BỘ NGOẠI GIAO | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 32/2014/TB-LPQT | Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2014 |
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Khoản 3, Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao Hiệp định theo quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên.
TL. BỘ TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Ngự
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập,
thỏa thuận dưới đây:
Hiệp định này áp dụng đối với các đối tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một Nước ký kết đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.
của thu nhập bao gồm các khoản thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, và các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp chi trả sẽ được coi là các loại thuế đánh vào thu nhập.
(a) tại Việt Nam:
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp
(b) tại Niu Di-lân: thuế thu nhập
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với các loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
(b) thuật ngữ “Niu Di-lân” có nghĩa là lãnh thổ của Niu Di-lân nhưng không bao gồm Tokelau; thuật ngữ này cũng bao gồm bất kỳ vùng nào ngoài lãnh hải được quy định theo pháp luật của Niu Di-lân và phù hợp với luật pháp quốc tế như một vùng tại đó Niu Di-lân có thể thực hiện các quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên;
(d) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
của một Nước ký kết và một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một doanh nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia;
(i) trong trường hợp của Niu Di-lân, là Tổng cục Trưởng Cục thu nội địa hoặc người đại diện được ủy quyền; và
(h) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”, có liên quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
trường hợp của Niu Di-lân, là bất kỳ cá nhân nào có quyền công dân của Niu Di-lân; và
kết đó;
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó, đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm đó, bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ đó theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nơi cư trú, nhà ở, trụ sở đăng ký, trụ sở thành lập, trụ sở điều hành, hoặc bất kỳ tiêu chuẩn nào khác có tính chất tương tự, và cũng bao gồm cả Nhà nước đó hoặc bất kỳ cơ quan chính quyền địa phương nào của Nhà nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó.
(a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
(c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở cả hai Nước hoặc không thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
3. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1, một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, khi đó đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước có trụ sở điều hành thực tế của đối tượng đó. Nếu không xác định được Nước nơi có trụ sở điều hành thực tế, hoặc trụ sở điều hành thực tế không có ở Nước nào, khi đó các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ cố gắng để xác định Nước mà có đối tượng sẽ được coi là đối tượng cư trú vì mục đích của Hiệp định bằng thỏa thuận chung phù hợp với Điều 24, có xem xét tới trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký hoặc thành lập và bất kỳ các yếu tố liên quan nào khác. Trong trường hợp không có thỏa thuận như vậy, đối tượng đó sẽ không được hưởng bất kỳ quyền miễn hay giảm thuế nào quy định tại Hiệp định này.
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
(a) trụ sở điều hành;
(c) văn phòng;
(e) xưởng;
(g) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
4. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động mang tính chất nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự án liên quan) tại một Nước ký kết trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng.
(a) doanh nghiệp tiến hành các hoạt động tại Nước đó bao gồm, hoặc có liên quan đến việc thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên, kể cả rừng trồng và rừng tự nhiên tại Nước đó; hoặc
6. Để xác định thời gian của các hoạt động theo khoản 3 và 4, giai đoạn trong đó các hoạt động được thực hiện tại một Nước ký kết bởi một doanh nghiệp liên kết với một doanh nghiệp khác sẽ được gộp vào giai đoạn trong đó các hoạt động được thực hiện bởi doanh nghiệp mà được liên kết với nó nếu như các hoạt động được nêu đầu tiên gắn kết với các hoạt động được thực hiện tại Nước đó bởi doanh nghiệp thứ hai, với điều kiện là bất kỳ giai đoạn nào trong đó hai hay nhiều hơn các doanh nghiệp liên kết thực hiện các hoạt động đồng thời thì chỉ được tính một lần. Một doanh nghiệp sẽ được coi là có liên kết với một doanh nghiệp khác nếu một doanh nghiệp bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi doanh nghiệp kia, hoặc nếu cả hai doanh nghiệp bị kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bởi một đối tượng thứ ba hoặc bởi nhiều đối tượng.
(a) việc sử dụng các phương tiện chỉ cho mục đích lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp;
(c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
(e) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp.
trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh tại khoản 9 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh nghiệp và:
(b) thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hoặc tài sản, qua đó đối tượng này thường xuyên giao hàng hóa hoặc tài sản thay mặt cho doanh nghiệp; hoặc
doanh nghiệp đó sẽ được coi là có một cơ sở thường trú tại Nước đó đối với bất kỳ hoạt động nào mà đối tượng đó thực hiện cho doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 7 mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định này trở thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại khoản đó.
là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc ngư nghiệp) đặt tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
là bất động sản.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng cho thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
(a) cơ sở thường trú đó; hoặc
cơ sở thường trú của doanh nghiệp cho rằng doanh nghiệp đã tham gia vào một dàn xếp liên quan đến việc bán những hàng hóa hoặc tài sản này để tránh thuế đánh vào những lợi nhuận này tại Nước ký kết đó.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ các khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ tiền thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt, hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi nhuận của cơ sở thường trú, sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ chức ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được chấp nhận sẽ có kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
6. Khi:
ủy thác của một tín thác mà không phải là một tín thác được đối xử như một công ty vì các mục đích thuế; và
ủy thác là đối tượng cư trú của Nước thứ nhất, có hoặc sẽ có, một cơ sở thường trú tại Nước kia,
ủy thác thông qua một cơ sở thường trú như vậy sẽ được coi là việc kinh doanh được thực hiện tại Nước kia bởi đối tượng cư trú đó thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia và phần chia lợi tức của đối tượng cư trú đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ đối với phần lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú đó.
ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
Điều 8. VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
2. Mặc dù có các quy định tại khoản 1 và Điều 7, lợi nhuận do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thu được từ việc vận chuyển hành khách, gia súc, thư, hàng hóa hoặc tài sản bằng tàu thủy hoặc máy bay mà hàng được vận chuyển hoặc bốc lên tại Nước ký kết kia và được bốc dỡ ở một địa điểm tại Nước đó, hoặc cho thuê nguyên tàu thủy hoặc máy bay để vận chuyển như vậy, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
Điều 9. CÁC DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
(a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
và trong cả hai trường hợp, trong mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá:
(b) 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần trong tất cả các trường hợp còn lại.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc các quyền lợi khác được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Sẽ không có một sự miễn, giảm nào theo Điều này nếu mục đích chính hoặc một trong những mục đích chính của bất kỳ đối tượng nào liên quan đến việc chuyển nhượng tiền lãi cổ phần, hoặc liên quan đến tạo lập hoặc chuyển nhượng cổ phần hoặc các quyền khác mà theo đó tiền lãi cổ phần được trả, hoặc việc thành lập, mua lại hoặc duy trì công ty là chủ sở hữu thực hưởng của tiền lãi cổ phần và tiến hành hoạt động của nó để lợi dụng Điều này. Trong mọi trường hợp khi một Nước ký kết có ý định áp dụng khoản này, nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó sẽ tham khảo ý kiến với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia.
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
3. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi nhuận của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền thưởng và giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó cũng như tất cả các thu nhập được coi là thu nhập từ tiền cho vay theo quy định của pháp luật liên quan đến thuế, của Nước ký kết mà thu nhập phát sinh, nhưng không bao gồm thu nhập được coi là tiền lãi cổ phần theo quy định tại Điều 10.
kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia hoặc thực hiện tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc (b) với các hoạt động nêu tại tiết khoản 1(b) của Điều 7. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay đó được chịu hoặc được trừ khi xác định lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó thì dù đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản lãi từ tiền cho vay này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
(a) việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả nào (bao gồm việc sử dụng hoặc quyền sử dụng bất kỳ bản quyền của một tác phẩm văn học, vở kịch, tác phẩm âm nhạc, hoặc nghệ thuật, ghi âm, các loại phim, phát thanh hoặc truyền hình, các chương trình cáp, hoặc các kiểu chữ của các ấn phẩm đã được xuất bản, sáng chế, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, nhãn hiệu, hoặc tài sản hoặc quyền khác;
(c) kiến thức hoặc thông tin liên quan đến các kinh nghiệm kỹ thuật, công nghiệp, thương mại hoặc khoa học;
(e) việc hạn chế toàn bộ hoặc một phần đối với việc sử dụng hoặc cung cấp bất kỳ tài sản hoặc quyền nào đề cập tại khoản này.
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước ký kết kia hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, và quyền hoặc tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với (b) các hoạt động nêu tại tiết khoản 1(b) của Điều 7. Trong trường hợp này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền, liên quan đến việc sử dụng, quyền hoặc thông tin có số tiền bản quyền được trả, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 13. CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
2. Thu nhập hoặc giá trị tăng thêm từ việc chuyển nhượng động sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập kể cả thu nhập hoặc giá trị tăng thêm từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
với hoạt động của các tàu thủy hoặc máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Không có nội dung nào của Điều này ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật của một Nước ký kết đối với việc đánh thuế vào thu nhập tăng thêm có bản chất vốn thu được từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào khác với những tài sản mà bất kỳ các khoản trên của điều này áp dụng.
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hoặc các hoạt động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ khi các dịch vụ đó được thực hiện tại Nước ký kết kia và:
(b) cá nhân đó thường xuyên có tại Nước kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động của cá nhân đó.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
1. Thể theo các quy định tại các Điều 16, 18 và 19 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu công việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
(a) người nhận tiền công có mặt tại Nước ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tính thuế liên quan, và
(c) tiền công không được chịu hoặc không được khấu trừ khi xác định lợi nhuận phân bổ cho một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
Điều 17. NGƯỜI BIỂU DIỄN VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định tại các Điều 7, 14 và 15.
(b) Tuy nhiên, khoản thanh toán này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước ký kết kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, đồng thời:
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước ký kết kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. Khoản tiền thù lao mà một sinh viên hoặc thực tập sinh kinh doanh vốn là hoặc trước đó là đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được từ công việc mà sinh viên hoặc thực tập sinh đó thực hiện tại Nước ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong năm thu nhập có liên quan sẽ không bị đánh thuế tại Nước kia nếu công việc này liên quan trực tiếp đến việc học tập hoặc thực tập của cá nhân đó diễn ra tại Nước thứ nhất.
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
trường hợp, sẽ được áp dụng.
Điều 22. XOÁ BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được thu nhập hoặc giá trị tăng thêm mà theo các luật của Niu Di-lân, và phù hợp với Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại Niu Di-lân, Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đánh trên thu nhập hoặc tài sản một khoản tiền bằng số tiền thuế đã nộp tại Niu Di-lân. Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm được tính phù hợp với các luật và quy định về thuế của Việt Nam.
2. Tại Niu Di-lân, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được thực hiện như sau:
của Niu Di-lân từ các nguồn tại Việt Nam (trong trường hợp tiền lãi cổ phần, trừ khoản thuế được nộp liên quan đến lợi nhuận dùng để chia tiền lãi cổ phần) sẽ được cho phép khấu trừ thuế Niu Di-lân phải nộp liên quan đến thu nhập đó.
3. Vì mục đích của khoản 2(a) của Điều này:
(b) Vì mục đích của tiết khoản 3(a) của Điều này, số thuế phải nộp được coi là đã nộp tại Việt Nam đối với tiền lãi cổ phần mà khoản 2 Điều 10 áp dụng, đối với lãi từ tiền cho vay mà khoản 2 Điều 11 áp dụng và đối với tiền bản quyền mà khoản 2 Điều 12 áp dụng sẽ được coi là 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần đó mà tiết khoản 2(a) áp dụng, 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần đó mà tiết khoản 2(b) áp dụng, 10 phần trăm tổng số lãi từ tiền cho vay đó và 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền đó.
(a) đối tượng cư trú của Niu Di-lân là một tổ chức tài chính hoặc có liên kết với một tổ chức tài chính;
(i) liệu có bất cứ thỏa thuận trước nào đã có bởi bất cứ đối tượng nào vì mục đích lợi dụng khoản 3(a) để đối tượng đó hoặc bất kỳ đối tượng nào được hưởng lợi;
(iii) việc chống gian lận hoặc tránh các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng;
5. Quy định tại khoản 3 của Điều này sẽ chỉ áp dụng trong khoảng thời gian 10 năm sau ngày Hiệp định này có hiệu lực.
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất cứ hình thức thuế nào hoặc bất cứ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hoặc nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể áp dụng đối với các đối tượng mang quốc tịch của Nước kia, đặc biệt đối với đối tượng cư trú, trong cùng các hoàn cảnh như nhau.
trong cùng các hoàn cảnh như nhau. Quy định này sẽ không được giải thích là buộc một Nước ký kết phải cho các cá nhân là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm nào vì mục đích thuế mà đối tượng cư trú của Nước ký kết được hưởng.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia kiểm soát hoặc sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước ký kết thứ nhất bất cứ hình thức thuế hoặc yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước ký kết thứ nhất trong cùng các hoàn cảnh như nhau.
Điều 24. THỦ TỤC THỎA THUẬN SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng với các quy định của Hiệp định này, khi đó đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước ký kết đã quy định các chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng không đúng với các quy định của Hiệp định.
trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với quy định của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian quy định tại luật trong nước của hai Nước ký kết.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm đạt được một thỏa thuận theo nội dung của các khoản trên đây.
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau các thông tin được thấy trước là thích hợp cho việc thực hiện các quy định tại Hiệp định này hoặc để quản lý, cưỡng chế tuân thủ các luật thuế trong nước của từng Nước ký kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương sao cho việc đánh thuế theo các luật trong nước không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin không bị giới hạn bởi Điều 1.
3. Không có trường hợp nào mà các quy định tại khoản 1 và 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp các thông tin có thể làm tiết lộ bí mật về thương mại, kinh doanh, công nghiệp, thương nghiệp hoặc bí mật nghề nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể trái với chính sách quốc gia.
sử dụng các biện pháp thu thập thông tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Nước kia có thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của mình. Nghĩa vụ được quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không có nghĩa là cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì Nước ký kết đó không có lợi ích trong nước đối với các thông tin như vậy.
ủy thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
Không nội dung nào tại Hiệp định này ảnh hưởng đến các ưu đãi về thuế của thành viên cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự theo các quy phạm chung của pháp luật quốc tế hoặc các quy định tại các hiệp định đặc biệt.
Mỗi Nước ký kết, thông qua đường ngoại giao, sẽ thông báo cho nhau biết việc hoàn tất các thủ tục theo yêu cầu của pháp luật nước mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày nhận được thông báo sau cùng và Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành:
(i) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn thu trên các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực, và các năm tiếp theo; và
(b) tại Niu Di-lân:
tháng 1 của năm sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực;
(a) tại Việt Nam:
(ii) đối với các loại thuế khác của Việt Nam, liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hay giá trị tăng thêm phát sinh vào ngày hoặc sau ngày mùng 1 tháng 1 năm dương lịch tiếp sau năm gửi thông báo;
(i) liên quan đến thuế khấu trừ đối với thu nhập, lợi nhuận hay giá trị tăng thêm phát sinh bởi một đối tượng không cư trú, các khoản trả cho hoặc được khấu trừ vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 năm dương lịch tiếp sau năm nhận được thông báo;
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã ký vào Hiệp định này.
ngày 05 tháng 8 năm 2013 thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Phạm Quang Vinh
THỨ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC NIU DI-LÂN
Ngài Haike Manning
ĐẠI SỨ
Hai bên nhất trí rằng mặc dù có các quy định tại Khoản 1 và 2 của Điều này, các loại thuế bao gồm trong Hiệp định không bao gồm bất cứ khoản phạt hoặc tiền lãi được áp dụng bởi một trong hai Nước ký kết liên quan đến việc không tuân thủ luật thuế của một Nước ký kết, bao gồm việc chậm nộp hoặc không nộp các khoản thuế.
Liên quan đến Điều 6 của Hiệp định:
Hai bên thỏa thuận rằng Điều này sẽ không áp dụng đối với bất kỳ điều khoản nào của pháp luật của cả hai Nước ký kết mà:
(i) các biện pháp được thiết kế để điều chỉnh vốn hóa mỏng và xác định giá chuyển nhượng;
(iii) các biện pháp được thiết kế nhằm đảm bảo thu thuế và truy thu thuế hiệu quả, bao gồm các biện pháp bảo vệ;
(c) quy định hợp nhất xử lý nhóm các thực thể để xử lý như một thực thể duy nhất cho mục đích thuế nếu một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, mà toàn bộ hay một phần vốn của công ty đó do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, có thể tiếp cận việc xử lý hợp nhất như vậy về cùng các điều kiện và điều khoản như các công ty khác là đối tượng cư trú của Nước ký kết thứ nhất;
(e) không cho phép miễn thuế liên quan đến tiền lãi cổ phần trả bởi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết cho mục đích thuế của Nước đó; hoặc
Hai bên thỏa thuận rằng tín thác là đối tượng chịu thuế tại một Nước ký kết liên quan đến tiền lãi cổ phần, lãi từ tiền cho vay hoặc tiền bản quyền sẽ được coi là chủ sở hữu thực hưởng của tiền lãi cổ phần, lãi từ tiền cho vay hoặc tiền bản quyền đó.
Liên quan đến khoản 1 của Điều 25:
thời điểm nào sau ngày ký Nghị định thư này, Việt Nam đồng ý bổ sung một tham chiếu đến Điều 2 tại câu cuối của khoản đó trong bất cứ các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập trong tương lai của Việt Nam thì Việt Nam sẽ không trì hoãn một cách không hợp lý việc đàm phán với Niu Di-lân với quan điểm đưa ra một sự đối xử tương ứng.
LÀM tại Hà Nội ngày 05 tháng 8 năm 2013, thành hai bản bằng tiếng Việt và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Phạm Quang Vinh
THỨ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC NIU DI-LÂN
Ngài Haike Manning
ĐẠI SỨ
Từ khóa: Điều ước quốc tế 32/2014/TB-LPQT, Điều ước quốc tế số 32/2014/TB-LPQT, Điều ước quốc tế 32/2014/TB-LPQT của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Niu Di-lân, Điều ước quốc tế số 32/2014/TB-LPQT của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Niu Di-lân, Điều ước quốc tế 32 2014 TB LPQT của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Niu Di-lân, 32/2014/TB-LPQT
File gốc của Thông báo hiệu lực của Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập giữa Việt Nam và Niu Di-lân đang được cập nhật.
Thông báo hiệu lực của Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập giữa Việt Nam và Niu Di-lân
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ Niu Di-lân |
Số hiệu | 32/2014/TB-LPQT |
Loại văn bản | Điều ước quốc tế |
Người ký | Phạm Quang Vinh, Haike Manning |
Ngày ban hành | 2013-08-05 |
Ngày hiệu lực | 2014-05-05 |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
Tình trạng | Còn hiệu lực |