TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 121/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc T – sinh năm: 1996. Nơi ĐKHKTT: Ấp 4, xã PĐ, huyện TP, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở: 975 Tổ 10, ấp 3, xã PĐ, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: Anh Phạm Xuân Th – sinh năm: 1982.
Nơi ĐKHKTT: Ấp 4, xã PĐ, huyện TP, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở: 975 Tổ 10, ấp 3, xã PĐ, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.
(Chị T và anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Xuân Th tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014 và được Ủy ban nhân dân xã Bình An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 23/5/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung cùng nhau tại huyện Long Thành được vài năm. Đến cuối năm 2021, vợ chồng anh chị chuyển về ấp 3, xã PĐ, huyện TP, tỉnh Đồng Nai sinh sống. Vợ chồng sống chung hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống, anh Th ghen tuông vô cớ. Do đó, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và anh Th đã nhiều lần đánh đập chị. Từ giữa tháng 3/2022, chị bỏ nhà đi và vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay. Nay tình cảm không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh Phạm Xuân Th.
Về con chung: Chị và anh Th có 02 con chung là:
- Phạm Nguyễn Hải Y – sinh ngày: 20/02/2015.
- Phạm Xuân T – sinh ngày: 29/4/2018.
Từ khi chị và anh Th ly thân đến nay, các con do anh Th trực tiếp nuôi dưỡng.
Tại đơn khởi kiện và bản tự khai, chị yêu cầu nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 05/4/2022, chị T xem xét nguyện vọng các con và điều kiện bản thân chị chưa có nhà cửa nên chị đồng ý giao 02 con cho anh Th tiếp tục nuôi dưỡng và tạm thời chị không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bị đơn anh Phạm Xuân Th trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Ngọc T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2014 và được Ủy ban nhân dân xã Bình An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 23/5/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh sống chung cùng nhau tại huyện Long Thành. Đến năm 2021, vợ chồng anh chuyển về ấp 3, xã PĐ, huyện TP, tỉnh Đồng Nai sinh sống. Vợ chồng sống chung hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị T tụ tập bạn bè ăn chơi, không chăm lo đến gia đình. Anh và gia đình vợ đã khuyên can nhưng chị T vẫn không thay đổi. Do đó, giữa hai vợ chồng xảy ra cãi vã và có lần anh đã đánh chị T. Từ đầu tháng 3/2022, chị T bỏ nhà đi và vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay. Nay chị T yêu cầu ly hôn, nghĩ cuộc sống chung vợ chồng không còn hạnh phúc nên anh đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung là:
- Phạm Nguyễn Hải Y – sinh ngày: 20/02/2015.
- Phạm Xuân T – sinh ngày: 29/4/2018.
Từ khi anh và chị T ly thân đến nay, các con do anh và bố mẹ chị T trực tiếp nuôi dưỡng.
Khi ly hôn, anh yêu cầu nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.
Anh hiện nay làm nghề phụ hồ, thu nhập hàng tháng khoảng 8.000.000đ – 9.000.000đ, đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung. Còn chị T từ trước đến nay không có nghề nghiệp, không có thu nhập.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã giao nộp những tài liệu, chứng cứ sau: Chị T giao nộp: CMND của chị T và anh Th (bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh của con chung (bản sao); Xác nhận thông tin về cư trú (bản sao); Bản tự khai ngày 18/3/2022 của chị T (bản chính); Đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt của chị T (bản chính). Anh Th giao nộp: CMND của anh Th (photo); Bản tự khai ngày 04/4/2022 của anh Th (bản chính); Đơn xin giải quyết vắng mặt của anh Th (bản chính). Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Biên bản lấy lời khai đối với chị Nguyễn Thị Ngọc T; Biên bản lấy lời khai đối với anh Phạm Xuân Th; Biên bản ghi nhận nguyện vọng của con chung đối với cháu Phạm Nguyễn Hải Y; Biên bản làm việc đối với ông Nguyễn Ngọc T1; Biên bản xác minh đối với ông Phan Mai H. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên đã được Tòa án ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và ra thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho những người vắng mặt theo đúng quy định của pháp luật.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:
- Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: Xét vợ chồng chị T và anh Th đã xảy ra mâu thuẫn, không hòa giải đoàn tụ được. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị T, cho chị Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với anh Phạm Xuân Th.
+ Về con chung: Đề nghị giao 02 con chung là Phạm Nguyễn Hải Y – sinh ngày: 20/02/2015 và Phạm Xuân T – sinh ngày: 29/4/2018 cho anh Phạm Xuân Th trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời chị Nguyễn Thị Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Th không yêu cầu.
+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh Th kê khai không có, không yêu cầu giải quyết. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
+ Về án phí: Đề nghị buộc chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về việc nuôi dưỡng con chung đối với bị đơn anh Phạm Xuân Th. Anh Th đang cư trú tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Phạm Xuân Th là các đương sự trong vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham gia phiên tòa nhưng chị T và anh Th đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về áp dụng pháp luật nội dung: Chị T và anh Th kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai vào ngày 23/5/2014. Nay chị T yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh Th nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 11, 85, 89, 91, 92, 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
[3]. Về nội dung yêu cầu khởi kiện:
[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Th tự nguyện sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn vào ngày 23/5/2014. Như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sống hòa thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Chị T yêu cầu ly hôn vì do tính tình vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm sống, anh Th ghen tuông vô cớ. Anh Th đồng ý ly hôn với chị T và thừa nhận vợ chồng mâu thuẫn do chị T tụ tập bạn bè ăn chơi, không chăm lo đến gia đình.
Qua ý kiến thừa nhận của các đương sự và kết quả làm việc, xác minh tại địa phương (bút lục 28, 35) thể hiện trong cuộc sống chung của chị T và anh Th có xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân nhau. Xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc T là cho chị được ly hôn với anh Phạm Xuân Th.
[3.2]. Về con chung: Chị T và anh Th có 02 con chung là:
- Phạm Nguyễn Hải Y – sinh ngày: 20/02/2015.
- Phạm Xuân T – sinh ngày: 29/4/2018.
Chị T đồng ý giao 02 con chung cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, bản thân anh Th có yêu cầu nuôi dưỡng 02 con và đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Từ khi chị T và anh Th sống ly thân đến nay, các con chung sống cùng anh Th và cháu Y có nguyện vọng sống cùng anh Th. Vì vậy để tránh xáo trộn cuộc sống của các con chung nên Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm thời chị T không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Th không yêu cầu.
[3.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh Th kê khai không có, không yêu cầu giải quyết. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
[5]. Xét quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 11, 85, 89, 91, 92, 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 - Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc T.
Cho chị Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn anh Phạm Xuân Th.
2. Về con chung: Chị T và anh Th có 02 con chung là:
- Phạm Nguyễn Hải Y – sinh ngày: 20/02/2015.
- Phạm Xuân T – sinh ngày: 29/4/2018.
Giao 02 con chung cho anh Phạm Xuân Th trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời chị Nguyễn Thị Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh Th kê khai không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002383 ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.
5. Quyền kháng cáo: Chị T và anh Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
File gốc của Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST – Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú – Đồng Nai đang được cập nhật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST – Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú – Đồng Nai
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Số hiệu | 48/2022/HNGĐ-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2022-05-24 |
Ngày hiệu lực | 2022-05-24 |
Lĩnh vực | Hôn Nhân Gia Đình |
Tình trạng | Còn hiệu lực |