẫn đương sự liên hệ với Công an đều từ chối cấp Thẻ Thường trú. Do vậy hồ sơ của những đối tượng này hiện đang gặp khó khăn, không thể hoàn chỉnh. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Công an có hướng chỉ đạo để Công an cấp tỉnh xem xét cấp Thẻ thường trú theo quy định (STP Đà Nẵng).
2.18. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm cho ý kiến chỉ đạo về việc giải quyết đăng ký hộ tịch, quốc tịch cho đối tượng là Việt Kiều từ Campuchia trở về; phụ nữ Campuchia lấy chồng là bộ đội Việt Nam và người Campuchia có chồng, vợ là người Việt Nam. Theo Công văn số 187/STP-HCTP ngày 17/02/2011 của STP Tây Ninh (STP Tây Ninh).
2.19. Từ khi thực hiện Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì công tác chứng thực được giải quyết nhanh chóng và thông thoáng hơn không gây phiền hà cho người dân. Tuy nhiên, việc phân cấp phường, xã chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ văn bản bằng tiếng Việt, Phòng Tư pháp thực hiện chứng thực các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài đôi lúc gây khó khăn cho người dân khi cùng 1 lúc chứng thực 02 loại văn bản (tiếng Việt và tiếng nước ngoài) thì họ phải đến 2 cấp thẩm quyền khác nhau để được giải quyết. Kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu bổ sung thẩm quyền cho Phòng Tư pháp cấp huyện được chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản tiếng Việt (STP Tây Ninh).
Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung đã được đăng tải trên cổng thông tin điện tử để ý kiến Bộ ngành, cơ quan tổ chức, sẽ trình Chính phủ trong tháng 8 năm 2011.
Trả lời: Tại điểm 7 Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số Điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký đã hướng dẫn cụ thể về thù lao dịch thuật. Theo đó mức thù lao dịch thuật do người yêu cầu dịch và người dịch tự thỏa thuận trên cơ sở biểu mức thù lao dịch thuật do Sở Tư pháp phối hợp với Sở Tài chính xây dựng. Tuy nhiên quy định biểu mức dịch thuật này không được ban hành dưới dạng VBQPPL nên tại một số địa phương cộng tác viên dịch thuật đưa ra mức giá quá cao gây khó khăn cho người có yêu cầu dịch thuật.
Trả lời: Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu cụ thể, khảo sát địa phương về vấn đề này để có ý kiến với Bộ Tài chính. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008.
Trả lời: Lưu trữ văn bản là cơ sở để đối chiếu khi cần thiết và thực hiện pháp luật về văn thư nên quy định này là bắt buộc.
Điều 21 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 quy định đối với việc chứng thực phải được lưu một bản sao để làm căn cứ đối chiếu khi cần thiết. Cơ quan tổ chức có thẩm quyền cấp bản sao từ sổ gốc, Chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký phải thực hiện các biện pháp an toàn, phòng chống cháy, nổ, ẩm, ướt, mối mọt đối với sổ sách, giấy tờ được lưu trữ. Thời hạn lưu trữ là 02 năm.
2.23. Đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể về việc cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam (STP Hưng Yên).
2.24. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, triển khai cụ thể thực hiện Luật Lý lịch tư pháp để các địa phương thuận lợi trong quá trình thực hiện (STP Kon Tum, Hưng Yên, Đăk - Lăk, Cần Thơ, Hà Nội, Khánh Hòa, Tây Ninh, Long An).
Ngày 27/6/2011, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 13/2011/TT-BTP về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu số lý lịch tư pháp.
Bên cạnh đó, để bảo đảm triển khai đồng bộ, có hiệu quả Luật Lý lịch tư pháp, Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Quyết định số 2369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đưa công tác quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp đi vào nền nếp, ngày 06 tháng 5 năm 2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có văn bản số 35-CV/BCS gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị phối hợp triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết thi hành Luật tại các địa phương.
Bộ Tư pháp đã có Công văn số 3101/BTP-TTLLTPQG ngày 31/5/2011 gửi Tòa án nhân dân tối cao, trong đó, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án nhân dân địa phương trong việc cung cấp trích lục bản án hình sự, các quyết định liên quan đến thi hành án hình sự và các thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã cho Sở Tư pháp theo đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp và Quyết định số 2369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Tiếp đó, ngày 26 tháng 7 năm 2011, Bộ Tư pháp có Công văn số 4311/BTP-TTLLTPQG gửi Bộ Công an, trong đó Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Công an quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp theo đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp, Luật Thi hành án hình sự và Nghị định số 111/2010/NĐ-CP của Chính phủ”
Trả lời: Ngày 23/11/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp. Tại Điều 6 của Nghị định quy định Bộ Tài chính có thẩm quyền hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Để chuẩn bị cho việc xây dựng Đề án lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp, ngày 20 tháng 5 năm 2011, Bộ Tư pháp có Công văn số 2906/BTP-TTLLTPQG gửi Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Quyết định số 94/2004/QĐ-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 để phục vụ cho việc xây dựng Đề án nêu trên. Các Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Quyết định số 94/2004/QĐ-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 về Bộ Tư pháp trước ngày 03 tháng 6 năm 2011.
2.26. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm xây dựng Đề án tin học hóa hoạt động quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp về án tích (STP Cần Thơ).
Ngày 14/4/2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 496/QĐ-BTP Phê duyệt Kế hoạch công tác năm 2011 của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia. Trong Kế hoạch công tác năm 2011 của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia có nhiệm vụ phối hợp với Cục Công nghệ thông tin tiến hành xây dựng, hoàn thành công cụ hỗ trợ ban đầu, phục vụ cho việc xử lý số liệu, cập nhật, xử lý, trao đổi cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và tại các Sở Tư pháp và xây dựng Báo cáo khả thi Dự án tin học hóa lý lịch tư pháp.
2.27. Thường xuyên tiến hành mở lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp theo quy định của luật (STP Cần Thơ).
- Về đào tạo đội ngũ công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp: Ngày 04/4/2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 436/QĐ-BTP phê duyệt Kế hoạch mở lớp đào tạo nghiệp vụ lý lịch tư pháp khóa II.
- Về bồi dưỡng công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp: Theo Công văn số 100/BTP-KHTC ngày 06 tháng 5 năm 2011 của Bộ Tư pháp, năm 2011, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia sẽ có 01 lớp tập huấn kỹ năng sử dụng công cụ hỗ trợ ban đầu cho xử lý thông tin lý lịch tư pháp và 01 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ lý lịch tư pháp.
Trả lời: Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 111/2010/NĐ-CP “Cơ quan đăng ký hộ tịch khi ban hành Quyết định thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên; cấp Giấy chứng tử có trách nhiệm gửi bản chính hoặc bản sao quyết định, giấy chứng tử đó cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp”.
Đối với quy định về việc cơ quan có thẩm quyền cung cấp Giấy chứng tử cũng tương tự như trên do cơ quan có thẩm quyền không thể xác định được người chết có lý lịch tư pháp hay không, do vậy, Nghị định số 111/2010/NĐ-CP quy định cơ quan có thẩm quyền đăng ký khai tử có trách nhiệm gửi Giấy chứng tử cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp nhằm mục đích khi đã xác định được những trường hợp có lý lịch tư pháp nhưng đã mất, thì có thể xóa bỏ những thông tin về những trường hợp đó trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Khoản 2 Điều 20 của Nghị định số 111/2010/NĐ-CP quy định: “Bản sao bản án, trích lục bản án, quyết định thi hành án hình sự, giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt, Lý lịch tư pháp của cá nhân được lưu trữ tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp đến khi cá nhân qua đời”. Tuy nhiên, trên thực tế, những trường hợp có lý lịch tư pháp là những trường hợp từ đủ 14 tuổi trở lên, hơn nữa, số lượng các trường hợp đăng ký khai tử tại các cơ quan hộ tịch hàng năm là tương đối lớn, do vậy, nếu theo quy định của Nghị định số 111/2010/NĐ-CP, tất cả các trường hợp đăng ký khai tử đều phải gửi về cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, thì sẽ rất khó khăn cho những cơ quan này trong việc xử lý thông tin. Do đó, trong dự thảo Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn chi tiết trình tự, thủ tục cung cấp, trao đổi thông tin lý lịch tư pháp dự kiến quy định theo hướng đối với thông tin về đăng ký khai tử, cơ quan hộ tịch có thẩm quyền chỉ cung cấp Giấy chứng tử cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đối với những trường hợp được đăng ký khai tử từ đủ 14 tuổi trở lên.
2.29. Quy định về thời gian cấp Phiếu lý lịch tư pháp quá ít trong khi thời gian thực hiện tra cứu thông tin lý lịch tư pháp tại cơ quan công an không thể đảm bảo vì thế công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì thời gian cấp Phiếu lý lịch tư pháp là 24h (khoản 2 Điều 48 Luật LLTP và khoản 2 Điều 25 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP), nếu không có cơ chế phối hợp cụ thể thì không thể thực hiện được (STP Đà Nẵng).
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đặt ra yêu cầu không chỉ tiếp nhận, cập nhật và xử lý thông tin lý lịch tư pháp từ ngày Luật này có hiệu lực mà còn phải cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp đã có từ trước. Để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đầy đủ, đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý lý lịch tư pháp, đồng thời tạo thuận lợi cho việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật Lý lịch tư pháp xác định rõ nhiệm vụ của Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp về án tích, thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã có trước ngày Luật này có hiệu lực để phục vụ việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp và xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
Theo quy định tại Điều 48 của Luật Lý lịch tư pháp thì “Thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài…, trường hợp phải xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích… thì thời hạn không quá 15 ngày. Trường hợp khẩn cấp quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này thì thời hạn không quá 24 giờ, kể từ thời điểm nhận được yêu cầu”. Theo tinh thần của Luật Lý lịch tư pháp, thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp chỉ áp dụng đối với các trường hợp mà cơ sở dữ liệu lưu trữ đầy đủ thông tin lý lịch tư pháp có từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 (ngày Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực pháp luật). Đối với các thông tin lý lịch tư pháp có trước ngày 01 tháng 7 năm 2010, do phải phối hợp tra cứu, xác minh thông tin tại nhiều cơ quan, nên thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp thường không bảo đảm thời gian theo Luật định. Chúng ta phải chấp nhận thực tế này trong giai đoạn quá độ. Tuy nhiên, các Sở Tư pháp cần chủ động trong việc phối hợp tra cứu, xác minh thông tin với các cơ quan có liên quan; nâng cao trách nhiệm, vai trò của các cơ quan trong việc phối hợp tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp, hạn chế tối đa việc kéo dài thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Mặt khác, các Sở Tư pháp cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và quản lý lý lịch tư pháp, tiến tới thực hiện việc kết nối, chia sẻ thông tin với các cơ quan có liên quan. Bên cạnh đó, các Sở Tư pháp khi thực hiện việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức, cần chủ động giải thích rõ hơn về tình hình phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để người dân hiểu, đồng thời, trong Phiếu hẹn trả kết quả cấp Phiếu lý lịch tư pháp, có thể ghi số điện thoại của bộ phận thực hiện công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp thuộc Sở Tư pháp và hướng dẫn cho người dân đến ngày lấy kết quả có thể gọi điện để xem tình trạng hồ sơ đã được giải quyết như thế nào, tránh tình trạng người dân phải đi lại nhiều lần, gây khó khăn, phiền hà cho người dân. Khi cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đã được xây dựng cơ bản, công tác phối hợp giữa các cơ quan đi vào nền nếp, Bộ Tư pháp sẽ có báo cáo cụ thể với Chính phủ để Chính phủ quy định thời gian cấp Phiếu lý lịch tư pháp phù hợp, khả thi đối với các trường hợp này.
Trả lời:
Về nội dung, để bảo đảm thực hiện đồng bộ, thống nhất nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường trên phạm vi cả nước, đồng thời, thống nhất với phương án đề cập tại Đề án xây dựng Cục Bồi thường nhà nước trực thuộc Bộ Tư pháp và kiện toàn bộ máy tổ chức thuộc Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường mà Bộ Tư pháp đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ thì dự thảo TTLT dự kiến sẽ hướng dẫn, theo đó, nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường sẽ thống nhất giao về Phòng hành chính tư pháp thuộc Sở Tư pháp. Đối với các Sở Tư pháp mà hiện nay trong cơ cấu tổ chức chưa có Phòng Hành chính tư pháp thì giao nhiệm vụ này cho Phòng chuyên môn đảm nhận công tác hành chính tư pháp thực hiện nhiệm vụ có liên quan về quản lý nhà nước về công tác bồi thường.
2.31. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể về đăng ký giao dịch bảo đảm (STP Khánh Hòa, ĐăkLăk)
Triển khai Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp đã chủ trì soạn thảo, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn sau đây:
- Thông tư số 22/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo kê biên việc kê biên tài sản thi thi hành án.
- Thông tư liên tịch số 69/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 18/5/2011 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm, phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và phí sử dụng dịch vụ khách hàng thường xuyên (thay thế Thông tư liên tịch số 03/2007/TTLT-BTC-BTP, Thông tư liên tịch số 36/2008/TTLT-BTC-BTP về lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm, phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm).
- Thông tư liên tịch hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay, đăng ký thế chấp tàu biển;
Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện các dự thảo văn bản này và dự kiến ban hành trong tháng 9/2011.
Trả lời: Theo Quyết định số 482/QĐ-BTP ngày 09 tháng 4 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tư pháp năm 2011, Bộ Tư pháp sẽ chủ trì tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm cho các đối tượng là công chức làm công tác quản lý đăng ký giao dịch bảo đảm của các Sở Tư pháp, cán bộ đăng ký của các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Thời gian dự kiến quý III/2011 (sau khi các văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm được ban hành đầy đủ).
Trả lời: Ngày 14/9/2010, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 3241/BTP-ĐKGDBĐ gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc triển khai thực hiện Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, Bộ Tư pháp cũng đã nêu rõ trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm ở địa phương. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ mới, phức tạp, do vậy, Bộ Tư pháp xác định một trong những nội dung quan trọng của Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm (do Bộ Tư pháp tổ chức theo Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tư pháp năm 2011) là tập huấn, hướng dẫn về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Sở Tư pháp trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Mặt khác, Bộ Tư pháp sẵn sàng phối hợp với Sở Tư pháp triển khai tập huấn, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ, công chức Sở Tư pháp, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức tín dụng trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Cục Đăng ký đã cử Báo cáo viên pháp luật cấp Trung ương tham gia thuyết trình, giới thiệu Nghị định số 83/2010/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tại các địa phương như: Nam Định, Bắc Giang, Bắc Kạn. TP. Đà Nẵng…).
3.1. Đề nghị sửa đổi Luật Công chứng về thẩm quyền bổ nhiệm chức danh Trưởng phòng Công chứng, nên bổ sung các đối tượng là cán bộ lãnh đạo, quản lý của STP và Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện được miễn đào tạo nghề công chứng, vì những cán bộ này đã am hiểu, nắm vững nghiệp vụ công chứng qua thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý và thực thi công vụ, nên bãi bỏ việc niêm yết khai nhận di sản, tuổi tối đa của người đề nghị bổ nhiệm làm Công chứng viên là không được quá 65 tuổi đối với nam, 60 tuổi đối với nữ… (STP Cao Bằng, Hưng Yên, Đắk Lắk).
3.2. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ để cho phép một luật sư ở các tỉnh miền núi có thể cùng hành nghề công chứng và đấu giá viên để khắc phục tình trạng thiếu luật sư, công chứng và đấu giá viên (STP Hà Giang).
điểm c khoản 2 Điều 20 của Luật Công chứng năm 2006 quy định: Công chứng viên bị miễn nhiệm trong trường hợp kiêm nhiệm công việc khác. Đối với trường hợp luật sư đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Công chứng được xem xét để bổ nhiệm làm công chứng viên nhưng khi đăng ký hoạt động hành nghề công chứng thì phải rút tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư và chấm dứt hành nghề luật sư. Vì vậy, việc đề xuất cho phép một luật sư ở các tỉnh miền núi có thể cùng hành nghề công chứng là không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về công chứng.
3.3. Tỉnh Hà Giang đang thiếu luật sư, đề nghị Bộ Tư pháp vận dụng, cho phép các cán bộ đã nghỉ hưu mà trước đó đã làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, nhưng chưa có bằng cử nhân Luật (có Bằng Trung cấp An Ninh, Kiểm sát…) được hành nghề luật sư (STP Hà Giang).
Điều 10 Luật Luật sư). Do vậy, việc cho phép các cán bộ nghỉ hưu chưa có bằng cử nhân luật, trước đó đã làm thẩm phán, kiểm sát viên… hành nghề luật sư là trái với quy định hiện hành của pháp luật về luật sư. Việc yêu cầu luật sư phải có chứng chỉ hành nghề luật sư như quy định tại Điều 10 Luật Luật sư nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ của luật sư.
Trả lời: Quy định về việc thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư đã được nghiên cứu và quy định tại Điều 11 của Dự thảo Thông tư hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư (sau đây gọi tắt là Dự thảo Thông tư). Dự thảo Thông tư này đã nhiều lần được gửi lấy ý kiến và đang được hoàn thiện để trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp ký ban hành. Dự thảo Thông tư được ban hành sẽ thay thế Thông tư số 02/2007/TT-BTP ngày 25/7/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư và Nghị định 131.
Trả lời: Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT được ban hành trước Luật Công chứng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Trong đó, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP quy định cho phép Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao có thẩm quyền xác nhận các văn bản trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Do vậy, một số quy định tại Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT không còn phù hợp với quy định của Luật Công chứng như: thời hạn công chứng hợp đồng, văn bản; xác nhận hợp đồng, văn bản của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế…
3.6. Đề nghị Bộ Tư pháp tổ chức định kỳ các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứng viên (STP Đà Nẵng)
3.7. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng giao dịch được UBND cấp xã chứng thực khi chuyển giao cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện; hướng dẫn cụ thể đối với các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho Công chứng viên (STP Vĩnh Phúc).
- Về hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng giao dịch được UBND cấp xã chứng thực khi chuyển giao cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện:
- Về việc hướng dẫn cụ thể đối với các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên:
3.8. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm hướng dẫn về quy hoạch các tổ chức hành nghề công chứng của Thành phố (STP Hà Nội)
Ngay trong tháng 3/2011, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Hội nghị tập huấn về Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020 theo Quyết định số 240/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tiếp theo Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 1428/BTP-BTTP ngày 23/3/2011 về việc thực hiện Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công văn số 2162/BTP-BTTP ngày 22/4/2011 về việc thực hiện Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/2/2011, gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc xây dựng Đề xuất quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương.
3.9. Đề nghị Bộ Tư pháp giúp Chính phủ trình Quốc hội để sớm ban hành Luật Giám định tư pháp thay thế Pháp lệnh về Giám định tư pháp năm 2004 (STP Hà Giang, Hòa Bình, Hưng Yên).
3.10. Đề nghị Bộ Tư pháp lập và công bố Danh sách các tổ chức chuyên môn đủ điều kiện thực hiện giám định tư pháp trong lĩnh vực xây dựng (STP Long An).
3.11. Đề nghị Bộ Tư pháp mở lớp tập huấn để tập huấn cho các giám định viên tư pháp ở địa phương vì ở tỉnh chưa đủ điều kiện chuyên môn để tập huấn (Sở Tư pháp Sóc Trăng, Phú Thọ).
3.12. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành quy định chi tiết phí giám định tư pháp cho giám định viên thực hiện vụ việc; ban hành quy trình, quy chuẩn chuyên môn cho các giám định (STP Phú Thọ, Đà Nẵng).
Về quy trình, quy chuẩn giám định tư pháp, hiện nay các Bộ, ngành chủ quản đang triển khai thực hiện nhiệm vụ này theo quy định của Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám tư tư pháp” và Chỉ thị số 1958/CT-TTg ngày 25/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp cấp bách nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả giám định tư pháp. Tuy nhiên, đây là nội dung nhiệm vụ khó, phức tạp, các Bộ, ngành chủ quản cần có thêm thời gian khảo sát, rà soát và nghiên cứu các quy chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực chuyên môn thuộc thẩm quyền quản lý của mình cũng như đặc thù của giám định tư pháp. Do đó, tiến độ thực hiện nhiệm vụ này chưa bảo đảm thời hạn được giao.
Trả lời: Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 96/2006/TT-BTC về phí đấu giá và gửi lấy ý kiến của các địa phương trong tháng 5/2011. Bộ Tài chính đang khẩn trương chỉnh lý dự thảo và sớm ban hành Thông tư này.
3.14. Sở Tư pháp Gia Lai có 2 văn bản kiến nghị tới Vụ Bổ trợ tư pháp (số 573/STP-BTTP ngày 12/11/2010 về đấu giá và số 60/STP-HCTP-BTTP ngày 22/02/2011 về công chứng) nhưng chưa được trả lời (STP Gia Lai).
- Về công văn số 573/STP-BTTP ngày 12/11/2010 về đấu giá: Sau khi nhận được Công văn nêu trên, do có nhiều nội dung thuộc chức năng của một số đơn vị của Bộ Tư pháp nên Vụ Bổ trợ tư pháp đã phối hợp với các đơn vị liên quan (Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật) nghiên cứu và soạn thảo văn bản trả lời Sở Tư pháp Gia Lai: Công văn số 161/BTP-BTTP ngày 14/01/2011. Vì vậy, đề nghị Sở Tư pháp Gia Lai kiểm tra lại thông tin này.
3.15. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể về bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất có giá trị lớn hoặc phức tạp để thành lập Hội đồng bán đấu giá trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 20 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP (STP Hà Giang).
3.16. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu để Chính phủ sớm trình Quốc hội Luật bán đấu giá tài sản (STP Vĩnh Phúc).
3.17. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét phân cấp cho cấp huyện thành lập Hội đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất ở các vùng sau, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn, giá trị quyền sử dụng đất dưới 30 triệu đồng/1 thửa, tài sản có giá trị dưới 10 triệu đồng; xem xét, hướng dẫn việc bán đấu giá tài sản có giá trị nhỏ thuộc thẩm quyền cấp huyện có thể tập trung lại sau đó tổ chức trong cùng một phiên bán đấu giá; hướng dẫn việc tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp từ chối cử đấu giá viên trong những trường hợp cụ thể như giá trị tài sản nhỏ, chi phí cho đấu giá viên đi lại lớn hơn phí đấu giá thu được. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất được thu một tỷ lệ % nhất định của người bán đấu giá để đảm bảo cho việc chi phí bán đấu giá (thực tế bán đấu giá quyền sử dụng đất tại Hà Giang thu phí bán đấu giá không đủ để thanh toán tiền công tác phí cho cán bộ) (STP Hà Giang).
Vấn đề thu phí bán đấu giá của người có tài sản là quyền sử dụng đất đã được nghiên cứu và quy định trong dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 96/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí đấu giá.
3.18. Hiện nay Thông tư số 137/2010/TT-BTC có mâu thuẫn với Điều 37 Nghị định 128/2008/NĐ-CP về quản lý số tiền thu sung quỹ nhà nước do vi phạm hành chính. Đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn thống nhất việc thu phí bán đấu giá (STP Hà Giang).
khoản 2 Điều 1 Thông tư 137/2010/TT-BTC. Đến nay, Bộ Tài chính đang xây dựng phương án cụ thể về vấn đề này và dự kiến đưa vào nội dung dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 12/2010/TT-BTC ngày 20/01/2010 của Bộ Tài chính.
Trả lời: Hiện nay, theo quy định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và Thông tư 23/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp gửi trực tiếp Chứng chỉ hành nghề đấu giá cho người đề nghị cấp Chứng chỉ theo quy định mà không gửi qua Sở Tư pháp, vì đây là thủ tục hành chính do cá nhân thực hiện. Sau khi cấp Chứng chỉ hành nghề cho đấu giá viên thì Bộ Tư pháp gửi 01 bản quyết định kèm theo danh sách đấu giá viên cho Sở Tư pháp nơi người đó đăng ký thường trú để theo dõi, quản lý trên địa bàn.
Trả lời: Để triển khai Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản, ngoài việc chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định, Bộ Tư pháp, cũng rất quan tâm đến việc phổ biến, tập huấn các quy định pháp luật mới và hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các địa phương. Trong điều kiện Bộ Tư pháp chưa tổ chức được ngay các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đấu giá viên của nhiều địa phương, đề nghị Sở Tư pháp Hà Nội chủ động đề xuất về nhu cầu tập huấn, nội dung chương trình và chuẩn bị kế hoạch tổ chức tập huấn cho đội ngũ đấu giá viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trả lời: Điều 16 Thông tư số 23/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Nghị định 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản đã quy định khá rõ về vai trò của tổ chức bán đấu giá tài sản, tổ chức phát triển quỹ đất trong việc phối hợp thực hiện bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất. Do vậy, việc phân công tổ chức, đơn vị nào chuẩn bị hồ sơ đấu giá quyền sử dụng đất phải căn cứ vào quy định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP, Thông tư số 23/2010/TT-BTP, các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai và quy chế bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất trên địa bàn do UBND cấp tỉnh ban hành. Đối với thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp cần chủ động tham mưu cho UBND thành phố khẩn trương sửa đổi, bổ sung và sớm ban hành quy chế bán đấu giá tài sản, quy chế bán đấu giá quyền sử dụng đất phù hợp với pháp luật hiện hành về bán đấu giá tài sản và pháp luật về đất đai.
Trả lời: Bán đấu giá tài sản là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về bán đấu giá tài sản. Do vậy, một doanh nghiệp khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện về thành lập doanh nghiệp và điều kiện hoạt động trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản (Điều 16 Nghị định 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản) thì không thể từ chối đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp đó. Hiện tại, Bộ Tư pháp chưa ban hành tiêu chí đối với việc phát triển doanh nghiệp bán đấu giá tài sản vì đây là quyền tự do thành lập doanh nghiệp. Việc định hướng phát triển doanh nghiệp bán đấu giá tài sản tại địa phương cần căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương, phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
Trả lời: Điều 19 Thông tư số 23/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm lập danh sách, công bố danh sách, cập nhật theo định kỳ hàng quý danh sách Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, chi nhánh của doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, danh sách đấu giá viên trên địa bàn tỉnh, thành phố trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của Sở Tư pháp để các tổ chức, cá nhân biết và liên hệ. Vì vậy, Hội đồng bán đấu giá tài sản cấp huyện có thể tham khảo thông tin nêu trên hoặc chủ động liên hệ với Sở Tư pháp để biết thông tin, liên hệ với các tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp trên địa bàn để ký hợp đồng thuê đấu giá viên điều hành.
Trả lời: Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn đấu giá quyền sử dụng đất, Bộ Tư pháp đang tiến hành rà soát các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản và bán đấu giá quyền sử dụng đất. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu việc sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng văn bản thay thế Quyết định 216/2006/QĐ-TTg để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Trả lời: Nhằm triển khai khi hành Luật Trọng tài thương mại, thời gian qua, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan soạn thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Trọng tài thương mại, trong đó quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp. Ngày 10/3/2011, Vụ Bổ trợ tư pháp đã có Công văn gửi các Sở Tư pháp yêu cầu rà soát, đánh giá về các tổ chức trọng tài và đội ngũ trọng tài viên trên địa bàn (Công văn số 1031/BTP-BTTP). Để thi hành hiệu quả Luật Trọng tài thương mại và Nghị định của Chính phủ, Bộ Tư pháp đề nghị Sở Tư pháp Hà Nội và các địa phương khác cần chủ động xây dựng kế hoạch triển khai Luật Trọng tài thương mại và Nghị định hướng dẫn Luật này, trong đó chú trọng công tác theo dõi, quản lý và tăng cường kiểm tra. Trong phạm vi thẩm quyền quản lý tại địa phương, Sở Tư pháp có thể tổ chức các cuộc họp, buổi làm việc với các tổ chức trọng tài trên địa bàn để đôn đốc việc triển khai các văn bản pháp luật mới về trọng tài thương mại, nhắc nhở việc thực hiện chế độ báo cáo, cung cấp thông tin theo quy định và chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong tổ chức, hoạt động trọng tài. Ngoài ra, Sở Tư pháp Hà Nội cũng cần chủ động hơn nữa và thường xuyên liên hệ với Vụ Bổ trợ tư pháp để có hướng dẫn kịp thời trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực trọng tài thương mại.
4.1. Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Quốc hội sớm ban hành Luật Phổ biến giáo dục pháp luật (STP Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ).
4.2. Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, đồng thời tăng kinh phí cho công tác này (STP Hưng Yên).
Như vậy, việc chỉ đạo, hướng dẫn chung các bộ, ngành, địa phương tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, việc ban hành và tổ chức thực hiện các Chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật nêu trên đã thể hiện sự quan tâm đầu tư trực tiếp của Nhà nước cho công tác này (kinh phí thực hiện các chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đều được bảo đảm từ ngân sách nhà nước). Hiện nay, việc quản lý, sử dụng kinh phí dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như kinh phí thực hiện các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/05/2010 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (thay thế Thông tư số 63/2005/TT-BTC ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính). Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP đã bổ sung nhiều nội dung chi, tăng mức chi lên 50% để phù hợp với tình hình thực tế tại các bộ, ngành, địa phương và theo đúng chỉ đạo của Chính phủ.
4.3. Đề nghị Bộ Tư pháp và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Quy chế mẫu về cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên Mặt trận trong công tác chỉ đạo hoạt động hòa giải ở cơ sở. Bên cạnh đó, đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở vì sau 10 năm Pháp lệnh được ban hành đến nay, một số nội dung không còn phù hợp (STP Hưng Yên).
Triển khai thực hiện các giải pháp đã được hội nghị tổng kết đề ra, ngày 24 tháng 4 năm 2009, Bộ Tư pháp và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ký ban hành Chương trình phối hợp số 1285/CTPH-BTP-BTTUBTUMTTQVN về tăng cường thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ trong công tác hòa giải cơ sở.
4.4. Đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản chấn chỉnh về công tác PBGDPL nhằm xác định công tác PBGDPL là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, gắn với việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng và nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương, đưa nội dung PBGDPL là một tiêu chí đánh giá thi đua, khen thưởng trong ngành Tư pháp (STP Vĩnh Phúc).
Hiện nay, hàng năm, Bộ Tư pháp ban hành Bản tiêu chí xếp hạng Sở Tư pháp làm cơ sở đánh giá xếp hạng các Sở Tư pháp, trong đó có các tiêu chí thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Bản tiêu chí này là một trong những cơ sở để đánh giá việc thi đua, khen thưởng trong Ngành Tư pháp.
Trả lời: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ đã duy trì thường xuyên, nề nếp công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra ở các Bộ, ngành, địa phương. Tại các phiên họp thường kỳ 6 tháng và năm, Hội đồng của Chính phủ đã đề ra kế hoạch, định hướng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 6 tháng và năm. Ngay từ đầu năm, Cơ quan thường trực Hội đồng của Chính phủ đã ban hành kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên toàn quốc. Trên cơ sở kế hoạch, hướng dẫn của Hội đồng phối hợp của Chính phủ, Hội đồng phối hợp các Bộ, ngành, đoàn thể trung ương và Hội đồng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động, kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, Hội đồng của Chính phủ và Cơ quan thường trực của Hội đồng (Bộ Tư pháp) còn ban hành văn bản hướng dẫn về công tác thi đua - khen thưởng của Hội đồng các cấp, ban hành kế hoạch và hướng dẫn áp dụng, nhân rộng các mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả, những cách làm mới, phổ biến các văn bản pháp luật quan trọng, văn bản mới được ban hành, tổ chức các đợt tuyên truyền, phổ biến pháp luật phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước, Bộ, ngành và địa phương như: Triển khai mô hình “Ngày Pháp luật' trên phạm vi toàn quốc, hướng dẫn tổ chức đợt cao điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật phục vụ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 …
Trong thời gian tới, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ tiếp tục quan tâm đến công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, trong đó chú trọng hướng dẫn, nhân rộng mô hình, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, những cách làm mới, có hiệu quả. Bên cạnh việc kiểm tra định kỳ, Hội đồng của Chính phủ sẽ thực hiện việc kiểm tra đột xuất công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Hội đồng của Chính phủ tăng cường hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng và thực hiện khen thưởng định kỳ, theo đợt để động viên, khuyến khích những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo động lực thu hút các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia tích cực hơn vào công tác này.
Trả lời:
Thực hiện Chương trình, Đề án trên, hàng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức từ 8 - 10 lớp tập huấn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức pháp luật cho Báo cáo viên cấp trung ương và cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp hỗ trợ kinh phí và hướng dẫn các tỉnh, thành phố thực hiện chỉ đạo điểm tổ chức gần 100 lớp tập huấn nghiệp vụ cho Báo cáo viên pháp luật cấp huyện và hòa giải viên, tuyên truyền viên cơ sở.
- Về chế độ thù lao cho Báo cáo viên pháp luật hiện nay đang được pháp luật thực hiện theo Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21/9/2010 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Trả lời: Hàng năm, Bộ Tư pháp đã tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn các Sở Tư pháp tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng trên. Thực hiện các chương trình, đề án phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp còn trực tiếp hỗ trợ kinh phí cho các tỉnh, thành phố chỉ đạo điểm để tổ chức tập huấn cho nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL của địa phương mình. Bên cạnh đó, Bộ cũng biên soạn nhiều tài liệu pháp luật, tài liệu nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật các đối tượng trên để hỗ trợ địa phương phục vụ bồi dưỡng, tập huấn.
Trả lời: Tại Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định cụ thể các nội dung liên quan đến việc xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật. Ngày 08/7/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1053/QĐ-TTg về việc hỗ trợ kinh phí thực hiện xây dựng, quản lý tủ sách pháp luật năm 2010, theo đó cấp 18.106 triệu đồng hỗ trợ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện xây dựng, quản lý tủ sách pháp luật cấp xã theo quy định tại Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg. Sau khi Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg được ban hành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã chủ động ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và tổ chức thực hiện Quyết định trên ở địa phương.
4.9. Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo việc tổ chức thực hiện đề án, chương trình quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật cần tập trung về một đầu mối, tránh chồng chéo (STP Long An).
4.10. Về việc triển khai thực hiện Thông tư số 18/2010/TT-BTP ngày 05/11/2010 của Bộ Tư pháp quy định về Báo cáo viên pháp luật. Đề nghị Bộ Tư pháp cho biết: Mẫu Thẻ Báo cáo viên pháp luật bao giờ được phát hành? Nếu chậm phát hành, ảnh hưởng đến tiến độ cấp Thẻ và gửi Danh sách Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, cấp huyện đã được công nhận và cấp thẻ theo đề nghị của Bộ Tư pháp tại Công văn số 440/BTP-PBGDPL có thay đổi hay không? (STP Kon Tum).
4.11. Cần có chính sách trợ giá đối với các loại sách pháp luật nhằm tạo điều kiện để người dân tiếp cận với các văn bản pháp luật được dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, việc xây dựng tủ sách pháp luật không chỉ quan tâm xây dựng đặt tại văn phòng Ủy ban nhân dân cấp xã mà cần phải nghiên cứu xây dựng mô hình tủ sách, ngăn sách pháp luật cho từng vùng, khu vực dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chính trị của địa phương (STP Hưng Yên).
Thứ nhất, về kiến nghị chính sách trợ giá đối với sách pháp luật:
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đang có một số chính sách tạo điều kiện cho địa phương, cơ sở về sách, tài liệu pháp luật, cụ thể là:
- Theo quy định tại Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật, mức chi hàng năm để duy trì và bổ sung sách, báo mới cho mỗi Tủ sách pháp luật cấp xã tối thiểu là 02 triệu đồng/năm. Đối với các đơn vị cấp xã thuộc các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo có thể quy định mức cao hơn nhằm đảm bảo có đủ số sách, tài liệu luân chuyển giữa các bản, làng. Các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách và các đơn vị cấp xã thuộc huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 thì kinh phí để xây dựng, quản lý Tủ sách pháp luật do ngân sách Trung ương cấp.
Thứ hai, về kiến nghị xây dựng mô hình tủ sách cho từng vùng, khu vực:
Điều 3 Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg đã quy định việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật cần theo hình thức, biện pháp phù hợp với đặc thù từng vùng, miền, từng cơ quan, đơn vị và phải bảo đảm tiết kiệm, khai thác sử dụng có hiệu quả. Địa điểm đặt Tủ sách pháp luật cấp xã cũng được quy định mang tính định hướng tại Điều 5 của Quyết định để đơn vị trực tiếp quản lý tủ sách chủ động lựa chọn: phòng tiếp dân, phòng thủ tục hành chính “một cửa” của UBND cấp xã hoặc nơi khác, nhưng phải thuận tiện cho việc quản lý, khai thác.
5. Về công tác trợ giúp pháp lý (TGPL)
Trả lời: Hoạt động TGPL và TGPL lưu động là hoạt động nghiệp vụ của Trung tâm TGPL, được quy định tại Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP và được dự toán, sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách nhà nước. Sở Tư pháp cần chỉ đạo Trung tâm TGPL lập dự toán ngân sách hàng năm bảo đảm hoạt động TGPL của Trung tâm.
Về chi cho hoạt động TGPL lưu động: hiện nay chế độ công tác phí đã được quy định tại Thông tư số 97/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 06/7/2010, đề nghị Trung tâm căn cứ vào quy định này để lập dự toán và sử dụng để chi theo quy định.
Trả lời: Năm 2011 là năm đầu tiên triển khai Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc lập dự toán phải được Bộ Tài chính thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nên bị chậm. Đến nay Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 681/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 về việc bổ sung kinh phí năm 2011 cho Bộ Tư pháp. Ngày 17/5/2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 68/QĐ-BTP về việc giao cho Cục TGPL chủ trì thực hiện. Hiện nay, Cục TGPL đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán nguồn kinh phí này, đồng thời chỉ đạo Quỹ TGPL khẩn trương xây dựng dự toán để trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp phê duyệt. Sau khi có Thông tư liên tịch hướng dẫn và dự toán được duyệt, Cục TGPL sẽ thông báo và chuyển kinh phí hỗ trợ cho các Sở Tư pháp và Trung tâm thực hiện theo Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trả lời: Hàng năm, Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp liên ngành Trung ương tổ chức họp Hội đồng phối hợp để đánh giá kết quả thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC và đề ra các giải pháp, thống nhất chỉ đạo từng ngành trong công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng.
5.4. Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 25 tháng 9 năm 2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan trợ giúp pháp lý nhà nước hướng dẫn mục chi thù lao tham gia tố tụng cho Luật sư rất thấp như vậy sẽ khó thu hút đội ngũ cộng tác viên tham gia trợ giúp pháp lý (STP Tây Ninh).
5.5. Các Câu lạc bộ TGPL tại Tây Ninh hoạt động theo hai nguồn kinh phí: từ Chương trình 135 giai đoạn II (2.000.000 đ/năm) và nhận hỗ trợ từ nguồn kinh phí của quỹ TGPL Việt Nam (200.000 đ/tháng). Nhưng mức hỗ trợ như trên là quá thấp so với điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay (STP Tây Ninh).
- Năm 2011 Quỹ TGPL Việt Nam dự kiến nâng mức hỗ trợ sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL cao hơn 200.000 đồng/Câu lạc bộ/tháng và sẽ thực hiện sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
5.6. Hàng năm, Cục TGPL đều có mở các lớp tập huấn nghiệp vụ TGPL cho Trợ giúp viên pháp lý, nhưng chủ yếu về kỹ năng, phần tập huấn các văn bản pháp luật mới chưa nhiều.
Trả lời: Thực hiện Đề án “Bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015” ban hành kèm theo Quyết định số 10/2008/QĐ-BTP ngày 10/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, hàng năm, Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL cho người thực hiện TGPL trong toàn quốc.
Tuy nhiên, do kinh phí tập huấn mà ngân sách Nhà nước cấp còn hạn chế, Bộ Tư pháp chỉ tập huấn cho một số Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm mà chưa có điều kiện tổ chức tập huấn cập nhật kiến thức pháp luật trong tất cả các lĩnh vực cho tất cả đội ngũ người thực hiện TGPL. Bộ Tư pháp đã in ấn, phát hành tài liệu tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng TGPL. Vì vậy, Sở Tư pháp tỉnh cần chỉ đạo Trung tâm TGPL chủ động tập huấn, bồi dưỡng cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ cho người thực hiện TGPL ở địa phương (Trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên, cộng tác viên) và bản thân các Trợ giúp viên chủ động cập nhật kiến thức pháp luật để thực hiện TGPL có chất lượng.
Trả lời:
- Đối với trường hợp đã thụ lý vụ việc TGPL, nhưng trong quá trình thực hiện phát hiện người được TGPL không thuộc diện được TGPL thì Trung tâm có quyền từ chối không tiếp tục thực hiện TGPL và trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu TGPL, trong đó nêu rõ lý do không tiếp tục thực hiện.
Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý đã quy định:
Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, quy định cụ thể về phụ cấp đối với Trợ giúp viên pháp lý, phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Trung tâm” (STP Lạng Sơn).
- Về phụ cấp trách nhiệm theo nghề:
Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL đã quy định rất cụ thể về phụ cấp trách nhiệm theo nghề và phụ cấp vụ việc của Trợ giúp viên pháp lý:
Thực hiện quy định này, hầu hết các địa phương đã cho Trợ giúp viên pháp lý được hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề và phụ cấp vụ việc ngay sau khi được bổ nhiệm và cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý. Tuy nhiên, đến nay tỉnh Lạng Sơn chưa thực hiện quy định này. Để thực hiện Điều 26 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP và bảo đảm chế độ chính sách cho Trợ giúp viên pháp lý, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2295/BTP-TGPL ngày 16/7/2009 gửi Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố về việc thực hiện chế độ phụ cấp theo nghề đối với Trợ giúp viên pháp lý ….). Theo đó, Bộ Tư pháp đã đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Nội vụ, Sở Tư pháp và Sở Tài chính áp dụng các chế độ chính sách đã được quy định rõ tại Nghị định số 07/2007/NĐ-CP đối với Trợ giúp viên pháp lý kể từ thời điểm được bổ nhiệm và cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý.
- Về phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Trung tâm TGPL
Điều 8 Thông tư liên tịch số 02/2010/TTLT-BTP-BNV. Sở Tư pháp phối hợp với Sở Nội vụ trình Ủy ban nhân dân quyết định xếp hạng Trung tâm TGPL. Trung tâm TGPL thuộc hạng nào thì lãnh đạo Trung tâm được hưởng phụ cấp chức vụ tương ứng theo quy định tại Điều 7, Thông tư liên tịch số 02/2010/TTLT-BTP-BNV.
Trả lời: Để triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/08/2010 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 01/10/2010, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2497/QĐ-BTP về Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg trong đó đã phân công trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị thuộc Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh và Trung tâm TGPL nhà nước các tỉnh có huyện nghèo trong việc triển khai thực hiện các hoạt động của Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg.
5.10. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/12/2007 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng cho phù hợp vì thực tế theo quy định của Thông tư liên tịch số 10 chỉ quy định về lĩnh vực hình sự còn các vụ việc liên quan đến lĩnh vực dân sự chưa được đề cập đến trong Thông tư (STP Hà Giang).
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm như sau:
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư cộng tác viên theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý.
điểm 3 mục III Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-KSNDTC-TANDTC quy định: trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm cấp các quyết định tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sư cộng tác viên đã tham gia tố tụng trong vụ án đó. Các quy định trên đây áp dụng cho tất cả các lĩnh vực tố tụng chứ không chỉ áp dụng cho tố tụng hình sự.
5.11. Đề nghị nghiên cứu, xây dựng thống nhất Chương trình mục tiêu quốc gia, tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện. Đồng thời sớm phân bổ kinh phí triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo để các địa phương chủ động xây dựng và triển khai Kế hoạch hiệu quả (STP Đắk Lắk).
5.12. Đề nghị Cục trợ giúp pháp lý tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ cho Trợ giúp viên, Chuyên viên, Cộng tác viên. Tổ chức giao lưu học hỏi giữa các đơn vị có thành tích, sáng kiến hay trong hoạt động trợ giúp pháp lý (STP Hà Nam, Đắk Lắk).
Năm 2011, Cục TGPL dự kiến tổ chức 02 khóa bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý (khóa VII, VIII năm 2011), tổ chức tập huấn nghiệp vụ TGPL toàn quốc và tập huấn chuyên sâu về kỹ năng TGPL cho các đối tượng đặc thù về các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ người dân (theo khu vực).
6. Công tác tổ chức cán bộ
Trả lời: Trong những năm qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương đã thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về thu hút, tuyển chọn cán bộ; đồng thời, có nhiều cố gắng trong việc ban hành và tổ chức thực hiện một số chính sách nhằm thu hút, tuyển chọn, đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức vào làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tư pháp và các địa phương. Trong giai đoạn 2006 - 2010, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn và đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc ngành Tư pháp. Theo đó, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ và các cơ quan liên quan xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định về phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự, trợ giúp viên pháp lý, giám định viên tư pháp và công chứng viên, văn bản quy định chế độ định mức chi đặc thù cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của ngành Tư pháp như xây dựng, thi hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật …. Năm 2011, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp sẽ xem xét, phê duyệt Đề án làm căn cứ triển khai thực hiện trong Ngành.
6.2. Đề nghị Bộ Tư pháp thống nhất với Bộ Nội vụ sửa đổi bổ sung Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV để tăng biên chế cho Sở Tư pháp khi tăng nhiệm vụ. Đồng thời, đề nghị thống nhất luôn việc quy định số lượng biên chế hành chính và biên chế sự nghiệp cho STP và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc STP để tạo thuận lợi cho STP hàng năm xin đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh bổ sung biên chế (STP Cao Bằng, Hà Nội, Hòa Bình, Khánh Hòa, Quảng Bình, Ninh Bình).
Đồng thời, theo quy định tại Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/03/2010 của Chính phủ về quản lý biên chế công chức thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định giao biên chế công chức trong cơ quan Ủy ban nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Do vậy, Sở Tư pháp cần chủ động phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng kế hoạch biên chế, trong đó đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, khối lượng công việc quá tải và nhu cầu về biên chế trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Trả lời: Việc kiện toàn, tăng cường cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành Tư pháp. Năm 2010, trong quá trình thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Bộ Tư pháp đã có đề xuất gửi Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về việc bố trí tăng thêm cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã. Trên cơ sở đề nghị của Bộ Tư pháp, ngày 27/5/2010, liên Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, trong đó quy định chức danh Tư pháp - Hộ tịch cấp xã là chức danh đầu tiên được ưu tiên, bố trí tăng thêm.
7. Công tác khác
Trả lời: Bộ Tư pháp cho rằng, ý kiến phản ánh của Sở Tư pháp Hưng Yên là đúng. Để quản lý và sử dụng đất đai - nguồn tài nguyên quý giá của đất nước một cách hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm thì việc đảm bảo một hệ thống pháp luật về đất đai đồng bộ, đầy đủ, toàn diện, thống nhất là cần thiết và cấp bách. Để làm được việc này thì việc xác định rõ, nhất quán đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật Đất đai là quan trọng.
Trả lời: Việc giải quyết chế độ, chính sách đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức theo quy định luôn được Bộ Tư pháp quan tâm và tích cực triển khai. Cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp được hưởng chính sách tiền lương theo quy định chung của nhà nước, đồng thời công chức, viên chức ở một số ngạch và các chức danh tư pháp còn được hưởng chế độ phụ cấp theo quy định. Ngoài ra, xuất phát từ tính đặc thù của các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tư pháp, đã có nhiều quy định về các chế độ, định mức chi cho hoạt động của Ngành như: kinh phí hỗ trợ xây dựng, thi hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật …. Ngoài ra, công chức ngành Tư pháp là một bộ phận thuộc cơ quan hành chính nhà nước, hưởng chính sách tiền lương và chế độ theo quy định chung của nhà nước. Do đó, việc cải cách chế độ, chính sách đối với đội ngũ công chức tư pháp sẽ được thực hiện trong lộ trình cải cách chung về tiền lương cho đội ngũ cán bộ, công chức của Chính phủ.
Trả lời: Căn cứ Chương trình công tác của Bộ Tư pháp năm 2011, trên cơ sở kết quả thí điểm Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật” ở một số địa phương, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với một số đơn vị có liên quan đến tiến hành xây dựng Dự thảo Nghị định của Chính phủ về công tác theo dõi thi hành pháp luật. Theo kế hoạch được giao, tháng 5/2011, Ban soạn thảo đã hoàn thành Dự thảo 01 và đang gửi xin ý kiến. Dự kiến, Bộ Tư pháp sẽ trình Chính phủ Dự thảo Nghị định trong tháng 11/2011.
Trả lời: Công tác theo dõi thi hành pháp luật là một nhiệm vụ mới và tương đối khó khăn trong quá trình thực hiện, đặc biệt là đối với địa phương. Nhận thức được điều này, Bộ Tư pháp đã có công văn số 1986/BTP-VĐCXDPL hướng dẫn thực hiện công tác trọng tâm theo dõi thi hành pháp luật năm 2011 gửi đến tất cả địa phương trong cả nước. Đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, tổ chức thực hiện.
7.5. Kiến nghị Bộ Tư pháp sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ, cụ thể hóa chính sách đối với cán bộ làm công tác pháp chế (STP Hưng Yên, Phú Thọ, Long An).
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 25 tháng 8 năm 2011 và thay thế Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước.
File gốc của Công văn 4982/BTP-VP trả lời đề xuất, kiến nghị của địa phương do Bộ Tư pháp ban hành đang được cập nhật.
Công văn 4982/BTP-VP trả lời đề xuất, kiến nghị của địa phương do Bộ Tư pháp ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp |
Số hiệu | 4982/BTP-VP |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Hoàng Thế Liên |
Ngày ban hành | 2011-08-23 |
Ngày hiệu lực | 2011-08-23 |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng | Còn hiệu lực |