BỘ CÔNG THƯƠNG | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
V/v báo cáo những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm | Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2008 |
Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội
Thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương xin phép được báo cáo với Quốc hội 3 nhóm vấn đề được các vị Đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm là (1) bảo đảm cung cầu các mặt hàng thiết yếu, (2) tình hình xuất nhập khẩu, nguyên nhân nhập siêu và các giải pháp hạn chế, (3) công tác quản lý thị trường.
Bảo đảm cân đối cung cầu hàng hoá là tiền đề quyết định cho sự bình ổn của thị trường, tránh đột biến về giá và ngăn chặn đầu cơ, buôn lậu. Theo tính toán, nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế về các mặt hàng thiết yếu năm 2008 tăng khoảng 14% so với năm 2007. Với nguồn hàng sản xuất trong nước và được bù đắp phần còn thiếu bằng nhập khẩu như dự kiến kế hoạch là hoàn toàn đáp ứng đủ. Điều quan trọng là phải tháo gỡ khó khăn do giá của một số hàng hoá thế giới và trong nước tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống. Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện giá theo cơ chế thị trường, nhưng để ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã chủ trương chưa điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu, than, nước sinh hoạt, cước vận chuyển máy bay, tàu hoả, xe buýt. Riêng về giá bán xăng dầu, trong trường hợp giá dầu thế giới tăng đột biến, Chính phủ sẽ nghiên cứu phương án tổng thể, thích hợp, với tinh thần Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng chia sẻ, gánh vác để vượt qua khó khăn, giữ ổn định và phát triển.
Sau đây là cân đối những mặt hàng thiết yếu năm 2008:
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng lúa cả năm 2008 có khả năng đạt khoảng 35,9 -36 triệu tấn, trên cơ sở xác định sản lượng lúa Đông Xuân 2007-2008 của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long là 9,6 triệu tấn (tăng 550 ngàn tấn so với vụ Đông Xuân 2006-2007). Sau khi trừ khoảng 27,8 triệu tấn lúa cho tiêu dùng nội địa còn khoảng 8,7 triệu tấn lúa dành cho xuất khẩu (tương đương 4,5 triệu tấn gạo).
Ước 4 tháng đầu năm 2008, nước ta đã xuất khẩu được 1,567 triệu tấn gạo, chi tăng 11,6% so với cùng kì về lượng nhưng đã tăng tới 72,6% về trị giá.
Miền Bắc
Miền Nam
Gạo tẻ thường
6.000 - 6.500
9.000 - 10.000
5.000 - 6.000
9.000 - 11.000
1.2. Thực phẩm
- Sản lượng thịt các loại khoảng 4,2 triệu tấn.
Tổng lượng thức ăn tinh là 18 triệu tấn. Sản lượng thức ăn công nghiệp dự kiến là 8,8 triệu tấn, tăng 14%. Để bảo đảm sản lượng thức ăn cần nhập khẩu khô dầu các loại 2,2 - 2,4 triệu tấn; ngô hạt 650 -700 ngàn tấn; bột cá 150 - 200 ngàn tấn; thức ăn bổ sung 200 ngàn tấn.
1.3. Đường
Trên thị trường thế giới, đường là mặt hàng cung lớn hơn cầu khoảng 9 triệu tấn nên dù giá dầu thô tăng ở mức cao nhưng giá đường biến động không nhiều.
1.4. Muối
1.5. Phân bón
Qua 4 tháng đầu trong nước đã sản xuất được khoáng 1.731 ngàn tấn, nhập khẩu khoảng 1.583 ngàn tấn các loại, tăng 40,8% về lượng nhưng tăng tới 156,7% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó riêng phân urê là 412 ngàn tấn, tăng 114,6% về lượng và tăng 209,6% về trị giá.
1.6. Thép
Việc sử dụng sắt thép tăng do nhu cầu đầu tư tăng. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, các dự án đầu tư cần được rà soát để đảm báo có hiệu quả, kiên quyết đình hoãn hoặc giãn tiến độ những dự án kém hiệu quả, nên Bộ Công Thương tiếp tục chỉ đạo theo dõi các biến động của thị trường để có sự điều tiết nhập khẩu một cách hiệu quả nhất.
Nhu cầu tiêu thụ xi măng năm 2008 khoảng 40 - 41 triệu tấn. Trong 4 tháng đã sản xuất được khoảng 12,37 triệu tấn (tiêu thụ 12,12 triệu tấn). Nhập khẩu Clinker 4 tháng khoảng 1,358 triệu tấn (giá nhập bình quân là 39,03 USD/tấn, tăng 24,14% so với giá nhập bình quân năm 2007).
Đầu tháng 5/2008, tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam có hiện tượng xi măng khan hiếm cục bộ và giá bán đã tăng ở mức cao hơn. Trước tình hình này, Bộ Xây dựng đã kịp thời thành lập đoàn đi kiểm tra và đã có các biện pháp cụ thể để đáp ứng đủ nhu cầu và giá sẽ ổn định dần do nhiều nhà máy mới tiếp tục đi vào sản xuất. Tuy nhiên, do sản lượng xi măng ở phía Bắc chiếm tỷ trọng lớn (70%) trong khi tiêu thụ xi măng ở phía Nam lại chiếm tỷ trọng lớn nên phải vận chuyển xi măng và clinker vào phía Nam. Vì vậy cần có kế hoạch cụ thể để bảo đảm việc vận chuyển này nhằm khắc phục tình trạng thiếu hàng cục bộ theo thời điểm như vừa qua.
Đây là mặt hàng mà chúng ta phải nhập khẩu 100%. Theo kế hoạch năm 2008 nhu cầu nhập khẩu để đáp ứng tiêu dùng là 14,5 triệu tấn xăng dầu các loại. Trong 4 tháng đầu năm, cả nước đã nhập 5,249 triệu tấn đúng tiến độ, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của thị trường.
1.9. Giấy
Giá nguyên liệu và sản phẩm giấy trên thị trường thế giới 4 tháng đần năm 2008 tăng dần và ở mức cao. Hiện giá bột giấy gỗ mềm tẩy trắng sợi dài (NBSK) tại châu Âu là 891,89 USD/tấn, tăng 20,73 USD/tấn so với đầu năm. Giá bột gỗ cứng tẩy trắng (BHKP) hiện là 823,27 USD/tấn, tăng 23,27 USD/tấn so với tháng trước và 45,26 USD/tấn so với đầu năm. Mặc dù vậy, từ tháng 4/2008 giá các loại giấy trong nước mới được các doanh nghiệp điều chỉnh tăng khoảng từ 2-5% tuy từng chủng loại. Bộ Công Thương đang tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất và bình ổn giá để đáp ứng nhu cầu.
Trong 4 tháng qua có thể nói sản xuất và nhập khẩu thuốc chữa bệnh đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhưng do biến động tăng của giá nguyên liệu và các chi phí nên giá một số loại thuốc có sự điều chỉnh tăng. Hiện nay có khoảng 20.000 mặt hàng thuốc lưu hành trên thị trường. Chi số giá Dược phẩm và dịch vụ y tế 4 tháng đầu năm tăng 2,7%.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 chúng ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ như cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, hội nhập kinh tế quốc tế chưa có nhiều kinh nghiệm; kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc; hạ tầng kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực chưa đáp ửng kịp yêu cầu phát triển; khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp... Mặt khác, từ những tháng cuối năm 2007 tình hình kinh tế thể giới diễn biến rất phức tạp; giá dầu thô, giá lương thực và giá nguyên vật liệu, máy móc thiết bị tăng cao tác động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô; giá tiêu dùng trong nước quý IV tăng rất mạnh, làm cho chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2007 tăng 12,63%; kim ngạch nhập khẩu cả năm tăng 39,6%, nhập siêu tăng cao, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu và gấp hơn 2,7 lần năm 2006.[1]
Nhập khẩu tăng cao chủ yếu là do số lượng nhập khẩu các nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc phục vụ sản xuất và đầu tư tăng nhanh và phải chịu mặt bằng giá cao hơn nhiều so với cùng kỳ (theo tính toán thì tác động do giá tăng chiếm 70% mức tăng nhập khẩu); tác động của việc cắt giảm thuế theo lộ trình WTO; nhưng nguyên nhân sâu xa là cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và còn nhiều yếu kém, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, tốc độ tăng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng nhập khẩu; hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu là gia công lắp ráp (khoảng 70% nguyên liệu và linh kiện phải nhập khẩu) và hiệu quả đầu tư thấp, còn nhiều lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng. Tỷ trọng các mặt hàng thuộc nhóm tiêu dùng chi chiếm tỷ trọng như (năm 2007 chiêm khoảng trên 3% tổng kim ngạch nhập khẩu)
Để kiềm chế và giảm dần nhập siêu, góp phần kiềm chế lạm phát, thực hiện Chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành chức năng có liên quan triển khai các nhóm giải pháp sau đây:
Đây là biện pháp vừa có tính cơ bản lâu dài, vừa có tính cấp bách trước mắt để kiềm chế nhập siêu, sẽ tiến hành đồng bộ theo 5 hướng
Hai là, tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như giải quyết nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội như các sản phẩm chế biến, công nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện...
Bốn là, tập trung khai thác theo chiều sâu đối với các thị trường xuất khẩu truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm đi đôi với việc phát triển các thị trường có chung đường biên giới với Việt Nam thông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù hợp hạn chế xuất khẩu thời gian qua.
Bên cạnh đó cần xây dựng đề án đẩy mạnh xúc tiến thu hút các tập đoàn kinh tế lớn ở nước ngoài vào Việt Nam đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu; tăng thêm nguồn lực cho hoạt động xúc tiến; cho doanh nghiệp vay vốn thu mua nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu; áp dụng lãi suất vay hợp lý đối với hoạt động xuất khẩu; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trọng lĩnh vực hoàn thuế và thủ tục hải quan, tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu, nhất là đối với những mặt hàng nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu như thuỷ sản, hạt điều...
2.2. Thực hiện các giải pháp giảm nhập khẩu
- Đối với nhóm mặt hàng cần nhập khẩu và nhóm mặt hàng nhập khẩu cần kiểm soát: Đây là nhóm quan trọng, thiết thực phục vụ cho sản xuất và đầu tư, nhưng vẫn phải tính đến khả năng giảm nhập khẩu hợp lý ở 2 nhóm này thông qua việc lập các đoàn kiểm tra liên ngành về việc sử dụng các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch lởn như (sắt thép, phôi thép, máy móc...) để đề xuất các biện pháp giảm cầu và hạn chế nhập khẩu, thông qua chính sách thuế và các biện pháp phi thuế, kiểm soát chặt chẽ hiệu quả các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư công; khuyến khích tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng; điều hành chính sách tài khoá theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách, triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng, tiêu dùng; đẩy mạnh sản xuất, sử dụng hiệu quá nguyên liệu trong nước thay thế hàng nhập, nhất là tại các dự án, các công trình lớn...thì mới có khả năng giảm nhập siêu vì tỷ trọng khối này chiếm tới hơn 90% kim ngạch nhập khẩu.
Với tất cả các biện pháp trên hy vọng sẽ kiềm chế được tình hình nhập siêu ở mức hợp lý (theo tính toán tại thời điểm giá dầu thô hiện nay dao động 110- 120 USD/thùng phấn đấu đưa tỷ lệ nhập siêu cả năm 2008 khoảng 30% so với 2007). Tuy nhiên vẫn cần nhấn mạnh thêm rằng, nếu giá cả thế giới tiếp tục tăng cao thì tỷ lệ nhập siêu có thể thay đổi.
Năm 2008 tình hình kinh tế thế giới có những biến động khó lường bởi tác động suy giảm của nền kinh tế Mỹ và đã ảnh hưởng tới nên kinh tế nước ta. Trong những tháng đầu năm 2008, thị trường hàng hoá và dịch vụ diễn biến khá phức tạp, do giá xăng đầu, giá vàng thế giới cùng một số nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao; thời tiết không thuận lợi (rét đậm, rét hại dài ngày), dịch bệnh ở người, gia súc, gia cầm tái phát tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Do vậy giá nhiều loại hàng hoá và dịch vụ đã tăng hơn cùng kỳ. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững, kết quả là chỉ số giá tiêu dùng sau 2 tháng đã có xu hướng giảm dần (tháng 1 tăng 2,38%, tháng 2 tăng 3,56%, tháng 3 tăng 2,99%, tháng 4 tăng 2,2%) và 4 tháng tăng 11,6% so với tháng 12/2007. Đây mới là kết quả bước đầu và tình hình vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp. Vì vậy Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương không được lơ là, chủ quan trước những kết quả đã đạt được, phải tập trung theo dõi sát diễn biến của thị trường và biến động giá, nhất là giá dầu trên thị trường thế giới, đảm bảo ổn định cung cầu hàng hóa; quản lý, kiểm soát chặt chẽ nguồn hàng, chống đầu cơ tăng giá, trục lợi đối với những mặt hàng thiết yếu...Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ lực lượng Quản lý thị trường trên cả nước đã triển khai các công việc:
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định của pháp luật về giá, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết; xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng tình hình khó khăn để đầu cơ, ép giá, găm hàng gây mất ổn định thị trường đối với các cơ sở kinh doanh bán lẻ, các chợ, cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị, trung tâm thương mại.
- Kiểm tra các biểu hiện của hành vi đầu cơ (mua vét hàng hoá), dự trữ hàng hoá quá mức; kinh doanh không đúng ngành nghề, mặt hàng; bịa đặt loan tin không có cơ sở để tăng giả; kiểm tra các biểu hiện liên kết chiếm lĩnh vị trí độc quyền để tăng giá, ép giá...
Kết quả trong 4 tháng đầu năm 2008, lực lượng Quản lý thị trường đã kiểm tra, xử lý 20.193 vụ vi phạm (trong đó có 4.393 vụ buôn bán hàng lậu, hàng cấm; 4.826 vụ hàng giả, hàng kém chất lượng; 7.716 vụ kinh doanh trái phép và 3.258 vụ vi phạm khác) với số thu 61,32 tỷ đồng (trong đó phạt vi phạm hành chính 25,74 tỷ; trị giá hàng tịch thu là 32,97 tỷ và truy thu thuế là 2,59 tỷ đồng).
3.1. Công tác chống buôn lậu, vận chuyển và buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu:
3.2. Công tác chống sản xuất, buôn bán hàng giả, vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống dịch:
3.3. Công tác kiểm tra giá, ổn định thị trường:
Trong 2 ngày cuối tháng 4 (26-27/4) khi phát hiện việc tăng giá gạo tại một số tỉnh, thành phố, dưới sự chỉ đạo kịp thời và kiên quyết của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã nhanh chóng chỉ đạo lực lượng Quản lý thị trường cả nước phối hợp cùng cơ quan Công an kiểm tra, để nếu phát hiện hiện tượng đầu nậu đầu cơ, găm hàng, ép giá, sẽ có xử lý ngay, đồng thời phối hợp với Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn điều động tăng lượng gạo bán ra với giá ổn định và giữ như mức trước đó nên cơn sốt giá đã được khắc phục.
Ngoài ra, lực lượng Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố còn phối hợp với lực lượng Thuế, Thanh tra Tài chính... kiểm tra việc chấp hành chế độ thuế, chế độ hóa đơn chứng từ ở nhiều đơn vị kinh doanh, phát hiện, ngăn chặn tình trạng trốn lậu thuế do kê khai không đứng, không đầy đủ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, chú trọng các lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, dịch vụ ăn uống, khách sạn, vũ trường, thuốc tân dược... Đã phát hiện và xử lý đối với các vi phạm như doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; kinh doanh sai nội dung đăng ký; kinh doanh không có giấy phép; kinh doanh đĩa CD không tem kiểm soát, sao chép phần mềm bất hợp pháp...
Điều 153, 155 của Luật Hình sự theo hướng nâng cao khung hình phạt, điều chỉnh nội dung của tội danh cho phù hợp hoàn cảnh mới.
Xin chân thành cám ơn sự chú ý của các vị Đại biểu Quốc hội./.
Nơi nhận:
-Như trên;
-Đoàn Thư ký kỳ họp;
-Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
-Văn phòng Quốc hội;
-Văn phòng Chính phủ;
-Lãnh đạo Bộ;
-Lưu: VP, Vụ KH
BỘ TRƯỞNG
Vũ Huy Hoàng
[1] Giá tiêu dùng quý IV năm 2007 tăng 5%.
Số liệu báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 2: kim ngạch nhập khẩu năm 2007 ước đạt 57 tỷ đô la Mỹ, tăng 27%. Nhập siêu 9 tỷ đô la Mỹ, tỉ lệ nhập siêu là 18,75%
File gốc của Công văn số 4267/BCT-KH về việc báo cáo những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm do Bộ Công thương ban hành đang được cập nhật.