(Được thông qua theo Nghị quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc).
1.2. Các Quốc gia thành viên cần tạo những điều kiện bảo đảm cho người chưa thành niên có một cuộc sống ý nghĩa trong cộng đồng. Việc làm này sẽ giúp thúc đẩy quá trình phát triển của mỗi cá nhân và giúp giáo dục người chưa thành niên không phạm tội và phạm pháp vào những giai đoạn người chưa thành niên dễ có những hành vi sai lạc nhất.
1.4. Tư pháp đối với người chưa thành niên phải được coi là một bộ phận hợp thành của quá trình phát triển đất nước ở mỗi quốc gia, trong khuôn khổ toàn diện của công bằng xã hội đối với tất cả những người chưa thành niên, từ đó góp phần bảo vệ thế hệ trẻ và duy trì trật tự, yên bình cho xã hội.
1.6. Các hoạt động xét xử đối với người chưa thành niên phải được phát triển và phối hợp một cách có hệ thống, nhằm duy trì và cải thiện năng lực của những người tham gia làm các công việc này, trong đó có vấn đề phương pháp, cách thức tiếp cận và thái độ của họ.
Những điều khái quát căn bản này đề cập đến chính sách xã hội toàn diện nói chung và nhằm mục đích tăng cường phúc lợi đối với người chưa thành niên đến mức cao nhất có thể. Điều này sẽ giúp giảm thiểu nhu cầu can thiệp của hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên, và từ đó sẽ giảm tác hại có thể xảy ra khi có sự can thiệp. Các biện pháp chăm lo cho người chưa thành niên, trước khi các em có hành vi phạm pháp, là những điều kiện tiên quyết trong chính sách cơ bản để tránh phải áp dụng các quy tắc này.
Quy tắc 1.5 ghi nhận những điều kiện đang tồn tại ở các Quốc gia thành viên khiến cho cách thức thực hiện những quy tắc cụ thể ở quốc gia này khác với ở quốc gia khác.
2.1. Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu dưới đây phải được áp dụng một cách không thiên vị đối với người phạm tội chưa thành niên, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc xã hội hoặc dân tộc, tài sản, dòng dõi hoặc các mối tương quan khác.
a. Người chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu niên mà tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với người lớn.
c. Người chưa thành niên phạm tội là trẻ em hay thanh thiếu niên bị cáo buộc, hay bị kết luận là đã phạm tội.
a. Đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người chưa thành niên phạm tội, đồng thời bảo vệ những quyền lợi cơ bản của các em;
c. Thi hành những quy tắc sau một cách triệt để và công bằng.
Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu được xây dựng một cách cẩn trọng để có thể áp dụng trong các hệ thống pháp luật khác nhau và đồng thời đặt ra một vài tiêu chuẩn tối thiểu trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội dù theo bất cứ một định nghĩa nào về người chưa thành niên và theo bất cứ hệ thống nào xử lý người chưa thành niên phạm tội. Những quy tắc phải luôn luôn được áp dụng một cách vô tư, không có sự phân biệt.
Quy tắc 2.2 định nghĩa “người chưa thành niên” và “phạm tội” là yếu tố chính của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu (tuy nhiên cũng có thể xem trong các Quy tắc 3 và 4). Cần lưu ý rằng giới hạn tuổi đối với người được coi là chưa thành niên phụ thuộc vào quy định của từng hệ thống pháp luật – quy định này phải được tuyên bố công khai, do vậy hoàn toàn tôn trọng hệ thống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và pháp luật của từng Quốc gia thành viên. Điều này khiến cho có nhiều giới hạn tuổi khác nhau được quy định đối với “người chưa thành niên”, có thể từ 7 đến 18 tuổi hoặc cao hơn. Điều này dường như không thể tránh khỏi khi xem xét các hệ thống pháp luật quốc gia khác nhau và không làm giảm tác động của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu. Quy tắc 2.3 nêu lên sự cần thiết phải có các quy định pháp luật cụ thể của quốc gia nhằm thực hiện tốt nhất Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu này, cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế.
3.1. Các điều khoản có liên quan của Các Quy tắc không chỉ áp dụng đối với những người chưa thành niên phạm tội, mà còn đối với những người chưa thành niên bị kiện vì bất kỳ một hành vi cụ thể nào mà hành vi này không bị xử phạt nếu do người lớn phạm phải.
3.3. Cần phải cố gắng mở rộng các nguyên tắc trong Các Quy tắc này đối với những người thành niên trẻ tuổi phạm pháp.
Quy tắc 3 mở rộng phạm vi bảo vệ của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư pháp đối với người chưa thành niên, bao gồm:
2. Những thủ tục về phúc lợi và chăm sóc đối với người chưa thành niên (Quy tắc 3.2).
Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu mở rộng phạm vi áp dụng đối với ba vấn đề trên là hoàn toàn hợp lý. Quy tắc 3.1 đưa ra những bảo đảm tối thiểu trong các lĩnh vực nêu trên và Quy tắc 3.2 được coi là một bước cần thiết nhằm hướng tới một nền tư pháp công bằng, bình đẳng và nhân đạo hơn đối với tất cả người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Trong những hệ thống pháp luật công nhận khái niệm tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên thì không được quy định quá thấp tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự, mà cần lưu ý đến thực tế của độ trưởng thành về trí tuệ, tinh thần và tình cảm của người phải chịu trách nhiệm hình sự.
Có sự khác nhau lớn trong việc quy định tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự là do điều kiện lịch sử và văn hóa. Cách tiếp cận hiện đại là xét xem liệu một đứa trẻ có cách hành xử có đúng với những yếu tố tâm lý và đạo đức cấu thành trách nhiệm hình sự hay không; hay nói cách khác, liệu một đứa trẻ – với nhận thức và hiểu biết của cá nhân mình – có phải chịu trách nhiệm trước những hành vi chống đối xã hội một cách căn bản hay không. Nếu tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định quá thấp, hay nếu như không có giới hạn mức độ tuổi thấp hơn, thì khái niệm trách nhiệm sẽ trở thành vô nghĩa. Nói chung, có một mối quan hệ rất chặt chẽ giữa khái niệm trách nhiệm đối với những hành vi phạm pháp và phạm tội với các quyền và những trách nhiệm xã hội khác (như tình trạng hôn nhân tuổi thành niên về dân sự…).
5. Các mục tiêu của áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên
Diễn giải
Mục tiêu thứ hai là “nguyên tắc về tính tương xứng”. Nguyên tắc này được biết đến như là một công cụ để hạn chế các biện pháp trừng phạt, và thường được giải thích là những biện pháp trừng phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Việc xét xử người phạm tội trẻ tuổi phải dựa trên cơ sở không chỉ xem xét mức độ phạm tội, mà còn phải xét đến hoàn cảnh riêng của người đó. Những hoàn cảnh cá nhân của người phạm tội (ví dụ như địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình, sự thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, hay những nhân tố khác tác động đến hoàn cảnh cá nhân) sẽ ảnh hưởng đến các biện pháp xử lý tương xứng (ví dụ như xét đến cố gắng của người phạm tội trong việc bồi thường cho người bị hại, hay thái độ của người đó cho thấy sự cố gắng sửa chữa để quay trở lại cuộc sống lành mạnh và có ích).
Về cơ bản, Quy tắc 5 không yêu cầu gì ngoài một sự xét xử công bằng đối với bất cứ vụ phạm pháp và phạm tội nào ở người chưa thành niên. Những vấn đề được quy định kết hợp trong quy tắc này có thể giúp khuyến khích phát triển theo hai khía cạnh: cần có những hình thức xử lý mới mẻ và mang tính cải tiến, cũng như những hình thức phòng ngừa chống lại bất cứ sự mở rộng quá mức nào đối với mạng lưới kiểm soát xã hội chính thức dành cho người chưa thành niên.
6.1. Xét thấy các nhu cầu đặc biệt của người chưa thành niên cũng như các biện pháp có thể áp dụng đều rất đa dạng, cần phải có quy định thích hợp đối với thẩm quyền quyết định ở tất cả giai đoạn của thủ tục tố tụng, cũng như ở tất cả các cấp xét xử tư pháp đối với người chưa thành niên, bao gồm điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
6.3. Những người có thẩm quyền quyết định phải đáp ứng các tiêu chuẩn đặc biệt hoặc được đào tạo đặc biệt để thi hành nhiệm vụ một cách sáng suốt và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của họ.
Các Quy tắc 6.1, 6.2 và 6.3 kết hợp một vài đặc điểm quan trọng của hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên theo hướng nhân đạo, công bằng và có hiệu quả: sự cần thiết phải cho phép thực thi thẩm quyền quyết định ở tất cả các cấp quan trọng của tiến trình tố tụng, để những người có quyền ra quyết định có thể có những hành động mà họ cho rằng đúng đắn nhất trong từng trường hợp cụ thể; và sự cần thiết phải kiểm tra, giữ cân bằng nhằm hạn chế bất cứ hành động lạm quyền nào và để bảo vệ quyền của thanh thiếu niên phạm tội. Việc chịu trách nhiệm và chuyên môn nghiệp vụ là những phương tiện thích hợp nhất để hạn chế sự lạm quyền quyết định ở quy mô lớn. Vì vậy, những tiêu chuẩn chuyên môn và việc đào tạo sâu về chuyên môn ở đây cần được nhấn mạnh và được coi như những phương tiện có giá trị bảo đảm việc thực thi quyền phán quyết đối với người chưa thành niên phạm tội (xem thêm các Quy tắc 1.6 và 2.2). Trong hoàn cảnh như vậy, cần chú trọng xây dựng những hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện quyền tự quyết và áp dụng những hệ thống xem xét, kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề tương tự nhằm cho phép xem xét lại các quyết định và vấn đề trách nhiệm. Những cơ chế như thế không được cụ thể hóa ở đây vì chúng không thể dễ dàng được quy định một cách nhất quán trong các quy tắc chuẩn mực tối thiểu quốc tế - những quy tắc này không thể bao quát tất cả những sự khác biệt trong các hệ thống tư pháp.
Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, cần bảo đảm các biện pháp bảo vệ mang tính thủ tục cơ bản, như giả định vô tội, quyền được thông báo về các lời buộc tội, quyền được giữ yên lặng, quyền được có luật sư bào chữa, quyền được sự có mặt của cha mẹ hay người giám hộ, quyền đối chất và thẩm vấn chéo các nhân chứng, quyền kháng cáo lên một cơ quan có thẩm quyền cao hơn.
Quy tắc 7 nhấn mạnh một số điểm quan trọng được xem là những yếu tố cơ bản bảo đảm cho quá trình xét xử được công bằng, bình đẳng, và những điểm này đã được quốc tế công nhận trong những văn kiện hiện hành về quyền con người (xem thêm Quy tắc 1.4). Ví dụ, cũng có thể thấy quyền giả định vô tội trong Điều 11 của Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người, và trong đoạn 2 Điều 14 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
8.2. Về nguyên tắc, không được công bố những thông tin có thể dẫn đến việc nhận dạng người phạm tội chưa thành niên.
Quy tắc 8 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền riêng tư của người chưa thành niên. Thanh thiếu niên đặc biệt dễ bị tổn thương khi bị bêu xấu. Các nghiên cứu tội phạm học về sự quy chụp đã cho chứng cứ về những ảnh hưởng tai hại (dưới nhiều dạng khác nhau) khi một người chưa thành niên vĩnh viễn bị coi là “người phạm pháp” hay “tội phạm”.
Diễn giải
10.1. Trong những trường hợp bắt giam người chưa thành niên, cha mẹ hay người giám hộ người chưa thành niên đó phải được thông báo ngay về sự bắt giữ đó. Trong những trường hợp không thể thông báo ngay thì cha mẹ hay người giám hộ người chưa thành niên đó phải được thông báo trong thời gian sớm nhất có thể sau khi bắt giữ.
10.3. Sự tiếp xúc giữa những cơ quan thực hiện pháp luật và người chưa thành niên phạm tội phải được thực hiện theo cách tôn trọng địa vị pháp lý của người chưa thành niên, tăng cường phúc lợi cho người chưa thành niên và tránh làm tổn hại đến các em, trên cơ sở có xem xét thỏa đáng đến hoàn cảnh của vụ án.
Quy tắc 10.1 về cơ bản đã có trong Quy tắc 92 của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân.
mục 3, Điều 9 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị).
11. Các biện pháp thay thế chế tài hình sự
11.2. Cảnh sát, cơ quan công tố hay những cơ quan khác có trách nhiệm giải quyết những vụ án liên quan đến người chưa thành niên cần được toàn quyền xử lý những vụ án như vậy mà không dùng đến những phiên tòa chính thức, theo tiêu chuẩn đã được định ra cho mục đích đó trong từng hệ thống pháp luật và theo các nguyên tắc đã được nêu trong văn kiện này.
11.4. Để tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền quyết định đối với các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, cần phải giám sát và hướng dẫn tạm thời đối với các chương trình cộng đồng, cũng như quan tâm đến việc đền bù cho nạn nhân.
Việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự, thông thường là chuyển giao cho các tổ chức hỗ trợ ở cộng đồng, được áp dụng rộng rãi trên cơ sở chính thức và không chính thức trong nhiều hệ thống pháp luật. Việc này nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của các thủ tục tố tụng tiếp theo trong áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên (ví dụ người chưa thành niên phạm tội sẽ phải chịu một vết nhơ khi bị buộc tội và tuyên án). Trong nhiều trường hợp, cách giải quyết tốt nhất là không có sự can thiệp của tòa án. Vì vậy, việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự ngay từ đầu và không chuyển giao cho những tổ chức (xã hội) khác có thể là cách tối ưu. Đặc biệt trong trường hợp hành vi phạm tội không mang tính chất nghiêm trọng, và gia đình, nhà trường hoặc những tổ chức quản lý xã hội không chính thức khác đã có cách xử lý hoặc có khả năng xử lý theo một hướng phù hợp và mang tính xây dựng.
Quy tắc 11.3 nhấn mạnh yêu cầu quan trọng của việc bảo đảm sự đồng ý của người thanh thiếu niên (hay của cha mẹ hoặc người giám hộ) đối với các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự được kiến nghị (Việc chuyển giao cho các tổ chức cộng đồng mà không có sự đồng ý của thanh thiếu niên phạm tội sẽ vi phạm Công ước về xóa bỏ lao động cưỡng bức). Tuy nhiên, sự đồng ý này không phải là không thể thay đổi, vì có thể nó được đưa ra trong tình cảnh quẫn bách từ phía người chưa thành niên. Quy tắc này nhấn mạnh cần có sự quan tâm chăm sóc để giảm thiểu khả năng tiềm tàng của sự ép buộc và đe dọa ở tất cả các cấp trong quá trình sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự. Người chưa thành niên phải cảm thấy không bị ép buộc (ví dụ như để tránh việc ra trước tòa) hoặc bị ép buộc đồng ý với các biện pháp thay thế khác. Vì vậy, đánh giá tính thích hợp của việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự liên quan đến thanh thiếu niên phạm tội do “một cơ quan có thẩm quyền” tiến hành là điều được ủng hộ (“Cơ quan có thẩm quyền” có thể khác với cơ quan nói đến trong Quy tắc 14).
12. Vấn đề chuyên môn hóa trong lực lượng cảnh sát
Diễn giải
Trong khi mối quan hệ giữa vấn đề đô thị hóa và tình hình tội phạm thật sự phức tạp, thì tình hình người chưa thành niên phạm tội tăng lên gắn liền với sự phát triển của các thành phố lớn, nhất là sự phát triển nhanh chóng và không có kế hoạch. Vì vậy, những đơn vị cảnh sát đặc biệt đóng vai trò không thể thiếu được, không chỉ vì mục đích thực hiện những nguyên tắc cụ thể trong văn kiện này (như Quy tắc 1.6), mà còn vì mục đích lớn hơn, đó là cải thiện việc ngăn ngừa và kiểm soát tội phạm ở người chưa thành niên và xử lý người chưa thành niên phạm tội.
13.1. Hình thức tạm giam chờ xét xử được sử dụng đến như một phương kế cuối cùng và chỉ trong thời gian ngắn nhất có thể.
13.3. Người chưa thành niên, trong thời gian bị tạm giam chờ xét xử phải được hưởng tất cả các quyền và sự bảo đảm của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân do Liên Hợp Quốc thông qua.
13.5. Trong khi bị giam giữ, người chưa thành niên phải được bảo vệ, chăm sóc và được nhận tất cả những sự giúp đỡ riêng cần thiết về mặt xã hội, giáo dục dạy nghề, tâm lý, y tế và thể chất mà các em có thể cần tùy theo tuổi tác, giới tính và cá tính.
Không được đánh giá thấp mối nguy hiểm “tiêm nhiễm tội phạm” đối với người chưa thành niên trong khi bị giam chờ xét xử. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh sự cần thiết phải có các biện pháp thay thế khác. Theo hướng này, Quy tắc 13.1 khuyến khích tìm ra những biện pháp mới, có tính đổi mới để tránh hình phạt giam giữ, vì phúc lợi của người chưa thành niên.
Quy tắc 13.4 không ngăn cản các quốc gia tiến hành những biện pháp khác chống lại các ảnh hưởng tiêu cực của những người phạm tội thành niên, những biện pháp đó ít ra cũng có hiệu quả như những biện pháp nói đến trong Quy tắc này.
Những đặc điểm tâm lý và thể chất khác nhau của trẻ em bị giam giữ có thể lý giải cho sự cần thiết phải có các biện pháp phân loại, mà theo đó một số trẻ em phải được giam giữ riêng trong thời gian bị giam giữ chờ xét xử, nhờ đó góp phần tránh được tình trạng người chưa thành niên bị giam giữ trở thành người bị hại và nhận được sự giúp đỡ hợp lý hơn.
PHẦN III: ĐỊNH TỘI VÀ QUYẾT ĐỊNH BIỆN PHÁP XỬ LÝ
14.1. Trong trường hợp vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội không được xử lý bằng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự (theo quy tắc 11) thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền (tòa án, cơ quan tư pháp, ủy ban, hội đồng…) xử lý theo nguyên tắc xét xử công bằng và chính đáng.
Diễn giải
Trong bất kỳ trường hợp nào, thủ tục xét xử người chưa thành niên phạm tội cũng đều phải tuân theo những tiêu chuẩn tối thiểu được áp dụng chung cho bất cứ bị can nào theo một thủ tục được biết tới là “thủ tục pháp lý cần thiết”. Theo thủ tục pháp lý này, một sự “xét xử công bằng và chính đáng” phải có những biện pháp bảo vệ cơ bản như quyền suy đoán vô tội, quyền đưa ra nhân chứng và hỏi cung nhân chứng, quyền được biện hộ trước tòa, quyền được im lặng, quyền được nói lời cuối cùng trong một phiên xét xử, quyền kháng cáo... (xem Quy tắc 7.1).
15.1. Trong suốt quá trình tố tụng, người chưa thành niên có quyền được đại diện bởi một cố vấn pháp lý hoặc có quyền yêu cầu sự trợ giúp pháp lý miễn phí, trong điều kiện có dịch vụ trợ giúp pháp lý như vậy ở quốc gia đó.
Diễn giải
Sự hợp tác với những người đại diện cho người chưa thành niên (hoặc một cá nhân giúp đỡ riêng khác, người thực sự được người chưa thành niên tin cậy) có thể có ích cho quá trình tìm kiếm một phán quyết thỏa đáng của cơ quan có thẩm quyền. Việc này có thể gặp trở ngại nếu sự có mặt của cha mẹ hay người giám hộ ở phiên tòa đóng một vai trò tiêu cực, ví dụ như họ tỏ thái độ thù địch đối với người chưa thành niên, do vậy cần phải quy định khả năng loại trừ sự có mặt của họ.
Trong tất cả các vụ án, trừ những vụ có liên quan đến hành vi phạm pháp ít nghiêm trọng, trước khi cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định cuối cùng để đi đến tuyên án, cần phải điều tra kỹ hoàn cảnh sống của người chưa thành niên đó hay những điều kiện dẫn đến phạm tội, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền xét xử đưa ra được một phán quyết công minh.
Những bản báo cáo điều tra xã hội (báo cáo về nhân thân và hoàn cảnh sống của bị can được trình tòa án trước khi tuyên án) là một phần không thể thiếu được trong hầu hết các thủ tục pháp lý có liên quan đến người chưa thành niên. Cơ quan có thẩm quyền phải được thông tin về thực trạng của người chưa thành niên như hoàn cảnh gia đình và xã hội, quá trình giáo dục, kinh nghiệm học tập… Vì mục đích này, một số cơ quan xét xử sử dụng đến các tổ chức đặc biệt hay những cán bộ có quan hệ với tòa án hoặc ban xử lý hành chính. Những người khác gồm các viên chức được giao nhiệm vụ theo dõi người phạm tội trong thời gian thử thách cũng có thể có chức năng tương tự. Do đó, quy tắc này đòi hỏi phải có những tổ chức xã hội phù hợp để đưa ra các báo cáo điều tra xã hội có chất lượng.
17.1. Việc quyết định biện pháp xử lý của cơ quan có thẩm quyền phải dựa trên các nguyên tắc sau:
b. Những hạn chế tự do cá nhân đối với người chưa thành niên chỉ được đưa ra sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, và phải giới hạn ở mức độ tối thiểu có thể;
d. Lợi ích của người chưa thành niên phải là yếu tố hàng đầu trong việc xem xét vụ việc liên quan đến đối tượng này;
17.3. Không được áp dụng những hình phạt nhục hình đối với người chưa thành niên.
Diễn giải
a. Giữa việc phục hồi nhân thân cho người phạm tội với việc xử phạt công minh;
c. Giữa việc xử lý theo tình tiết cụ thể của một vụ án với việc xử lý theo sự bảo vệ của xã hội nói chung;
Mâu thuẫn trong các cách thức tiếp cận thể hiện rõ hơn trong những vụ án liên quan đến người chưa thành niên so với các vụ án liên quan đến người trưởng thành. Với tính đa dạng của những nguyên nhân và cách xử lý thể hiện đặc điểm của các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, những phương pháp này thường đan xen, lồng ghép với nhau một cách phức tạp.
Quy tắc 17.1 (b) được hiểu rằng những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc là không thích hợp. Nếu trong các vụ án liên quan đến người trưởng thành và cũng có thể trong những vụ án nghiêm trọng liên quan đến người chưa thành niên, việc xử phạt công minh và mang tính trừng phạt có thể được xem là thích đáng; thì trong những vụ án liên quan đến người chưa thành niên, việc xem xét này luôn nghiêng về hướng bảo vệ lợi ích và tương lai của thanh thiếu niên.
Quy tắc 17.1 (c) phù hợp với một trong số các quy tắc hướng dẫn được quy định tại Nghị quyết 4 của Hội nghị lần thứ 6 của Liên Hợp Quốc, với mục đích tránh sử dụng biện pháp giam giữ đối với người chưa thành niên, trừ khi không có biện pháp nào khác phù hợp có thể áp dụng để bảo vệ sự an toàn của xã hội.
khoản 5, Điều 6 đã ghi trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Quy định chống hình phạt nhục hình phù hợp với Điều 7 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Tuyên bố về việc bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay ngược đãi, cũng như Công ước chống tra tấn và những hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm và dự thảo Công ước về quyền trẻ em.
18. Những biện pháp xử lý khác nhau
a. Yêu cầu về chăm sóc, hướng dẫn và giám sát;
c. Yêu cầu về sự giúp đỡ của các tổ chức cộng đồng;
đ. Yêu cầu xử lý qua trung gian hay những cách xử lý khác;
g. Những yêu cầu có liên quan đến chăm sóc bảo trợ, các cộng đồng đang sinh sống hay những cơ sở giáo dục khác;
18.2. Không một người chưa thành niên nào bị tách khỏi sự giám sát của cha mẹ, cho dù toàn bộ hay một phần, trừ phi điều đó cần thiết đối với hoàn cảnh của các em.
Quy tắc 18.1 cố gắng nêu lên một số biện pháp xử lý và những chế tài quan trọng đã được thực hiện và chứng tỏ hiệu quả trong các hệ thống pháp luật khác nhau. Nhìn chung, những cách xử lý và các quy định này là khá hứa hẹn, đáng được nhân rộng và phát triển rộng hơn. Quy tắc này không kể đến các yêu cầu về cán bộ do tình trạng thiếu cán bộ ở một số vùng. Ở một số vùng này, có thể thử áp dụng hoặc triển khai những biện pháp cần đến ít cán bộ chuyên môn hơn.
Quy tắc 18.2 chỉ ra tầm quan trọng của gia đình, mà theo khoản 1 Điều 10 của Công ước quốc tế về các quyền văn hóa, xã hội, kinh tế, là “đơn vị cơ bản và tự nhiên của xã hội”. Trong gia đình, cha mẹ không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm nuôi dưỡng và giám sát con cái mình. Vì vậy, Quy tắc 18.3 yêu cầu việc tách con cái khỏi cha mẹ là biện pháp cuối cùng. Ngoài ra, biện pháp này được sử dụng như giải pháp cuối cùng khi những tình tiết của vụ án yêu cầu đến biện pháp nghiêm trọng này (ví dụ như sự ngược đãi trẻ em).
Việc đưa trẻ em vào trại giam phải luôn là phương án cuối cùng và chỉ được áp dụng trong một thời gian cần thiết tối thiểu.
Khoa tội phạm học tiến bộ ủng hộ việc áp dụng hình phạt không giam giữ thay cho hình phạt giam giữ. Về phương diện thành công giữa hình phạt giam giữ và không giam giữ, hầu như không có sự khác nhau hoặc chỉ khác nhau rất ít. Nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với cá nhân – điều dường như là không tránh khỏi trong bất cứ môi trường giam giữ nào – đã để lại hậu quả không thể khắc phục được bằng các cố gắng chữa trị, đặc biệt trong trường hợp người chưa thành niên là những người dễ bị tổn thương bởi các ảnh hưởng tiêu cực. Hơn nữa, các ảnh hưởng tiêu cực không chỉ vì mất tự do mà còn vì bị tách khỏi môi trường xã hội bình thường đối với người chưa thành niên rõ ràng nghiêm trọng hơn so với người lớn, vì các em đang ở giai đoạn phát triển ban đầu.
20. Tránh trì hoãn không cần thiết
Diễn giải
21.2. Hồ sơ của người chưa thành niên phạm tội không được sử dụng trong những thủ tục tố tụng với người lớn trong những vụ án sau này có liên quan đến cùng một đối tượng phạm tội.
Quy tắc này cố gắng đạt được sự cân bằng giữa những lợi ích mâu thuẫn liên quan đến các hồ sơ, tài liệu: lợi ích của cảnh sát, của thẩm phán và các cơ quan hữu trách khác trong việc nâng cao quyền kiểm soát, với những lợi ích của người chưa thành niên phạm tội (xem Quy tắc 8). “Những cơ quan hữu trách khác” nên bao gồm cả những nhà nghiên cứu.
22.1. Cần sử dụng việc đào tạo nghiệp vụ, tập huấn về chuyên ngành, những khóa bồi dưỡng và các phương thức giáo dục thích hợp khác để tạo ra và duy trì năng lực chuyên môn cần thiết cho tất cả các cán bộ tham gia giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa thành niên.
Diễn giải
Đối với những nhân viên xã hội và cán bộ quản chế, sẽ không khả thi nếu đặt yêu cầu về trình độ chuyên môn là điều kiện tiên quyết để có thể tham gia giải quyết các trường hợp liên quan đến người chưa thành niên phạm tội. Vì vậy, chỉ đòi hỏi những kiến thức tối thiểu về nghề nghiệp.
Trong việc tuyển chọn, chỉ định và đề bạt những cán bộ tư pháp có nhiệm vụ liên quan đến người chưa thành niên, cần tránh tất cả những phân biệt về chính trị, xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo và bất cứ sự phân biệt nào khác, để đạt được tính vô tư, khách quan trong xét xử tư pháp đối với người chưa thành niên. Điều này đã được Hội nghị lần thứ 6 kiến nghị. Hơn nữa, Hội nghị lần thứ 6 kêu gọi các Quốc gia thành viên bảo đảm sự đối xử công bằng và bình đẳng đối với phụ nữ là cán bộ tư pháp hình sự, và kiến nghị cần tiến hành những biện pháp đặc biệt trong việc tuyển chọn, đào tạo và tạo điều kiện đề bạt các cán bộ nữ tham gia hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên.
23. Thực hiện hiệu quả quyết định của cơ quan xét xử
23.2. Những quy định đó gồm quyền sửa đổi quyết định khi cơ quan có thẩm quyền trong một số trường hợp cảm thấy cần thiết, với điều kiện là việc sửa đổi đó phải được quyết định theo các nguyên tắc có trong những quy tắc này.
Quyết định của cơ quan xét xử trong những vụ án liên quan đến người chưa thành niên có xu hướng ảnh hưởng đến cuộc sống của người phạm tội trong một thời gian dài, nhiều hơn so với các vụ án liên quan đến người trưởng thành. Vì vậy, điều quan trọng là cơ quan có thẩm quyền hay một cơ quan độc lập (hội đồng có thẩm quyền phóng thích có điều kiện, cơ quan quản chế, các tổ chức phúc lợi trẻ em hoặc các tổ chức khác) có tư cách tương đương với cơ quan xét xử vụ án ngày từ đầu phải giám sát việc thi hành quyết định của cơ quan xét xử. Ở một số nước đã lập ra ban thi hành án cho mục đích này.
24. Quy định về sự giúp đỡ cần thiết
Diễn giải
25. Huy động những người tình nguyện và các tổ chức xã hội khác
Diễn giải
Quy tắc 25 bắt nguồn từ những nguyên tắc trong các Quy tắc từ 1.1 đến 1.6 và theo những điều khoản thích hợp của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
26. Những mục tiêu của xử lý giam giữ
26.2. Người chưa thành niên trong các cơ sở giam giữ phải nhận được sự chăm sóc, bảo vệ và tất cả những giúp đỡ cần thiết về mặt xã hội, giáo dục, dạy nghề, tâm lý, y tế và thể chất – những sự trợ giúp mà các em có thể cần đến tùy theo lứa tuổi, giới tính và cá tính của các em, vì lợi ích của sự phát triển lành mạnh của các em.
26.4. Nữ phạm nhân trẻ tuổi bị giam giữ cần được quan tâm đặc biệt đến những nhu cầu và vấn đề cá nhân của các em. Không vì lý do gì mà các em ít được chăm sóc, bảo vệ, giúp đỡ, điều trị và đào tạo hơn so với nam phạm nhân. Quyền được đối xử công bằng của các em phải được bảo đảm.
26.6. Cần khuyến khích sự hợp tác giữa các bộ, ngành vì mục đích dạy học đầy đủ, hoặc nếu thích hợp thì đào tạo nghề cho những người chưa thành niên bị giam giữ, nhằm bảo đảm rằng các em không bị thiệt thòi về giáo dục khi ra khỏi cơ sở giam giữ.
Những mục tiêu của việc xử lý giam giữ như quy định trong các Quy tắc 26.1 và 26.2 là chấp nhận được đối với bất kỳ nền văn hóa và hệ thống nào. Tuy nhiên, những mục tiêu này vẫn chưa đạt được ở tất cả mọi nơi, và còn rất nhiều việc phải làm trong vấn đề này.
Việc tránh những ảnh hưởng tiêu cực từ tội phạm người lớn và bảo vệ hạnh phúc cho người chưa thành niên trong môi trường giam giữ, như quy định trong Quy tắc 26.3, phù hợp với một trong những nguyên tắc hướng dẫn cơ bản của các quy tắc trình bày trong Nghị quyết 4 của Hội nghị lần thứ 6. Quy tắc này không cản trở các quốc gia áp dụng những biện pháp khác chống lại các ảnh hưởng tiêu cực từ tội phạm người lớn, nếu những biện pháp đó ít ra cũng có hiệu quả như các biện pháp được đề cập đến trong quy tắc (xem thêm Quy tắc 13.4).
Quyền thăm nom (Quy tắc 26.5) kế tục những quy định của các Quy tắc 7.1, 10.1, 15.2 và 18.2. Sự hợp tác giữa các bộ, ngành (Quy tắc 26.6) đặc biệt quan trọng vì nhằm tăng cường chất lượng xử lý giam giữ và đào tạo nói chung.
27.1. Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân và những kiến nghị có liên quan phải được áp dụng thích hợp trong việc đối xử với người chưa thành niên phạm tội tại các cơ sở giam giữ, gồm cả những em đang bị tạm giam chờ xét xử.
Diễn giải
Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân bao gồm một số điều cơ bản nhằm bảo vệ người chưa thành niên phạm tội trong các cơ sở giam giữ (phòng ở, cấu trúc nơi ở, giường chiếu, quần áo, khiếu nại và kiến nghị, liên hệ với thế giới bên ngoài, thức ăn, chăm sóc sức khỏe, lễ nghi tôn giáo, phân chia theo lứa tuổi, bố trí đội ngũ cán bộ nhân viên, việc làm…) và bao gồm cả những quy định về hình phạt, mức kỷ luật với những tội phạm nguy hiểm. Việc sửa đổi Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu này theo các đặc điểm riêng của những cơ sở giam giữ người chưa thành niên phạm tội trong phạm vi của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên là không thích hợp.
28. Việc trả tự do có điều kiện cần được áp dụng sớm và thường xuyên
28.2. Người chưa thành niên được trả tự do có điều kiện từ cơ sở giam giữ phải được một cơ quan thích hợp giúp đỡ, giám sát, và phải nhận sự giúp đỡ toàn diện của cộng đồng.
Quyền ra lệnh trả tự do có điều kiện có thể tùy thuộc vào cơ quan có thẩm quyền, như đã nói trong Quy tắc 14.1, hoặc tùy thuộc vào một cơ quan khác. Vì lý do này, ở đây sử dụng từ cơ quan “thích hợp” là thỏa đáng hơn từ “có thẩm quyền”.
Khi những tội phạm được trả tự do có điều kiện từ cơ sở giam giữ, cần có sự giúp đỡ và giám sát của một cán bộ được ủy quyền theo dõi hoặc của một cán bộ khác (đặc biệt là ở những nơi chưa thông qua chế độ thử thách), và cần khuyến khích sự giúp đỡ của cộng đồng.
Cần cố gắng cung cấp các phương tiện bán giam giữ như “nhà mở”, cơ sở giáo dục, những trung tâm đào tạo ban ngày và các cơ sở phù hợp khác có thể giúp đỡ người chưa thành niên trong quá trình hòa nhập thích hợp vào xã hội.
Không được xem nhẹ tầm quan trọng của sự giúp đỡ, chăm sóc sau thời kỳ bị giam giữ. Quy tắc này nhấn mạnh sự cần thiết của việc thiết lập một mạng lưới biện pháp bán giam giữ.
PHẦN VI: NGHIÊN CỨU, LẬP KẾ HOẠCH, HÌNH THÀNH VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH
30.1. Phải nỗ lực để tổ chức và thúc đẩy công tác nghiên cứu cần thiết cho việc lập kế hoạch và đề ra chính sách một cách hiệu quả.
30.3. Phải nỗ lực để lập ra một cơ chế nghiên cứu, đánh giá thường xuyên trong hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên và để thu thập, phân tích các cứ liệu và thông tin thích hợp nhằm đánh giá xác đáng và cải tiến, cải cách hợp lý công tác quản lý trong tương lai.
Diễn giải
Với sự thay đổi nhanh chóng và thường xuyên trong lối sống của giới trẻ và trong những loại hình và quy mô tội phạm của người chưa thành niên, các ứng phó của xã hội và pháp luật với nạn người chưa thành niên phạm tội và phạm pháp có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời và không phù hợp.
Việc đánh giá thường xuyên những nhu cầu của người chưa thành niên, cũng như các xu hướng và vấn đề của tình trạng phạm tội là điều kiện tiên quyết để cải tiến những phương pháp đề ra chính sách thích hợp và thiết lập sự can thiệp phù hợp ở các cấp chính thức cũng như không chính thức. Vì vậy, những nghiên cứu của cá nhân hay tổ chức độc lập cần được các cơ quan có trách nhiệm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi. Việc thu thập và xem xét những quan điểm, ý kiến của chính người chưa thành niên nói chung chứ không chỉ của những em gặp rắc rối với pháp luật có thể có giá trị.
File gốc của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên, 1985 đang được cập nhật.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên, 1985
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Liên hợp quốc |
Số hiệu | Khongso |
Loại văn bản | Điều ước quốc tế |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 1985-11-29 |
Ngày hiệu lực | |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng | Còn hiệu lực |