BỘ CÔNG AN | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 02/2004/TT-BCA | Hà Nội, ngày 02 tháng 02 năm 2004 |
Ngày 27/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2003/NĐ-CP quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, để thực hiện thống nhất Nghị định nêu trên của Chính phủ, Bộ Công an hướng dẫn chi tiết thi hành một số nội dung cụ thể của Nghị định như sau :
I- ĐỐI TƯỢNG ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Việc xác định đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định của khoản 2, điều 25 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, khoản 1, điều 3, Nghị định 76/2003/NĐ-CP ngày 27/6/2003 của Chính phủ về quy định và hướng dẫn cục thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (sau đây viết tắt là Nghị định số 76) và hướng dẫn tại Thông tư này.
2- Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây có tính chất thường xuyên, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định :
a- Xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài.
b- Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài.
c- Đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật.
d- Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
đ- Tổ chức, môi giới mại dâm.
e- Gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ.
g- Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
h- Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.
i- Các hành vi khác vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
3- Để bảo đảm đưa người vào cơ sở giáo dục đúng quy định, tránh oan, sai, đồng thời không để lọt đối tượng, trong quá trình xem xét, lập hồ sơ, cần chú ý : hành vi vi phạm đó phải chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và phải có tính chất thường xuyên. Các trường hợp sau đây được coi là vi phạm có tính chất thường xuyên :
a- Người không có nơi cư trú nhất định có từ hai lần vi phạm trở lên trong thời hạn 12 tháng. Các trường hợp sau đây được coi là không có nơi cư trú nhất định :
- Không xác định được nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.
- Có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống tại đó và thường xuyên đi lang thang, không có nơi ở cố định.
b- Người có nơi cư trú nhất định đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng sau đó lại thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này. Các trường hợp sau đây được coi là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn :
- Đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.
- Đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính mà lại có hành vi vi phạm được quy định tại điểm 2, mục I Thông tư này.
Cần lưu ý : Đối với người có nơi cư trú nhất định, trong mọi trường hợp đều nhất thiết phải có điều kiện là đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì mới có thể lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
4- Các trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp huyện, cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, thụ lý, điều tra trong các vụ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2 và khoản 7, điều 9, Nghị định số 76 cũng phải có đủ các điều kiện quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.
5- Trong trường hợp hành vi vi phạm lần sau cũng đã được cơ quan có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng sau khi xem xét, không đủ điều kiện để đề nghị áp dụng biện pháp này hoặc đã đề nghị nhưng không được Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử phạt theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được hồ sơ.
Trong thời hạn nêu trên, nếu người đó lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy định tại điểm này mà thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính sẽ được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
6- Trường hợp một người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì theo quy định tại điều 113 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và điều 12 Nghị định số 76, cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Trong trường hợp cơ quan Công an đã thụ lý hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục mà phát hiện người đó thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh được quy định tại điều 26, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì phải chuyển ngay toàn bộ hồ sơ đó cho cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
7- Đối với trường hợp đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, đến khi bị bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì theo quy định tại khoản 2, điều 52 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Trưởng Công an cấp huyện làm văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo thủ tục chung, mà không cần phải có điều kiện là đã bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
II- KINH PHÍ BẢO ĐẢM CHO TỔ CHỨC THỰC HIỆN VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm :
a- Kinh phí cho việc lập, xét duyệt hồ sơ, cho việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, cho việc quản lý, ăn uống, sinh hoạt của đối tượng trong thời hạn được quản lý tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục, cho việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.
b- Kinh phí cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục, cho ăn, mặc, ở, học tập, dạy nghề, văn nghệ, thể thao và phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên.
c- Kinh phí cho các khoản chi khác có liên quan đến việc tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
2- Kinh phí bảo đảm cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do ngân sách Nhà nước cân đối, bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.
Việc lập dự trù kinh phí thường xuyên cho tổ chức thực hiện việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được thực hiện như sau :
a- Công an cấp xã lập dự trù kinh phí gửi Công an cấp huyện, Công an cấp huyện tổng hợp, báo cáo Công an cấp tỉnh. Trên cơ sở đề xuất của Công an cấp huyện và các đơn vị chức năng, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm lập dự trù kinh phí cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục của địa phương mình gửi Vụ Tài chính.
b- Cơ sở giáo dục lập dự trù kinh phí cho việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục, cho ăn, mặc, ở, học tập, phòng bệnh, chữa bệnh của trại viên và cho các hoạt động khác của cơ sở giáo dục, gửi báo cáo Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng. Trên cơ sở đề xuất của các cơ sở giáo dục, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng lập dự trù kinh phí chung cho các cơ sở giáo dục, gửi Vụ Tài chính.
c- Trên cơ sở dự trù kinh phí của Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, Vụ Tài chính lập dự trù kinh phí chung để bảo đảm cho việc thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trình lãnh đạo Bộ xem xét, quyết định.
III- VỀ LẬP HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 9 Nghị định số 76.
Hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục đối với người có nơi cư trú nhất định phải theo đúng quy định tại khoản 1, điều 9 Nghị định số 76, về ý kiến của UBMTTQ và các tổ chức xã hội cấp xã có liên quan thì tùy từng trường hợp cụ thể, Chủ tịch UBND cấp xã có thể tổ chức cuộc họp hoặc lấy ý kiến tham gia bằng văn bản.
Ý kiến của UBMTTQ và tổ chức xã hội cấp xã phải được Chủ tịch UBND cùng cấp nghiên cứu, tham khảo để cân nhắc trong quá trính xem xét, quyết định việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.
2- Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ báo cáo, đề xuất Chủ tịch UBND cùng cấp duyệt, trình Chủ tịch UBND cấp huyện.
1- Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan giúp lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát và lãnh đạo Bộ trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục, tổ chức đưa người vào cơ sơ giáo dục.
2- Giám đốc Công an cấp tỉnh, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm :
a- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục, giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo thẩm quyền.
b- Làm Thường trực Hội đồng tư vấn, trường hợp vì lý do khác mà không thể tham gia Hội đồng tư vấn thì ủy quyền Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát làm thường trực Hội đồng tư vấn.
3- Trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an cấp tỉnh có trách nhiệm.
a- Chủ trì phối hợp với Trưởng phòng Cảnh sát điều tra, Văn phòng Công an tỉnh, thành phố (bộ phận Pháp chế) và các đơn vị có liên quan giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh trong việc xem xét, lập hồ sơ đưa người vào cơ sở giáo dục và hướng dẫn lực lượng Cảnh sát hình sự thuộc Công an cấp huyện trong việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.
b- Chậm nhất 07 ngày trước khi họp Hội đồng tư vấn, phải sao gửi các thành viên Hội đồng tư vấn văn bản của Chủ tịch UBND cấp huyện đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục (hoặc văn bản của cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 7, điều 9 Nghị định số 76), bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến việc xem xét, quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, đồng thời gửi giấy mời đại diện thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh tham dự cuộc họp Hội đồng tư vấn (kèm theo tài liệu nêu trên).
c- Tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc đưa người vào cơ sở giáo dục.
d- Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh thẩm tra, xác minh để đề xuất Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 76.
4- Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm :
a- Hướng dẫn Công an cấp xã lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục, chủ trì, phối hợp với các ngành chức năng giúp Chủ tịch UBND cùng cấp xem xét, thẩm định hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục.
b- Phối hợp với phòng Cảnh sát hình sự trong việc tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc đưa người vào cơ sở giáo dục, ra quyết định truy tìm theo thẩm quyền và tổ chức bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn.
5- Lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các cấp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra và các đơn vị có liên quan giúp lãnh đạo Công an cùng cấp trong việc xem xét, lập hồ sơ đưa người vào cơ sở giáo dục và tiến hành các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.
6- Trưởng Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Chủ tịch UBND cùng cấp trong việc lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật, phối hợp và thực hiện sự hướng dẫn, chỉ đạo của Công an cấp tỉnh, Công an cấp huyện trong việc tổ chức đưa người vào cơ sở giáo dục, bắt giữ đối tượng có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn, quản lý đối tượng được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
V- HỘI ĐỒNG TƯ VẤN VỀ VIỆC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Theo quy định tại điều 10, Nghị định số 76, thành phần Hội đồng tư vấn về việc đưa người vào cơ sở giáo dục bao gồm :
a- Giám đốc Công an - Thường trực Hội đồng.
b- Giám đốc Sở Tư pháp - Thành viên.
c- Giám đốc Sở Lao động-TBXH - “
d- Chủ tịch UBMTTQ.VN cấp tỉnh - “
2- Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp Hội đồng tư vấn. Đại diện Thường trực Hội đồng Nhân dân có thể phát biểu ý kiến tham gia nhưng không biểu quyết, trường hợp đại diện thường trực Hội đồng Nhân dân không đến dự được thì cuộc họp Hội đồng Tư vấn vẫn phải tiến hành bình thường.
VI- QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc đưa người vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.
2- Quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho Công an cấp tỉnh, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó và giao cho người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trước khi thi hành.
3- Nội dung quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, họ, tên, chức vụ của người ra quyết định, họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào cơ sở giáo dục, hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của văn bản được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định của Pháp luật.
4- Trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đang phải chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (thuộc trường hợp quy định tại tiết b, điểm 3, mục I Thông tư này) thì trong quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục phải có nội dung hủy quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người đó để họ chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
VII- THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày ra quyết định, Trưởng phòng Cảnh sát hình sự có trách nhiệm tổ chức đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục. Việc thi hành quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục phải lập biên bản theo mẫu quy định, biên bản được lập thành 02 bản, một bản lưu ở phòng Cảnh sát Hình sự, một bản gửi kèm theo hồ sơ đưa người vào cơ sở giáo dục.
Khi công bố quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, nếu đối tượng có đơn đề nghị hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định thì phải xem xét ngay, nếu có đủ điều kiện để được hoãn hoặc miễn theo quy định của Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này thì phải làm văn bản đề xuất Giám đốc Công an cấp tỉnh báo cáo Chủ tịch UBND cùng cấp ra quyết định hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định cho người đó.
Thời hạn chấp hành quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp này được đưa đi chấp hành quyết định (bao gồm cả thời gian đi đường và thời gian được quản lý tại Công an cấp tỉnh).
2- Hồ sơ, thủ tục khi đưa người có quyết định vào cơ sở giáo dục :
a- Khi đưa người vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo, bao gồm :
- Quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.
- Bản tóm tắt lý lịch và vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
- Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
- Quyết định quản lý đối tượng tại Công an cấp tỉnh trước khi đưa vào cơ sở giáo dục và các tài liệu khác có liên quan đến việc quản lý, giáo dục đối tượng (nếu có).
b- Khi giao, nhận người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải lập biên bản, trong đó phải ghi rõ tình trạng sức khỏe của người giao, nhận; hồ sơ, tài liệu kèm theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao, nhận đối tượng.
3- Người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục hoặc người bị bắt giữ theo quyết định truy tìm, nếu không tự giác chấp hành hoặc có hành vi chống đối thì có thể bị khóa hoặc trói tay để áp giải hoặc bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác theo quy định của pháp luật để buộc người đó phải chấp hành quyết định. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì phải lập hồ sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của Bộ luật Hình sự.
1- Theo quy định tại khoản 2, điều 14 và khoản 4, điều 17 Nghị định số 76 thì việc quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được áp dụng đối với người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục trong các trường hợp :
a- Cần phải có thời gian để lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết khác trước khi đưa họ đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục (Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị có liên quan tiến hành lập danh bản, lăn tay, chụp ảnh (màu hoặc đen trắng cỡ 3 x 4) đối tượng để bổ sung vào hồ sơ cho đầy đủ trước khi đưa họ vào cơ sở giáo dục).
b- Đối tượng bị bắt giữ theo quyết định truy tìm và được chuyển đến Công an cấp tỉnh để quản lý trong thời gian chờ cơ quan có thẩm quyền đến nhận đối tượng đưa về cơ sở giáo dục.
2- Thời gian quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục tại Công an cấp tỉnh không quá 05 ngày và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.
Quyết định quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục do Giám đốc Công an cấp tỉnh (hoặc Phó Giám đốc phụ trách Cảnh sát được Giám đốc ủy quyền) ký và phải được gửi kèm theo hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục để làm cơ sở tính thời hạn chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục cho người đó.
3- Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức quản lý và bố trí nơi quản lý đối tượng trước khi đưa vào cơ sở giáo dục cho phù hợp, trường hợp nơi quản lý đối tượng được bố trí trong khu vực trại tạm giam thì Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc quản lý đối tượng, phải có buồng dành riêng cho việc quản lý đối tượng, ngoài cửa phải có biển ghi rõ “Buồng quản lý đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục”.
Nghiêm cấm việc giữ đối tượng nêu trên trong cùng một buồng với đối tượng bị tạm giữ, tạm giam theo thủ tục tố tụng hình sự, giữ chung nam, nữ trong cùng một buồng hoặc giữ tại những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho đối tượng.
4- Chế độ ăn, ở của đối tượng nêu trên trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh được hưởng như chế độ ăn, ở của trại viên cơ sở giáo dục, kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.
5- Trường hợp đối tượng chết trong thời gian đang được quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Thủ trưởng đơn vị nơi quản lý đối tượng phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp để xác định nguyên nhân chết và giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải thông báo ngay cho gia đình người chết biết.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi làm xong các thủ tục nêu trên, nếu gia đình người chết không đến nhận tử thi thì đơn vị quản lý đối tượng có trách nhiệm tổ chức mai táng tự thi, kinh phí mai táng do ngân sách Nhà nước cấp.
IX- TRUY TÌM VÀ BẮT GIỮ ĐỐI TƯỢNG ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC BỎ TRỐN :
1- Việc truy tìm và bắt giữ đối tượng đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn phải thực hiện theo đúng quy định tại điều 17, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.
2- Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bỏ trốn trước khi đưa vào cơ sở giáo dục thì Trưởng Công an cấp huyện (nơi người đó cư trú hoặc nơi đã lập hồ sơ) ra quyết định truy tìm. Trường hợp Công an cấp tỉnh đã nhận đối tượng để đưa đi chấp hành quyết định mà đối tượng bỏ trốn trên đường dẫn giải hoặc bỏ trốn trong thời gian quản lý tại Công an cấp tỉnh thì Công an cấp tỉnh phải chuyển giao hồ sơ, tài liệu (quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, biên bản đối tượng bỏ trốn và các tài liệu khác có liên quan) cho Công an cấp huyện để ra quyết định truy tìm.
3- Trường hợp trại viên cơ sở giáo dục bọ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định truy tìm. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.
4- Tùy từng trường hợp cụ thể mà quyết định truy tìm sẽ được gửi cho cơ quan Công an và UBND địa phương nơi cần thiết để phục vụ cho việc truy tìm và bắt giữ đối tượng.
X- HOÃN HOẶC MIỄN CHẤP HÀNH QUYẾT ĐỊNH ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC:
1- Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục có thể được hoãn chấp hành quyết định, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây :
a- Đang ốm nặng có chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên.
b- Đang mang thai, có chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có đơn đề nghị và được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
c- Gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt, có đơn đề nghị và được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
2- Thời hạn được hoãn : đối với các trường hợp ốm nặng, mắc bệnh tâm thần hoặc hoàn cảnh gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt thì có thể cho họ được hoãn chấp hành quyết định đến khi khỏi bệnh hoặc hoàn cảnh gia đình đã hết khó khăn đặc biệt; trường hợp phụ nữ có thai hoặc đang phải nuôi con nhỏ thì được hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
Khi hết thời hạn được hoãn hoặc khi điều kiện được hoãn không còn thì người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải tự giác đến cơ quan Công an để được đưa đi chấp hành quyết định, nếu không tự giác, sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Công an các cấp có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát người được hoãn chấp hành quyết định, khi điều kiện được hoãn không còn thì phải kịp thời đưa họ vào cơ sở giáo dục để chấp hành quyết định. Phòng Cảnh sát hình sự có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Công an cấp huyện trong việc tổ chức đưa người phải chấp hành quyết định đến cơ sở giáo dục.
3- Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, nhưng chưa đến chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục có thể được miễn chấp hành quyết định, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây :
a- Đang mắc bệnh hiểm nghèo (có chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên), đang mắc bệnh tâm thần có kết luận của cơ quan giám định có thẩm quyền và những người đó không còn nguy hiểm cho xã hội.
b- Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công trong thời gian được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, cụ thể như sau :
- “Có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật” quy định trong Thông tư này phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như : thành thật hối lỗi, tích cực lao động, học tập, tích cực tham gia các phong trào chung của địa phương, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và được Chủ tịch UBND từ cấp xã trở lên xác nhận, đề nghị.
- Các trường hợp “lập công” quy định trong Thông tư này phải được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như : tố cáo những hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, dũng cảm cứu người, cứu tài sản có giá trị lớn của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác, có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được nhận giấy khen của Chủ tịch UBND từ cấp huyện trở lên, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị lớn trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận.
Trường hợp đối tượng đang được hoãn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục chỉ được xét miễn chấp hành quyết định khi thời gian đã được hoãn ít nhất phải bằng một nửa thời hạn ghi trong quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, riêng trường hợp lập công thì có thể được xét miễn sớm hơn.
4- Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định cho người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nhưng chưa đến cơ sở giáo dục chấp hành quyết định trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục và ý kiến của UBND cấp xã, nơi họ cư trú; trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giao cho Công an cùng cấp thẩm tra, xác minh từng trường hợp cụ thể về việc xin hoãn hoặc miễn trước khi ra quyết định.
1- Trường hợp trại viên bị ốm nặng và có đơn xin bảo lãnh của gia đình thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định để cho về gia đình điều trị, trong trường hợp này, Giám đốc cơ sở giáo dục phải lập hồ sơ đề nghị, trong đó phải có bệnh án hoặc bản sao bệnh án của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên, gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định.
Thời gian điều trị được tính vào thời hạn chấp hành quyết định, nếu sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ ba tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành quyết định tại cơ sở giáo dục.
2- Trại viên là phụ nữ có thai thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị, trong đó phải có giấy chứng nhận của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên, gửi về Cục Quản lý Trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định, nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì Giám đốc cơ sở giáo dục lập hồ sơ đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên đó.
3- Trại viên bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Giám đốc cơ sở giáo dục thành lập Hội đồng xét duyệt (thành phần như Hội đồng xét giảm thời hạn) và lập hồ sơ đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên, trong hồ sơ phải có bệnh án hoặc bản sao bệnh án của Trung tâm Y tế hoặc bệnh viện từ cấp huyện trở lên (có xác nhận rõ người đó đang mắc bệnh hiểm nghèo) gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định.
4- Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của cơ sở giáo dục, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải xem xét, quyết định việc tạm đình chỉ chấp hành quyết định hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho các trường hợp nêu tại các điểm 1, 2, 3 mục này.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên phải được gửi cho cơ sở giáo dục, người phải chấp hành và gửi UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, UBND cấp xã nơi họ về cư trú để theo dõi, quản lý.
5- Chậm nhất, trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ký quyết định hoặc 03 ngày kể từ ngày về đến địa phương, người được tạm đình chỉ chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục hoặc được miễn chấp hành phần thời gian còn lại, phải đến trình diện tại UBND cấp xã nơi về cư trú, trường hợp ốn nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà không thể tự đến trình diện được thì thân nhân của người đó phải đến báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã.
6- Trường hợp trại viên được tạm đình chỉ chấp hành quyết định nêu tại điểm 1, điểm 2, mục này mà bị chết thì gia đình phải báo ngay cho UBND cấp xã và cơ sở giáo dục biết (kèm theo bản sao giấy khai tử có xác nhận của UBND cấp xã). Giám đốc cơ sở giáo dục làm báo cáo gửi Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng và thông báo cho UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục để biết.
1- Trại viên đã chấp hành được một nửa thời hạn ghi trong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm một phần hoặc miễn chếp hành phần thời gian còn lại.
2- Cơ sở giáo dục thành lập Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên, thành phần Hội đồng bao gồm :
- Giám đốc cơ sở giáo dục - Chủ tịch Hội đồng.
- Phó Giám đốc phụ trách công tác giáo dục - Phó Chủ tịch Hội đồng.
- Đội trưởng Đội quản lý, giáo dục - Ủy viên thư ký.
- Cán bộ hồ sơ và cán bộ quản lý, giáo dục trại viên - Ủy viên.
- Chỉ huy trưởng lực lượng Cảnh sát bảo vệ tại cơ sở giáo dục - Ủy viên.
- Bệnh xá trưởng hoặc Bác sĩ trực tiếp điều trị - Ủy viên (nếu đối tượng đề nghị xét miễn chấp hành phần thời gian còn lại là người đang mắc bệnh hiểm nghèo).
Đối với cơ sở giáo dục có nhiều phân khu thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định thành lập tại mỗi phân khu một Tiểu ban xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục do Phó Giám đốc - phụ trách phân khu làm Trưởng tiểu ban. Thành phần Tiểu ban bao gồm : Trưởng phân khu, Đội trưởng quản lý, giáo dục (làm thư ký), cán bộ trinh sát, giáo dục của phân khu và quản giáo trực tiếp phụ trách đội trại viên. Tiểu ban có trách nhiệm xem xét đề nghị của các đội trực tiếp quản lý trại viên về việc giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục và làm văn bản báo cáo Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên của cơ sở giáo dục.
3- Căn cứ vào tiêu chuẩn, điều kiện và kết quả học tập, rèn luyện của trại viên, 4 tháng một lần (trừ trường hợp có yêu cầu xét giảm, miễn đột xuất), Hội đồng xét giảm hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức họp để xem xét từng trường hợp cụ thể. Khi Hội đồng họp, cán bộ quản lý giáo dục phải trình bày cụ thể và đề xuất mức giảm hoặc miễn chấp hành cho từng đối tượng thuộc đội mình phụ trách. Sau đó, Hội đồng xem xét, quyết định và làm hồ sơ đề nghị gửi về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét, quyết định. Hồ sơ đề nghị miễn, giảm thời gian chấp hành tại cơ sở giáo dục cho trại viên gồm biên bản họp Hội đồng, báo cáo đề nghị của cơ sở giáo dục, danh sách trại viên được đề nghị xét miễn, giảm và các tài liệu khác có liên quan.
4- Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của cơ sở giáo dục, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải thành lập Hội đồng xét duyệt do Cục trưởng hoặc Phó Cục trưởng được ủy quyền làm Chủ tịch Hội đồng với thành phần bao gồm Trưởng phòng theo dõi công tác cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên thường trực, Phó Trưởng phòng theo dõi công tác cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên thư ký, đại diện lãnh đạo phòng trinh sát và cán bộ trực tiếp theo dõi công tác xét miễn, giảm của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng làm Ủy viên. Đại diện lãnh đạo cơ sở giáo dục được mời tham dự cuộc họp để trực tiếp báo cáo từng trường hợp trước Hội đồng. Khi xem xét những đối tượng có hành vi vi phạm quy định tại điểm g, điểm h, khoản 2, mục I Thông tư này thì Chủ tịch Hội đồng xét miễn, giảm phải mời đại diện các cơ quan chức năng của Bộ Công an cùng tham dự.
Hội đồng căn cứ vào hồ sơ đề nghị của cơ sở giáo dục và đối chiếu với các điều kiện, tiêu chuẩn quy định để xét duyệt, đề nghị mức giảm hoặc đề nghị miễn cho từng trường hợp.
Trong thời hạn 05 ngày sau khi họp Hội đồng, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng phải xem xét, quyết định việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên.
Quyết định giảm thời hạn chấp hành được gửi cho cơ sở giáo dục để lưu hồ sơ và thông báo cho trại viên biết. Quyết định miễn chấp hành phần thời gian còn lại được gửi cho cơ sở giáo dục và người được miễn, UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Công an cấp huyện, UBND cấp xã nơi họ về cư trú. Người được miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở giáo dục có trách nhiệm trình diện UBND cấp xã theo quy định tại điểm 5, mục XI Thông tư này.
5- Trường hợp trại viên đã được đề nghị giảm thời hạn hoặc đề nghị miễn chấp hành phần thời gian còn lại, nhưng trong thời gian chờ cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định mà có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng nội quy cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục có trách nhiệm tổ chức họp Hội đồng, lập hồ sơ, báo cáo ngay với Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, đề nghị đưa trại viên đó ra khỏi danh sách xét miễn, giảm; trường hợp đã có quyết định miễn, giảm, nhưng chưa thi hành thì đề nghị hủy quyết định.
1- Việc trích xuất trại viên chỉ được thực hiện khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền theo quy định tại điều 23 Nghị định số 76; văn bản yêu cầu trích xuất phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, số giấy chứng minh nhân dân, quê quán của đối tượng cần trích xuất và lý do, thời hạn yêu cầu trích xuất trại viên. Nếu là yêu cầu của Viện Kiểm sát hoặc Tòa án thì phải có thêm công văn đề nghị của cơ quan Công an cùng cấp. Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định trích xuất và bàn giao trại viên có quyết định trích xuất cho Cán bộ Công an được giao trách nhiệm đến nhận trại viên. Cán bộ Công an đến nhận bàn giao đối tượng trích xuất phải có giấy chứng nhận Cảnh sát Nhân dân hoặc giấy chứng minh An ninh Nhân dân và giấy giới thiệu của cơ quan Công an từ cấp huyện trở lên.
Việc giao, nhận trại viên phải được lập biên bản theo mẫu thống nhất; biên bản giao, nhận trại viên phải lập thành 02 bản, mỗi bên giữ một bản. Sau khi bàn giao đối tượng trích xuất, cơ sở giáo dục phải sao gửi văn bản đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và quyết định trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.
Thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.
2- Hết thời hạn trích xuất, cơ quan đã yêu cầu trích xuất có trách nhiệm đưa trả trại viên về cơ sở giáo dục. Trường hợp có yêu cầu gia hạn trích xuất trại viên thì Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có văn bản đề nghị Giám đốc cơ sở giáo dục ra quyết định gia hạn trích xuất trại viên. Cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản về việc gia hạn trích xuất trại viên về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để theo dõi.
XIV- THÀNH LẬP VÀ QUẢN LÝ CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục trên phạm vi cả nước.
2- Cơ sở giáo dục được thành lập theo từng khu vực. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hàng năm có số lượng người phải đưa vào cơ sở giáo dục từ 500 người trở lên thì có thể lập phương án đề nghị Bộ Trưởng Bộ Công an xem xét, quyết định thành lập cơ sở giáo dục đặt tại tỉnh, thành phố đó. Phương án đề nghị thành lập cơ sở giáo dục do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị phải nêu rõ quy mô, địa điểm, kinh phí xây dựng và những vấn đề khác có liên quan đến việc thành lập và tổ chức hoạt động của cơ sở giáo dục.
3- Giám đốc, Phó Giám đốc cơ sở giáo dục phải là người đã tốt nghiệp học viện Cảnh sát Nhân dân, Học viện An ninh Nhân dân hoặc các trường Đại học Cảnh sát Nhân dân, Đại học An ninh Nhân dân, Đại học Luật, Đại học Khoa Xã hội và Nhân văn, Đại học Sư phạm và phải có kiến thức, kinh nghiệm về quản lý, giáo dục người vi phạm pháp luật.
XV- QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC :
1- Việc quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục phải được thống nhất quản lý, sử dụng theo đúng quy định tại điều 31 Nghị định số 76 và các quy định khác của Pháp luật có liên quan; phải thực hiện đúng chế độ sổ sách, kế toán theo quy định.
2- Kết quả lao động của cơ sở giáo dục sau khi trừ các chi phí hợp lý theo quy định của pháp luật, số còn lại được phân phối sử dụng như sau :
- 30% chi cho đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục.
- 25% chi hỗ trợ cho việc khám , chữa bệnh, bồi dưỡng ăn thêm cho trại viên.
- 20% chi cho hoạt động giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề (xây dựng chương trình giáo dục, mua sắm, in ấn tài liệu học tập, giấy bút, phương tiện học tập và tiền thuê giáo viên bên ngoài (nếu có).
- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục, chi cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của cơ sở giáo dục.
- 08% chi cho khen thưởng trại viên có thành tích xuất sắc trong rèn luyện, lao động, học tập.
- 05% chi cho việc khen thưởng cán bộ, chiến sĩ có thành tích trong việc quản lý, giáo dục trại viên.
- 02% nộp về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để làm quỹ khen thưởng chung cho các cơ sở giáo dục và chi cho các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động của cơ sở giáo dục.
Phần kinh phí thu được do trại viên làm vượt chỉ tiêu, định mức được giao được sử dụng như sau :
- 70% chi bồi dưỡng cho trại viên lao động vượt chỉ tiêu, định mức được giao.
- 20% chi bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ cơ sở giáo dục có thành tích trong việc chỉ đạo, quản lý trại viên lao động vượt chỉ tiêu được giao.
- 10% làm quỹ phúc lợi của cơ sở giáo dục.
Riêng việc sử dụng kết quả lao động, sản xuất của cơ sở giáo dục để chi cho việc xây dựng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục phải báo cáo bằng văn bản để xin ý kiến của Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng trước khi thực hiện.
3- Định kỳ 6 tháng, 01 năm cơ sở giáo dục phải báo cáo cụ thể về tình hình, kết quả sản xuất, việc quản lý, sử dụng kết quả sản xuất của cơ sở mình về Bộ (qua Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng).
4- Tổng cục Hậu cần, Vụ Tài chính có trách nhiệm phối hợp với Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn cơ sở giáo dục thực hiện đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng kết quả lao động của cơ sở giáo dục và định kỳ hàng năm báo cáo Lãnh đạo Bộ.
XVI- CHẾ ĐỘ THĂM GẶP NGƯỜI THÂN, NHẬN, GỬI THƯ, NHẬN TIỀN, QUÀ :
Chế độ thăm gặp người thân, nhận, gửi thư, nhận tiền, quà của trại viên cơ sở giáo dục phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 33 Nghị định số 76 và hướng dẫn tại Thông tư này.
Khi gặp gỡ thân nhân, trại viên được nhận quà, thư và tiền. Mỗi tháng, trại viên đượ gửi 02 lá thư và được nhận một gói quà không quá 07 kg, các thư và quà đều phải qua kiểm tra của cơ sở giáo dục.
XVII- KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT TRẠI VIÊN :
1- Việc khen thưởng, kỷ luật trại viên phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 34 Nghị định số 76. Quyết định khen thưởng, kỷ luật phải bằng văn bản và lưu vào hồ sơ của trại viên để theo dõi.
2- Việc lập hồ sơ đề nghị xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định tại khoản 2, điều 34 Nghị định số 76 chỉ được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và phải chú ý : hành vi vi phạm pháp luật của trại viên phải có tính chất thường xuyên và đã bị áp dụng các hình thức kỷ luật từ 3 lần trở lên, nhưng vẫn không chịu sửa chữa, vẫn tiếp tục có hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 76 và hướng dẫn tại điểm 2, mục I Thông tư này thì mới lập hồ sơ đề nghị xem xét, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với họ; thành phần Hội đồng xét đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục được thực hiện như đối với Hội đồng xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên nêu tại điểm 2, mục XII Thông tư này.
Hồ sơ đề nghị bao gồm :
a- Biên bản họp Hội đồng kỷ luật của cơ sở giáo dục về việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.
b- Báo cáo và đề nghị áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục.
c- Bản tóm tắt lý lịch, biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của trại viên.
d- Các biên bản trại viên vi phạm kỷ luật, các quyết định kỷ luật trại viên và tài liệu khác có liên quan đến việc vi phạm pháp luật của trại viên.
3- Giám đốc cơ sở giáo dục phải gửi hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục về Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng để xem xét. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Tổng cục Cảnh sát, Vụ Pháp chế và các đơn vị liên quan xem xét hồ sơ, nếu đủ điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục với người đó thì phải có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng xem xét, quyết định. Quyết định áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở giáo dục trong trường hợp này được gửi cơ sở giáo dục nơi lập hồ sơ đề nghị để tổ chức thi hành; gửi UBND cấp tỉnh nơi trước đây đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và UBND cấp xã nơi cư trú của người đó để biết.
Đến ngày trại viên hết thời hạn phải chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục mà chưa có quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi cơ sở giáo dục đóng về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với người đó thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải làm thủ tục cho họ ra khỏi cơ sở giáo dục theo quy định.
1- Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 20 ngày, kể từ ngày ký và thay thế Thông tư số 07/1998/TT-BCA ngày 03/12/1998 của Bộ Công an về hướng dẫn thi hành một số quy định của Quy chế về cơ sở giáo dục ban hành kèm theo Nghị định số 32/CP ngày 14/4/1997 của Chính phủ. Những quy định trước đây của Bộ Công an trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
2- Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Cục trưởng Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng, Thanh tra Bộ, Vụ Pháp chế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra và hướng dẫn thi hành Thông tư này.
3- Các Tổng cục trưởng, Vụ trưởng, Cục trưởng các Vụ, Cục trực thuộc Bộ trưởng, Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, theo chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm tổ chức thực hiện Thông tư này.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nếu có vướng mắc, cần báo cáo kịp thời về Bộ (qua Tổng cục Cảnh sát, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận : | BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN |
File gốc của Thông tư 02/2004/TT-BCA hướng dẫn thi hành Nghị định 76/2003/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do Bộ Công an ban hành đang được cập nhật.
Thông tư 02/2004/TT-BCA hướng dẫn thi hành Nghị định 76/2003/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do Bộ Công an ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Công An |
Số hiệu | 02/2004/TT-BCA |
Loại văn bản | Thông tư |
Người ký | Lê Hồng Anh |
Ngày ban hành | 2004-02-02 |
Ngày hiệu lực | 2004-02-22 |
Lĩnh vực | Hình sự |
Tình trạng | Hết hiệu lực |