BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
V/v trả lời kiến nghị cử tri kỳ họp thứ 7 | Hà Nội, ngày 21 tháng 09 năm 2010 |
Kính gửi: Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
I. VỀ LĨNH VỰC LAO ĐỘNG, TIỀN LƯƠNG
Về chính sách nhà ở đối với công nhân nói chung và công nhân tại các khu công nghiệp nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Ngày 20 tháng 4 năm 2009, Chính phủ đã có Nghị quyết số 18/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị, Nghị quyết giao cho Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản chịu trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nhà ở sinh viên, nhà ở công nhân khu công nghiệp, nhà ở xã hội và nhà ở cho người có thu nhập thấp theo quy định của Nghị quyết này và giao cho Bộ Xây dựng cùng các bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện. Ngày 24 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê, trong đó giao Bộ Xây dựng theo dõi, đôn đốc và tổng hợp tình hình triển khai thực hiện Quyết định này, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình thực tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
2. Nhà nước cần có chính sách để nâng cao thu nhập cho công nhân ở các khu công nghiệp, hiện nay mức thu nhập tối thiểu của công nhân không đảm bảo cho mức sống tối thiểu (Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc – KN số 95):
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay do thị trường lao động ở nước ta mới phát triển ở giai đoạn đầu, năng lực thỏa thuận của người lao động cũng như sự hỗ trợ thương lượng của tổ chức công đoàn cơ sở còn hạn chế nên vẫn còn một số doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp ở các khu công nghiệp, khu chế xuất) lợi dụng tâm lý muốn kiếm việc làm của người lao động để ép tiền lương, tiền công của người lao động. Mặt khác, do các doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, với khả năng sản xuất kinh doanh còn hạn chế nên phúc lợi thấp, điều kiện sinh hoạt, đời sống của một bộ phận người lao động rất khó khăn. Để khắc phục dần tình trạng này, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc có ý kiến với Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo cơ quan quản lý lao động địa phương, Liên đoàn lao động, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất tăng cường tuyên truyền pháp luật lao động đến người lao động và người sử dụng lao động; nâng cao năng lực thỏa thuận tiền lương của người lao động thông qua thúc đẩy thành lập và nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách lao động, tiền lương và xử lý nghiêm những doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Hiện nay, thực hiện Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XII và Chương trình công tác của Chính phủ năm 2010, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện dự án sửa đổi Bộ luật Lao động, trên cơ sở tổng kết, đánh giá 14 năm thi hành để từ đó kế thừa và phát triển các quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống, sửa đổi các quy định chưa phù hợp và bổ sung những quy định mới phù hợp thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động; bảo đảm hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động; khuyến khích xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, ổn định.
Sau khi Bộ luật Lao động (sửa đổi) được Quốc hội thông qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành sớm trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thi hành để các cơ quan chức năng thực hiện, đảm bảo khuyến khích đơn vị, người sử dụng lao động và người lao động tích cực tham gia pháp luật lao động và được bảo đảm quyền lợi chính đáng như kiến nghị của cử tri đã đề cập.
Theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Lao động và Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương thì ngoài việc xác định, điều chỉnh dựa trên chỉ số giá sinh hoạt, mức lương tối thiểu còn được xác định và điều chỉnh dựa trên khả năng kinh tế, cung – cầu lao động (mức tiền công trên thị trường, khả năng chi trả của các doanh nghiệp), đồng thời có tính đến việc thu hút, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, tạo thêm công ăn việc làm và góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng. Vì vậy, mức lương tối thiểu quy định đối với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thường thấp hơn so với khu vực thành thị.
5. Tại công văn số 4107/LĐTBXH-LĐTL ngày 30/10/2009 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các đơn vị quản lý đường bộ, đường sông thuộc địa phương được áp dụng chế độ ăn giữa ca và được lập dự toán kinh phí theo quy định. Nhưng hiện tại mới có hướng dẫn lập dự toán mục ăn giữa ca đối với công tác quản lý, sửa chữa đường sông. Đề nghị Bộ sớm có hướng dẫn mức ăn giữa ca đối với các đơn vị làm công tác quản lý, sửa chữa đường bộ để áp dụng thống nhất và kịp thời trên phạm vi toàn quốc (Cử tri tỉnh Ninh Bình – KN số 98):
điểm b, khoản 1, Mục I Thông tư số 22/2008/TT-BLĐTBXH ngày 15/10/2008 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ ăn giữa ca trong các công ty nhà nước thì các tổ chức, đơn vị được phép hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, đảng, đoàn thể, các hội quần chúng tự trang trải về tài chính thuộc phạm vi áp dụng chế độ ăn giữa ca. Về vấn đề này, ngày 28/5/2010 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có văn bản số 1699/LĐTBXH-LĐTL gửi Sở Giao thông vận tải tỉnh Ninh Bình đề nghị căn cứ vào quyết định thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của từng đơn vị làm công tác quản lý, sửa chữa đường bộ của tỉnh để áp dụng chế độ ăn ca theo đúng quy định của Nhà nước (đây là công văn trả lời, giải thích rõ Thông tư nêu trên cho Sở Giao thông vận tải biết).
Chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT được ban hành phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của những năm đầu thập niên 1990. Tại thời điểm đó, chính sách đã tháo gỡ một phần khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi sang hoạt động theo cơ chế thị trường mà có nhiều lao động không bố trí, sắp xếp được việc làm. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho người lao động tìm việc làm mới để nâng cao thu nhập. Chính sách này được thực hiện trên cơ sở đáp ứng yêu cầu hai bên: doanh nghiệp không bố trí được việc làm, người lao động tự nguyện làm đơn xin thôi việc để nhận trợ cấp một lần, nên được cả doanh nghiệp và người lao động đồng tình thực hiện, dư luận hoan nghênh.
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 2 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP.
1. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu trình QH xem xét, sửa đổi một số nội dung trong Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH), cụ thể:
Điều 92: Đề nghị đối với những đơn vị sử dụng dưới 100 lao động thực hiện thu đủ 20% vào quỹ BHXH, không để lại 2% chi trả trợ cấp ngắn hạn tại đơn vị sử dụng lao động (SDLĐ) như quy định hiện nay để tránh việc các đơn vị SDLĐ có số lao động ít, kinh phí 2% để lại không nhiều nên không đủ thanh toán chế độ ngắn hạn cho người lao động (NLĐ), trong khi chờ hết quý để thanh toán với cơ quan BHXH và cấp bù kinh phí đơn vị không có nguồn để tạm ứng chi trả cho NLĐ, do đó phần lớn các đơn vị chờ cơ quan BHXH thẩm định xong mới chi trả trợ cấp cho NLĐ, dẫn đến việc thanh toán chế độ chậm cho đối tượng được hưởng.
Điều 64 và Điều 66: Theo quy định hiện nay có hai hình thức hưởng trợ cấp tuất là: hưởng trợ cấp tuất hàng tháng và hưởng trợ cấp tuất một lần. Đối với trường hợp có đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng thì bắt buộc phải hưởng trợ cấp hàng tháng mà không được trợ cấp một lần. Quy định như vậy rất khó khăn trong việc giải quyết cho các trường hợp thân nhân ở xa. Vì vậy đề nghị Chính phủ nghiên cứu trình QH xem xét, sửa đổi quy định này để thân nhân được hưởng trợ cấp tuất có quyền lựa chọn một trong hai hình thức trên (Cử tri các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh – KN số 58):
Theo quy định của Luật BHXH thì người sử dụng lao động (không phân biệt sử dụng nhiều hay ít lao động) giữ lại 2% trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức BHXH; và trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ có liên quan từ người lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động.
Đối với trường hợp số tiền để lại không đủ thanh toán chế độ cho người lao động, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có hướng dẫn tại Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007, theo đó người sử dụng lao động được chủ động quyết toán sớm hơn với tổ chức bảo hiểm xã hội. Như vậy, người sử dụng lao động không phải chờ hết quý mới được thanh toán với tổ chức BHXH.
Chế độ tuất trong chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực hiện với 2 hình thức hoặc là trợ cấp tuất hàng tháng hoặc là trợ cấp tuất một lần tương ứng với đối tượng và điều kiện nhất định. Theo quy định của Luật BHXH thì thân nhân của người lao động không đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng thì mới giải quyết trợ cấp tuất một lần. Việc quy định trợ cấp tuất hàng tháng nhằm ổn định cuộc sống lâu dài của thân nhân người lao động do mất người nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
2. Đối với hồ sơ của người lao động trước năm 1995 theo quy định tại Thông tư số 19/2008/TT-BLĐTBXH ngày 23/9/2008 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định số 152/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật BHXH về BHXH bắt buộc. Đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung: Trường hợp không có quyết định nghỉ chờ việc, cho phép đơn vị làm văn bản xác nhận tại thời điểm đơn vị lập hồ sơ đề nghị cấp sổ, đảm bảo người lao động có tên trong danh sách tại thời điểm có quyết định nghỉ chờ việc và chưa được hưởng trợ cấp một lần; cho thay thế danh sách người lao động của đơn vị đến thời điểm 31/12/1994 hoặc giấy tờ xác định người lao động có tên trong danh sách có mặt tại thời điểm doanh nghiệp sáp nhập, giải thể hoặc các giấy tờ khác của đơn vị sử dụng lao động sau năm 1995 chứng minh được thời gian làm việc của người lao động (Cử tri tỉnh Lạng Sơn – KN số 59):
- Trường hợp không có quyết định nghỉ chờ việc, thì phải có xác nhận bằng văn bản của thủ trưởng đơn vị tại thời điểm lập hồ sơ đề nghị cấp sổ bảo hiểm xã hội, trong đó đảm bảo người lao động có tên trong danh sách của đơn vị tại thời điểm có quyết định nghỉ chờ việc và chưa hưởng các khoản trợ cấp một lần. Trường hợp đơn vị đã giải thể thì do cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp xác nhận.
3. Đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BHXH đối với các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp được đóng BHXH theo quý, 6 tháng để các cơ quan BHXH ở địa phương tổ chức triển khai thực hiện (Cử tri tỉnh Lào Cai – KN số 60):
Đề nghị thực hiện quy định trên, Chính phủ đã có hướng dẫn tại khoản 2 Điều 42 và khoản 3 Điều 43 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006, theo đó các doanh nghiệp lựa chọn một trong ba phương thức đóng trên và phải đăng ký với tổ chức bảo hiểm xã hội.
4. Cử tri cho rằng việc ban hành BHXH tự nguyện đã tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống ổn định khi hết tuổi lao động. Tuy nhiên nhiều quy định vẫn còn bất cập, người dân khó có khả năng tiếp cận được với chính sách này như: mức đóng BHXH tự nguyện còn cao, thủ tục rườm rà trong khi đó mức hưởng lại thấp hơn nhiều so với BHXH bắt buộc (chỉ được hưởng 2 chế độ là hưu trí và tử tuất) (Cử tri tỉnh Nghệ An – KN số 61):
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2008, được thực hiện với 2 chế độ là hưu trí và tử tuất, đảm bảo nguyên tắc “Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội”. Để thực hiện theo nguyên tắc trên thì các quy định về mức đóng và mức hưởng đối với hai chế độ hưu trí và tử tuất ở hai loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện phải có sự đồng nhất nhất định.
Trong thực tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, Luật BHXH cũng đã quy định người tham gia BHXH tự nguyện có thể lựa chọn và thay đổi các mức đóng khác nhau tùy theo khả năng của người lao động.
Ngay sau khi Luật BHXH được ban hành, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội nói chung và trong đó có bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm từng bước đưa chính sách bảo hiểm xã hội đến với người lao động và đông đảo nhân dân.
Tuy nhiên, do đây là một chính sách mới, việc triển khai thực hiện chính sách còn nhiều hạn chế. Với mạng lưới hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội chi đến cấp quận, huyện cũng là một khó khăn cho người dân trong tiếp cận chính sách này. Vấn đề này Bộ sẽ trao đổi với Bảo hiểm xã hội Việt Nam có biện pháp khắc phục trong thời gian tới.
Chế độ tử tuất trong chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực hiện với 2 hình thức hoặc là trợ cấp tuất hàng tháng hoặc là trợ cấp tuất một lần tương ứng với mỗi đối tượng và điều kiện nhất định.
Các trường hợp không đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng vẫn được tổ chức bảo hiểm xã hội giải quyết trợ cấp tuất một lần và không phụ thuộc vào độ tuổi của thân nhân người lao động.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động được hưởng lương hưu hàng tháng thì ngoài điều kiện về tuổi đời, còn có điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội (tối thiểu phải đủ 20 năm). Quy định này nhằm đảm bảo khả năng cân đối tài chính bảo hiểm xã hội, người lao động phải tích lũy đủ số năm đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội thì mới được hưởng chế độ hưu hàng tháng. Người lao động không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng thì giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
khoản 2 Điều 9 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện và khoản 2 Điều 11 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định người lao động nghỉ việc đã hết tuổi lao động, có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, chưa nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì được đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu hàng tháng.
Ngày 22/10/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
8. Đề nghị sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Bảo hiểm Xã hội đối với một số nội dung chưa được hướng dẫn cụ thể: sửa đổi, bố sung một số văn bản còn chồng chéo, bất cập như: hướng dẫn về khen thưởng người sử dụng lao động làm tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; cách tính mức tiền lương tiền công bình quân tháng hoặc mức thu nhập bình quân tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện sau đó đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; hạch toán quỹ bảo hiểm xã hội đối với người hưởng lương hưu vừa đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện; giám định mức suy giảm khả năng lao động của người lao động, giám định lại, giám định tổng hợp khả năng lao động do vết thương tái phát, bệnh cũ tái phát; chế độ nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe, …(Cử tri các tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh, Yên Bái – KN số 66):
Ngoài ra, trong chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2010, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Thông tư hướng dẫn về phân bổ quỹ bảo hiểm xã hội đối với người vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
9. Đề nghị Bộ sớm có văn bản hướng dẫn việc cấp sổ BHXH cho người lao động làm việc trong khu vực nhà nước, nghỉ chờ việc từ ngày 01/01/1987 đến 31/12/1994 vì các trường hợp này không đủ điều kiện về thủ tục hồ sơ do đơn vị sử dụng lao động nhiều lần sát nhập, chuyển đổi, chuyển giao qua nhiều cán bộ quản lý không có sự bàn giao quản lý cụ thể nên hồ sơ của người lao động bị thất lạc. Người lao động nghỉ chờ việc không được các doanh nghiệp chốt danh sách tại thời điểm 31/12/1994 (Cử tri tỉnh Thái Nguyên KN số 67):
- Việc giải quyết đối với các trường hợp hồ sơ gốc bị thất lạc đã được quy định tại khoản 9 Mục D Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Theo đó, trường hợp khi cấp sổ bảo hiểm xã hội hoặc khi giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất đối với người lao động chưa được cấp sổ bảo hiểm xã hội mà không còn hồ sơ gốc thì phải có văn bản của cơ quan chủ quản giải trình lý do bị mất, đồng thời xác nhận về quá trình tham gia bảo hiểm xã hội và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những xác nhận đó, kèm theo các giấy tờ có liên quan đến thời gian làm việc, nơi làm việc, tính chất công việc, tiền lương, tiền công (nếu có).
10. Đề nghị xem xét và quy định tuổi nghỉ hưu đối với những người làm việc tại các công ty may thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm để đảm bảo quyền lợi của người lao động: tuổi nghỉ hưu đối với nam là 50 tuổi, nữ 45 tuổi (Cử tri tỉnh Thái Nguyên – KN số 69):
Ngoài ra, đối với người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu với mức thấp hơn khi nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi trở lên.
11. Vấn đề bảo hiểm xã hội: bắt đầu từ năm 2010 mức đóng bảo hiểm xã hội tăng từ 20% lên 21,5% nhưng lại không điều chỉnh mức hưởng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội là không hợp lý. Đề nghị nhà nước điều chỉnh tăng mức được hưởng của người tham gia bảo hiểm xã hội khi phải về mất sức, về một lần (Cử tri tỉnh Thái Bình – KN số 70):
Để thực hiện nguyên tắc nêu trên, khi xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội việc tính toán mức hưởng bảo hiểm xã hội đã tính đến yếu tố tăng tỷ lệ mức đóng theo lộ trình từ năm 2010 đến năm 2014. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam thì quỹ hưu trí và tử tuất hiện hành vẫn chưa đảm bảo cân đối trong dài hạn. Cụ thể: số người hưởng lương hưu tăng với tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của đối tượng tham gia BHXH. Điều này được thể hiện số người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu ngày càng giảm, nếu như năm 1996 có 217 người đóng BHXH cho 1 người hưởng lương hưu, đến năm 2000 chỉ còn 34 người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu, con số này giảm xuống còn 19 người vào năm 2004 và đến năm 2009 thì chỉ có 11,1 người đóng BHXH cho 1 người hưởng lương hưu. Như vậy, với mức đóng-hưởng hiện hành cùng với tốc độ tăng đối tượng hưởng lương hưu như hiện nay, quỹ hưu trí và tử tuất sẽ khó đảm bảo cân đối trong dài hạn. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng trợ cấp đối với những người được hưởng chế độ mất sức lao động (theo chế độ bảo hiểm xã hội trước đây) hoặc về nghỉ hưởng chế độ một lần cũng phải nghiên cứu, xem xét đặt trong cân đối chung.
Theo quy định tại Điều 50, 51 Luật Bảo hiểm xã hội thì điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên. Việc quy định về tuổi đời và thời gian đóng BHXH nhằm đảm bảo nguyên tắc mức hưởng trên cơ sở mức đóng của BHXH và đảm bảo cân đối quỹ BHXH trong dài hạn.
khoản 2 điều 9 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHXH tự nguyện quy định người lao động khi đủ điều kiện về tuổi đời nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm so với quy định mà chưa nhận BHXH 1 lần, có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện thì được đóng tiếp BHXH tự nguyện cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu hàng tháng.
13. Đề nghị Chính phủ đẩy mạnh công tác chỉ đạo hoạt động thu bảo hiểm xã hội trên cơ sở thực hiện một cách có hiệu quả sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương (Kế hoạch Đầu tư, Lao động – Thương binh và Xã hội, Thống kê, Liên đoàn Lao động, các tổ chức chính trị xã hội …) để nắm đầy đủ số lượng đơn vị và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp nhằm mở rộng đối tượng hơn nữa đối tượng tham gia, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh (Cử tri tỉnh Đăk Nông – KN số 72):
khoản 2 Điều 20 Luật Bảo hiểm xã hội, trách nhiệm thu bảo hiểm xã hội là của tổ chức bảo hiểm xã hội. Một trong các giải pháp nhằm thúc đẩy công tác thu bảo hiểm xã hội là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành ở địa phương, đặc biệt là sự phối hợp giữa ngành Bảo hiểm xã hội, Lao động – Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động, Kế hoạch và Đầu tư, Thống kê, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất trong việc quản lý đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đôn đốc thu nộp bảo hiểm xã hội và thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
14. Đề nghị Bộ sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc từ chối thanh toán chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động trong trường hợp đơn vị nợ đọng quỹ bảo hiểm xã hội; quy định việc giải quyết quyền lợi cho người lao động bị từ chối thanh toán bảo hiểm xã hội (Cử tri tỉnh Yên Bái – KN số 73):
Trường hợp người sử dụng lao động chưa đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội thì tổ chức bảo hiểm xã hội chưa có căn cứ để ghi nhận thời gian và mức đóng trên sổ bảo hiểm xã hội.
15. Đề nghị hướng dẫn cụ thể về chi trả trợ cấp khu vực cho đối tượng nghỉ chế độ một lần do điều chỉnh lại hệ số phụ cấp khu vực như khi đóng phụ cấp khu vực theo các quy định trước đây thì địa bàn có phụ cấp khu vực cao nay điều chỉnh phụ cấp khu vực theo Thông tư 11 ngày 05/01/2005 và Công văn 798 ngày 30/3/2009 của BHXH Việt Nam có phụ cấp khu vực thấp gây thiệt thòi cho đối tượng thụ hưởng (Cử tri tỉnh Đăk Nông – KN số 75):
Từ ngày 01/01/2007 trở đi, theo quy định của Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn, quy định tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động tham gia BHXH bắt buộc không bao gồm phụ cấp khu vực; tại Điều 90 Luật Bảo hiểm xã hội về sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc không có quy định nội dung chi trả phụ cấp khu vực và tại khoản 2 Điều 139 Luật Bảo hiểm xã hội về quy định chuyển tiếp quy định người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tiền tuất hàng tháng trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn thực hiện theo các quy định trước đây. Do đó, căn cứ các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, đối với các đối tượng đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng trước ngày 01/01/2007 vẫn thực hiện chi trả chế độ phụ cấp khu vực theo quy định tại Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT và tạm thời dừng thực hiện chi trả chế độ phụ cấp khu vực đối với người nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH từ ngày 01/01/2007. Như vậy, có một bộ phận người lao động đã đóng BHXH bao gồm cả phụ cấp khu vực, từ ngày 01/01/2007 nghỉ việc hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng ở nơi có phụ cấp khu vực chưa được hưởng chế độ phụ cấp khu vực.
Theo nội dung các văn bản nêu trên, mức trợ cấp một lần được tính tương ứng với thời gian và số tiền phụ cấp khu vực đã đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Việc xác định hệ số phụ cấp khu vực theo các mức quy định tại Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT nhằm đảm bảo tương quan và thống nhất với việc chi trả phụ cấp khu vực đối với những người đã nghỉ việc hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội trước ngày 01/01/2007.
Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì lương hưu được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương, tiền công hàng tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. Như vậy, đối với những người có cùng thời gian công tác như nhau thì tiền lương hưu cao hơn hay thấp hơn sẽ phụ thuộc vào mức tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cao hay thấp.
III. VỀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC
Để đảm bảo thực hiện nghiêm pháp luật về bảo hiểm xã hội và đáp ứng yêu cầu của đông đảo cử tri cả nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội thay thế Nghị định số 135 theo hướng tăng mức xử phạt hành vi vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội từ 20.000.000 đồng lên 30.000.000 đồng bằng mức quy định tối đa cho phép trong Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02/4/2008. Nghị định số 86/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ 01/10/2010. Vì vậy, trước mắt Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tập trung triển khai thực hiện tốt Nghị định này.
Liên quan đến những nội dung về bảo hiểm y tế thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ Y tế.
Như vậy, những chế tài xử phạt đã tương ứng với các hành vi, phù hợp với tính chất và mức độ vi phạm của người sử dụng lao động ./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Ủy ban CVĐXH Quốc hội;
- Ủy ban VHGDTNTNNĐ Quốc hội;
- Chủ nhiệm VPQH;
- Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP;
- Trưởng đoàn ĐBQH 63 tỉnh, thành phố;
- Bộ LĐTBXH: Bộ trưởng, các Thứ trưởng, Vụ BHXH, Vụ LĐTL và Vụ PC;
- Lưu VP, TKTH (2).
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Phạm Minh Huân
Từ khóa: Công văn 3265/LĐTBXH-VP, Công văn số 3265/LĐTBXH-VP, Công văn 3265/LĐTBXH-VP của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Công văn số 3265/LĐTBXH-VP của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Công văn 3265 LĐTBXH VP của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 3265/LĐTBXH-VP
File gốc của Công văn 3265/LĐTBXH-VP trả lời kiến nghị cử tri kỳ họp thứ 7 do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành đang được cập nhật.
Công văn 3265/LĐTBXH-VP trả lời kiến nghị cử tri kỳ họp thứ 7 do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội |
Số hiệu | 3265/LĐTBXH-VP |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Phạm Minh Huấn |
Ngày ban hành | 2010-09-21 |
Ngày hiệu lực | 2010-09-21 |
Lĩnh vực | Bảo hiểm |
Tình trạng | Còn hiệu lực |