TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
BẢN ÁN 21/2017/DS-ST NGÀY 25/07/2017 VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
Ngày 25 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 16/2015/TLST- DS ngày 04 tháng 02 năm 2015 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2017/QĐXX–DS ngày 06 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1 Ông Nông Văn H, sinh năm 1982 (Có mặt)
1.2 Bà Đào Thị H, sinh năm 1984 (Có mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
2. Bị đơn:
2.1 Ông Nguyễn Quang V, sinh năm 1964 ( Vắng mặt)
2.2 Bà Vũ Thị Y, sinh năm 1974 (Có mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Vũ Thị Y: Ông Nguyễn Văn S, Luật sư thuộc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn V là thành viên Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, (Có mặt)
3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Phạm Văn T, sinh năm 1966 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Phạm Văn T: Ông Vũ Anh T, Luật sư thuộc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn V, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, (Có mặt).
3.2 Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1970 (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3.3 Ông Phạm Ngọc K, sinh năm 1993;
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T (Theo văn bản ủy quyền ngày 18/4/2017).
3.4 Bà Phạm Thị Diễm K, sinh năm 1997 (Vắng mặt)
3.5 Ông Phan Đ, sinh năm 1941 (Vắng mặt)
3.6 Bà Lê Thị X, sinh năm 1945 (Vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Thôn X, xã Y, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
3.7 Uỷ ban nhân dân huyện T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn T – Chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban.
Người đại diện theo ủy quyền:
- Ông Trần Văn H, phó trưởng phòng Tài nguyên và môi trường huyện T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Ông Lê Thanh B, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Ông Phan Minh T, chuyên viên phòng Tài nguyên và môi trường huyện T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
(Theo văn bản ủy quyền ngày 09/6/2017; Ông T, ông B, ông H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
4.Người làm chứng:
4.1 Bà Bùi Thị T, sinh năm 1948(Vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
4.2 Bà Nguyễn Vũ H O sinh năm 1992 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4.3 Ông Phạm Hồng P, sinh năm 1960 (Có mặt)
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4.4 Bà Trương Bích T, sinh năm 1971 (Có mặt)
4.5 Ông Phạm Văn H, sinh năm 1970 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ X, ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nông Văn H, bà Đào Thị H trình bày:
Ngày 09/6/2014 ông Nguyễn Quang V, bà Vũ Thị Y cùng vợ chồng ông bà kí hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 216, tờ bản đồ số 1a có diện tích 150 m2 đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại ấp X, xã Y, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu. Giá chuyển nhượng là 80.000.000 đồng, ông bà đã trả đủ tiền cho ông V, bà Y. Ngày 24/6/2014 ông, bà đã được Uỷ ban nhân dân huyện T công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ691013.
Khi chuyển nhượng, trên đất có một căn nhà cấp 4 do chủ cũ là ông Phạm Văn T xây dựng. Do vậy vợ chồng ông bà và ông V, bà Y thỏa thuận việc chuyển nhượng giữa các bên là chuyển nhượng cả đất và nhà. Tuy nhiên do nhà không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà nên tại hợp đồng chuyển nhượng ngày 09/6/2014 các bên chỉ có thể ghi nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không thể ghi nhận về nhà.
Khi ông bà yêu cầu ông V, bà Y giao nhà đất để sử dụng. Ông V, bà Y đồng ý giao nhưng các bên không thực hiện được do ông T không đồng ý giao nhà đất cho ông V, bà Y.
Nay ông bà khởi kiện yêu cầu ông V, bà Y phải có trách nhiệm giao nhà đất cho ông bà. Trường hợp ông V, bà Y không giao được nhà, đất thì phải có trách nhiệm trả lại số tiền là 80.000.000 đồng. Ông bà không yêu cầu Tòa án xem xét về thiệt hại phát sinh của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã kí ngày 09/6/2014 giữa các bên.
Chứng cứ ông H, bà H xuất trình là bản sao hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1418, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 09/6/2014 bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ691013.
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa Bị đơn bà Vũ Thị Y, ông Nguyễn Quang V trình bày:
Ông bà xác nhận và thống nhất với phần trình bày của ông Nông Văn Hậu, bà Đào Thị H về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kí ngày 09/6/2014 giữa các bên. Ông bà đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H, bà H nhưng do ông T không giao nhà, đất cho ông bà nên ông bà chưa thể giao nhà đất cho ông H bà H được.
Về nguồn gốc nhà, đất: Thửa đất số 216, tờ bản đồ số 1a có diện tích 150 m2 đất trồng cây lâu năm, trên đất có một căn nhà cấp 4 có diện tích 30 m2 là do ông bà nhận chuyển nhượng của ông Phạm Văn T theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1031 quyển số 03TP-SCC/HĐGD ngày 20/8/2012. Giá chuyển nhượng là 40.000.000 đồng. Ngày 30/5/2014, Uỷ ban nhân dân huyện Tân Thành công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên cho ông bà theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 691013.
Do chưa có nhu cầu sử dụng nên ông bà cho ông T ở nhờ trên nhà, đất này. Thời hạn ở nhờ không được xác định cụ thể, chỉ thỏa thuận khi ông bà yêu cầu thì ông T sẽ bàn giao nhà, đất. Việc cho ở nhờ các bên chỉ thỏa thuận miệng, không được lập thành văn bản. Ông bà đã nhiều lần yêu cầu ông T phải giao nhà đất nói trên nhưng ông T không thực hiện.
Ngày 28/12/2015, ông V, bà Y có yêu cầu độc lập Đ nghị Tòa án xem xétbuộc ông T phải giao nhà, đất nói trên cho ông bà để ông bà giao cho ông H, bà H.
Chứng cứ ông V bà Y cung cấp cho Tòa án là bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ691013.
Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn T trình bày:
Vì cần tiền để chữa bệnh cho con nên khoảng tháng 8 năm 2012 ông nhờ người quen là ông Lê Văn H dẫn tới gặp ông V, bà Y để vay số tiền 40.000.000 đồng, với mức lãi suất là 5%/1 tháng. Để vay được tiền, ông V, bà Y yêu cầu ông phải thế chấp tài sản là thửa đất số 216, tờ bản đồ số 1a có diện tích là 150 m2 đất trồng cây lâu năm, đất đã được Uỷ ban huyện T công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 273917 ngày 18 tháng 3 năm 2004.
Khi thực hiện việc thế chấp quyền sử dụng đất, ông V bà Y dẫn ông tới văn phòng công chứng Chấn Phong và yêu cầu ông kí vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với ông V, bà Y. Ban đầu ông không đồng ý kí vì cho rằng khi kí sẽ bị mất nhà, đất nhưng ông V bà Y có nói với ông việc kí hợp đồng không phải là để chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà để đảm bảo thanh toán cho số tiền ông vay. Khi ông trả đủ tiền nợ gốc và lãi thì các bên sẽ hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên. Vì vậy ông đã đồng ý kí vào hợp đồng này.
Ông xác nhận nội dung của hợp đồng ông đã kí là toàn bộ nội dung trong hợp đồng có số công chứng 1031 quyển số 03TP-SCC/HĐGD ngày 20/8/2014 do văn phòng công chứng Chấn Phong xác lập và chứng thực.
Sau khi ký hợp đồng, ông V, bà Y đã giao cho ông số tiền là 20.000.000 đồng, số tiền 20.000.000 đồng còn lại bà Y, ông V hẹn sẽ giao sau. Do ông phải vào bệnh viện để chăm con nên ông có nói với bà Y giao tiền cho ông H để ông H chuyển cho ông. Do vậy bà Y đã giao cho ông H 20.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, ông H không chuyển tiền cho ông mà đã bỏ đi đâu không rõ. Vì vậy trên thực tế ông chỉ nhận được 20.000.000 đồng. Tuy nhiên do ông đã nhờ ông H lấy tiền giúp mình nên ông đồng ý xác nhận ông có nhận của ông V, bà Y số tiền là 40.000.000 đồng.
Ông đã trả lãi suất hàng tháng cho bà Y kể từ tháng 8/2012 đến tháng 5/2013 theo mức lãi suất là 5%/1 tháng, khi trả các bên không lập thành văn bản.
Tháng 6 năm 2013 ông tới nhà bà Y để trả 20.000.000 đồng tiền gốc và 2.000.000 đồng tiền lãi suất, tại đây ông không gặp bà Y, ông V mà chỉ gặp con gái bà Y là bà Nguyễn Vũ Hoàng O và đã gửi trả số tiền là 22.000.000 đồng. Việc trả tiền được ông và con gái bà Y lập thành 01(một) văn bản, văn bản này hiện bà O giữ.
Về nguồn gốc tài sản ông đã thế chấp cho ông V, bà Y:
Thửa đất số 216 có nguồn gốc là do ông và vợ là bà Phan Thị H nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Phạm Văn H, bà Trương Bích T vào ngày 19/02/2004. Ngày 18/3/2004 hộ gia đình ông được Uỷ ban nhân dân huyện T công nhận quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 273917, ông đại diện hộ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này. Về căn nhà cấp 4 trên đất: Nhà do ông và bà H xây dựng vào tháng 4 năm 2004, có diện tích khoảng 30 m2 và ông sử dụng từ đó cho đến nay.
Do đó nhà, đất đang tranh chấp không phải là tài sản riêng của ông mà là tài sản chung trong hộ gia đình ông bao gồm ông và vợ cũ là bà Phan Thị H (đã chết năm 2011) cùng hai con chung là cháu Phạm Ngọc K, Phạm Thị Diễm K. Khi ông kí hợp đồng với ông V, bà Y thì các con ông không biết, không ký hợp đồng cũng không đồng ý.
Ngày 26/5/2017 ông T có yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 20/8/2012 giữa ông và ông V, bà Y và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/6/2014 giữa ông Nông Văn H, bà Phan Thị H và vợ chồng bà Vũ Thị Y, ông Nguyễn Quang V là vô hiệu, đồng thời hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 691013 ngày 30/5/2014 đã cấp cho ông H, bà H.
Trong quá trình tố tụng, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Đ, bà Lê Thị X, ông Phạm Ngọc K, bà Phạm Thị Diễm K trình bày:
Các ông, bà là cha mẹ và con ruột của bà Phan Thị H, vợ cũ của ông T, bà H đã chết vào ngày 15/5/2011, khi chết không để lại di chúc. Các ông, bà được biết lúc sinh thời bà H cùng chồng là ông T có tạo lập được tài sản chung là thửa đất và căn nhà cấp 4 nói trên. Khi ông T ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ông V, bà Y, các ông bà không biết, không đồng ý. Nay các ông, bà không yêu cầu được phân chia di sản thừa kế của bà H để lại là căn nhà và thửa đất trên. Các ông, bà Đ nghị Tòa án giải quyết tranh chấp giữa ông T với bà Y, ông V và ông H, bà H theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Kim T trình bày:
Bà đăng kí kết hôn với ông Phạm Văn T ngày 24/8/2009, sau một thời gian thì bà và ông T đã ly thân.
Bà xác định nhà và đất thuộc thửa đất số 216 tờ bản đồ số 1a là tài sản riêng của ông T trước hôn nhân. Việc ông T vay tiền hoặc chuyển nhượng đất cho ông V, bà Y như thế nào và dẫn đến tranh chấp thì bà không biết, nên không có yêu cầu gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân huyện T, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu trình bày:
Ngày 20/8/2012 ông Phạm Văn T đã chuyển nhượng thửa đất số 216, tờ bản đồ số 1a tọa lạc tại xã Z cho bà Vũ Thị Y và ông Nguyễn Quang V. Sau khi hoàn thành các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì ông V, bà Y đã được Uỷ ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 691013 ngày 30/5/2014, số vào sổ CH 08563. Ngày 09/6/2014 bà Y, ông V chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Nông Văn H, bà Đào Thị H. Các bên đã hoàn thành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định nên ông H, bà H đã được Uỷ ban nhân dân huyện T công nhận quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 691013 ngày 30/5/2014.
Như vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn T và bà Vũ Thị Y, ông Nguyễn Quang V và từ bà Vũ Thị Y, ông Nguyễn Quang V sang cho ông Nông Văn H, bà Đào Thị H đã hoàn tất theo quy định. Do đó Uỷ ban nhân dân huyện T không đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 691013 ngày 30/5/2014, giấy đã chỉnh lí cho ông Nông Văn H và bà Đào Thị H theo thủ tục hành chính. Đây là tranh chấp dân sự, Uỷ ban nhân dân huyện T sẽ thi hành theo phán quyết của Tòa án theo thẩm quyền.
Người làm chứng ông Phạm Văn H, bà Trương Bích T trình bày:
Ông, bà xác nhận ngày 19/02/2004, ông bà có chuyển nhượng cho ông Phạm Văn T và bà Phan Thị H một phần đất trồng cây lâu năm có diện tích 150 m2 (ngang 5m, dài 30m) thuộc thửa 167 tờ bản đồ số 01a, nay là thửa 216 tọa lạc tại ấp Y, xã Z, huyện Tân Thành. Việc chuyển nhượng đã hoàn tất, tháng 4 năm 2004 ông T, bà H đã xây một căn nhà cấp 4 có diện tích khoảng 30 m2 và sử dụng từ đó cho đến nay.
Người làm chứng ông Phạm Hồng P trình bày:
Ông là người hành nghề chạy xe ôm chở khách, ông có biết ông T, ông V, bà Y nhưng không có quan hệ thân thích gì. Khoảng tháng 6 năm 2013 ông có chở ông T đến nhà bà Y, trên đường đi ông T có nói cho ông biết được ông T đến nhà bà Y để trả nợ. Khi đến nhà bà Y thì ông cùng ông T vào trong nhà, tại đây ông và ông T không gặp bà Y mà chỉ gặp con gái bà Y ở nhà, ông thấy ông T đưa cho con gái bà Y số tiền là 22.000.000 đồng, con gái bà Y đã nhận số tiền trên và viết giấy nhận tiền giao cho ông T nhưng ông T không cầm giấy về, ông có hỏi ông T tại sao không mang giấy về thì ông T cho ông biết do ông chưa trả xong nợ cho ông V, bà Y nên khi nào trả xong nợ sẽ lấy giấy luôn.
Người làm chứng bà Nguyễn Vũ Hoàng O trình bày:
Bà là con gái của ông V, bà Y, bà không biết hoặc gặp ông T lần nào. Tháng 6/2013 bà đi học ở thành phố Hồ Chí Minh nên việc ông T cho rằng thời gian này ông T có đến nhà cha mẹ bà và gửi bà số tiền 22.000.000 đồng để trả cho mẹ bà là không đúng. Bà không biết về quan hệ giữa cha, mẹ bà với ông T, không nhận tiền từ ông T, cũng không viết giấy nhận tiền như ông T đã trình bày.
Người làm chứng bà Bùi Thị T trình bày:
Bà là mẹ ruột của bà Y, bà sống cùng nhà với bà Y nhưng bà không biết ông T và cũng không chứng kiến việc ông T giao số tiền 22.000.000 đồng cho cháu bà là bà O như ông T đã trình bày. Bà không biết, không chứng kiến việc cháu O viết giấy nhận tiền của ông T như ông T khai nhận
Tại phiên tòa nguyên đơn ông Nông Văn H, bà Đào Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông V, bà Y phải thực hiện nghĩa vụ giao nhà đất cho ông bà. Trường hợp nếu ông V, bà Y không giao được nhà, đất thì phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền là 80.000.000 đồng, không yêu cầu Tòa án xem xét về thiệt hại phát sinh của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã kí giữa các bên.
Ông bà không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Phạm Văn T khi ông T yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã kí giữa vợ chồng ông bà với ông V, bà Y là vô hiệu và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được UBND huyện T công nhận Quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông, bà.Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Vũ Thị Y, ông Nguyễn Quang V, Luật sư Nguyễn Văn S cho rằng:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn T với ông Nguyễn Quang V, bà Vũ Thị Y là hợp pháp, không trái quy định pháp luật. Đã được thực hiện song nên có giá trị thị hành.
Căn cứ vào phiếu xác nhận nhân khẩu thì Hộ gia đình ông Phạm Văn T tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ trước năm 2004 chỉ có 01 nhân khẩu duy nhất là ông T.
Ông T không có chứng cứ để chứng minh cho lời khai của mình về việc vay tiền giữa ông với ông V bà Y.
Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Quang V, Bà Vũ Thị Y.
Bà Vũ Thị Y thống nhất với toàn bộ quan điểm của ông Nguyễn Văn S, không bổ sung gì thêm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Phạm Văn T, Luật sư Vũ Anh T cho rằng:
Có đủ căn cứ pháp lí để xác định từ trước ngày 19/02/2004 thì hộ gia đình ông Phạm Văn T có 4 người là ông Phạm Văn T, bà Phan Thị H, ông Phạm Ngọc K, Phạm Thị Diễm K.
Tài sản chuyển nhượng là tài sản chung của ông Phạm Văn T, bà Phan Thị H. Khi bà H chết thì phát sinh người thừa kế tài sản của bà H gồm: Cha mẹ bà H là ông Phan Đ, bà Lê Thị X cùng các con là ông Phạm Ngọc K, bà Nguyễn Thị Diễm K.
Ông T chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng không được sự đồng ý của những người trên là trái quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu của ông T, bác các yêu cầu của ông V, bà Y, ông H, bà H.
Ông Phạm Văn T thống nhất với toàn bộ quan điểm của ông Vũ Anh T, không bổ sung gì thêm.
Các đương sự đồng ý với toàn bộ giá trị tài sản đã định giá theo nội dung biên bản định giá ngày 01/12/2015 của Hội đồng định giá.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Về cơ bản Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo quy định của Luật tố tụng dân sự, cụ thể: Thu thập tài liệu chứng cứ đúng quy định, xác định đúng quan hệ tranh chấp, đúng thẩm quyền giải quyết, các quyền và nghĩa vụ của đương sự đã được thực hiện đầy đủ; tuy nhiên vụ án còn kéo dài so với luật định.
Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa ông Phạm Văn T và bà Phan Thị H được xác định là hôn nhân thực tế từ năm 1992.
Có đủ căn cứ pháp lí để xác định từ trước ngày 19/02/2004 thì hộ gia đình ông Phạm Văn T có 4 người là ông Phạm Văn T, bà Phan Thị H, ông Phạm Ngọc K, Phạm Thị Diễm K.
Thửa đất số 216 tờ bản đồ số 1a là tài sản chung của vợ chồng ông T, bà H trong thời kì hôn nhân, việc ông T tự mình định đoạt tài sản là trái pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phạm Văn T về việc tuyên bố Hợp đồng tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 20/8/2012 vô hiệu, đồng thời hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện T đã cấp cho ông V và bà Y.
2. Bác yêu cầu độc lập của Bị đơn ông Nguyễn Quang V, bà Vũ Thị Y.
3. Bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn ông Nông Văn H, bà Đào Thị H.
4. Tiền chi phí định giá, thẩm định và Án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu của các đương sự, đây là vụ án “Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”. Theo quy định tại các Điều 26, 34, 35, 39 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bị đơn ông Nguyễn Quang V, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Đ, bà Lê Thị X, bà Phạm Thị Diễm K, ông Trần Văn H, ông Lê Thanh B, ông Phan Minh T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung: Sự kiện pháp lý xảy ra vào ngày 20/8/2012 và 09/6/2014 ; đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất. Vì vậy cần áp dụng Bộ Luật Dân sự 2005 và Luật đất đai năm 2003 để giải quyết.
Từ khóa: Bản án 21/2017/DS-ST, Bản án số 21/2017/DS-ST, Bản án 21/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu, Bản án số 21/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu, Bản án 21 2017 DS ST của Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu, 21/2017/DS-ST
File gốc của Bản án 21/2017/DS-ST ngày 25/07/2017 về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất – Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ – Bà Rịa – Vũng Tàu đang được cập nhật.
Bản án 21/2017/DS-ST ngày 25/07/2017 về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất – Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ – Bà Rịa – Vũng Tàu
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu | 21/2017/DS-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Chưa xác định |
Ngày ban hành | 1901-01-01 |
Ngày hiệu lực | 1901-01-01 |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng | Còn hiệu lực |