BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3353/KH-BHXH | Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2020 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2021-2025 CỦA NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI
Kính gửi: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BHXH, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ 5 NĂM 2016-2020
- BHXH Việt Nam đã thực hiện tốt công tác phối hợp trong tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo các Bộ, ngành, tổ chức chính trị- xã hội và các cơ quan thông tấn, báo chí từ đó đã tạo được quy mô rộng về địa bàn, đa dạng về nội dung và hình thức tuyên truyền. Bên cạnh đó, Quyết định 1676/QĐ-TTg ngày 21/11/2019 Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới toàn diện nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền BHXH đã hướng đến tất cả các đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT; giúp người dân, người lao động hiểu rõ quyền, lợi ích của việc tham gia BHXH, BHTN, BHYT trên cơ sở nhận thức đúng, đầy đủ và sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BHXH, từ đó tạo sự đồng thuận, chủ động tham gia, mở rộng phạm vi bao phủ.
- Giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn đầu BHXH Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo Nghị định 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 của Chính phủ quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), BHYT của cơ quan BHXH. Hệ thống các văn bản quy định giao chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT đã tạo hành lang pháp lý cho cơ quan BHXH trong việc tổ chức thu, phát triển đối tượng và xử lý vi phạm, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật được tốt hơn. Bộ luật Hình sự bổ sung các tội danh về BHXH, BHYT đã đảm bảo tính trừng phạt, răn đe có tác động tốt đến ý thức của các chủ thể.
- Toàn ngành BHXH luôn chủ động, nỗ lực quyết tâm để thực hiện thành công các chỉ tiêu được giao của các cấp có thẩm quyền.
- Mặc dù hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật BHXH, BHYT đã được ban hành kịp thời, đồng bộ. Nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn phát sinh một số vướng mắc chưa được quy định cụ thể; một số chính sách về BHXH, BHTN, BHYT thường xuyên có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung dẫn đến việc áp dụng để giải quyết của ngành BHXH gặp nhiều khó khăn.
- Thẩm quyền xử lý của ngành BHXH về một số hành vi sai phạm chưa được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi đối tượng vi phạm không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt,... dẫn đến khó khăn trong tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH, BHYT chưa đủ sức răn đe khiến một số đơn vị sử dụng lao động còn coi thường pháp luật, vẫn cố tình nợ đọng kéo dài hoặc trục lợi chính sách BHXH, BHYT; đối tượng được thanh tra, kiểm tra đôi khi còn cản trở, thiếu hợp tác.
II. Kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém
Thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm giai đoạn 2016-2020 của Ngành xây dựng tại Công văn số 961/KH-BHXH ngày 24/3/2015, trong 5 năm qua, BHXH Việt Nam đã kịp thời ban hành các Chương trình, hành động thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Quốc Hội, Chính phủ nhằm mục đích thực hiện thành công mục tiêu phát triển KTXH đã đề ra trong giai đoạn 2016-2020. BHXH Việt Nam đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH năm 2016-2020 và tình hình thực hiện các Đề án, cụ thể như sau:
a) Tham gia hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT
- Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện nhiều dự thảo văn bản, quy định, hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, như: dự thảo Thông tư hướng dẫn điều chỉnh tên nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; dự thảo Thông tư hướng dẫn điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng; dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 35/2016/TT-BYT của Bộ Y tế ban hành Danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với dịch vụ kỹ thuật thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT; dự thảo Thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư số 39/2018/TT-BYT của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh BHYT và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT; dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 146/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT đối với các đối tượng Bộ Quốc phòng quản lý...
Xây dựng, hoàn thiện nhiều văn bản, báo cáo gửi Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành làm cơ sở cho việc ban hành các văn bản, chỉ đạo liên quan đến lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT như: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới; Báo cáo tình hình thực hiện chính sách, chế độ BHXH, quản lý và sử dụng quỹ BHXH, BHTN năm 2018; Báo cáo việc quản lý, sử dụng Quỹ BHYT và báo cáo giải trình với Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách giai đoạn 2013-2018”; Báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSLĐ giai đoạn 2016-2018 phục vụ Đoàn Giám sát của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội; Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Nghị quyết 68/2013/QH13 về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật BHYT, tiến tới BHYT toàn dân; Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020; Báo cáo tình hình thực hiện chi trả các chế độ BHXH, trợ cấp thất nghiệp và quản lý người hưởng qua hệ thống Bưu điện gửi Thủ tướng Chính phủ; Báo cáo tình hình triển khai Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển KTXH và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019; Báo cáo Bộ Tài chính tình hình hỗ trợ đóng BHYT cho học sinh sinh viên trung ương năm 2017, 2018, 2019; Báo cáo Bộ Thông tin và truyền thông tình hình triển khai Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt và thực hiện nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 241/QĐ-TTg; Báo cáo Bộ Tài chính đánh giá tình hình thực hiện Thông tư số 20/2016/TT-BTC ngày 03/02/2016 hướng dẫn thực hiện cơ chế quản lý tài chính về BHXH, BHYT, BHTN; Báo cáo Bộ Công an sơ kết công tác bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2019; Báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ giải trình một số nội dung về dự thảo nghị định thay thế nghị định số 01/2016/NĐ-CP ngày 05/01/2016 của Chính Phủ; Báo cáo Văn phòng Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách BHYT; Báo cáo tổng hợp kết quả giải quyết và trả lời kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XIV gửi Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội...
- Phối hợp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: tổ chức Hội thảo lấy ý kiến chuyên gia về xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; cung cấp số liệu nợ BHXH, BHTN của doanh nghiệp phá sản, giải thể và có chủ là người nước ngoài bỏ trốn và trình Chính phủ biện pháp quản lý thu nợ BHXH, BHTN, BHYT và bảo đảm quyền lợi của người lao động.
- Phối hợp với Toà án nhân dân tối cao xây dựng Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (hướng dẫn áp dụng các điều 214, 215, 216 Bộ luật Hình sự 2015); phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ chức Hội thảo xin ý kiến các cơ quan liên quan để hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định việc cấp, quản lý và sử dụng thẻ BHXH, BHYT điện tử.
- Phối hợp tổ chức và tham gia Đoàn giám sát của Hội đồng quản lý tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Phước, Tây Ninh...; chuẩn bị tốt các nội dung, điều kiện để làm việc với các đoàn công tác của Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành như: Đoàn công tác của Bộ Chính trị kiểm tra việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Trung ương tại BHXH Việt Nam; Đoàn khảo sát Tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 221-QĐ/TW ngày 27/4/2009 của Ban Bí thư về Quy chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về kiểm tra hoạt động công vụ; Đoàn công tác của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về vấn đề cải cách chính sách BHXH; Đoàn công tác Thanh tra Chính phủ về tình hình quản lý quỹ BHYT, mua sắm trang thiết bị y tế và đấu thầu thuốc giai đoạn 2014-2019; Đoàn Kiểm toán Nhà nước về quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước; Đoàn kiểm tra của Bộ Công an về công tác bảo vệ bí mật Nhà nước...
Thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, BHXH Việt Nam đã ban hành Chương trình số 373/CTr- BHXH ngày 17/01/2013 về triển khai công tác tuyên truyền; Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền trong toàn ngành; Ký chương trình, kế hoạch, quy chế phối hợp tuyên truyền với các Bộ, ngành và tổ chức chính trị- xã hội theo từng giai đoạn. Giai đoạn 2016-2020 kết quả đạt được cụ thể như sau:
- Công tác phối hợp tuyên truyền với các cơ quan thông tấn báo chí: trong 05 năm qua, công tác phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí đã được tiến hành ngày càng chặt chẽ, chủ động, tích cực đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả với độ bao phủ rộng, tần suất tăng, hướng tới cơ sở và đến với mọi nhóm đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Đồng thời, được triển khai rộng khắp từ Trung ương đến địa phương ở tất cả các loại hình báo nói, báo hình, báo in và báo điện tử... Nội dung, hình thức truyền thông được sử dụng đa dạng, phong phú, từng bước đổi mới phù hợp với từng đối tượng, từng vùng miền và xu thế phát triển của xã hội. Các thông tin luôn đảm bảo đúng định hướng pháp luật BHXH, BHYT của Đảng, Nhà nước và đúng trọng tâm, trọng điểm tuyên truyền của Ngành đề ra. Nhiều bài báo, phóng sự... về BHXH, BHYT được đầu tư công phu, bài bản, kịp thời thông tin về những thay đổi trong chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, giúp người dân hiểu rõ về chính sách, tạo sự đồng thuận trong quá trình tổ chức thực hiện. Song song với việc thực hiện các công tác tuyên truyền thường niên mang tính thường xuyên, liên tục. Thực hiện chương trình tuyên truyền trọng tâm, trọng điểm theo các chuyên đề riêng biệt, đảm bảo tính kịp thời, thời sự về các chính sách BHXH, BHYT tại từng thời điểm cụ thể, tạo dấu ấn truyền thông chính sách rõ nét, góp phần đẩy nhanh việc đưa các Nghị quyết, chính sách an sinh của Đảng nhanh chóng đi vào thực tiễn. Đơn cử như các đợt truyền thông trọng tâm, trọng điểm về Nghị quyết số 21-NQ/TW, Nghị quyết số 28-NQ/TW, Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13 mà trong đó tập trung vào các điều luật số 214, 215, 216, về việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế; về chính sách BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình, chiến dịch truyền thông cao điểm “Ngành BHXH chung tay cùng cả nước phòng, chống dịch Covid-19”...
- Công tác biên tập ấn phẩm tuyên truyền BHXH, BHYT: Xác định vai trò, nhiệm vụ quan trọng của mảng ấn phẩm truyền thông trong việc phục vụ nhiệm vụ chính trị của Ngành. Trong 05 năm qua, công tác biên tập, sản xuất ấn phẩm có nhiều khởi sắc, đổi mới theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại theo Quyết định 1676/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới toàn diện nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền. Chủ động tham mưu, biên tập nhiều ấn phẩm tuyên truyền chính sách BHXH, BHYT, BHTN như: “Cẩm nang về BHXH tự nguyện”, “Cẩm nang về BHYT học sinh, sinh viên” và tờ gấp “Những điều cần biết về BHXH tự nguyện”; “Những điều cần biết về BHYT học sinh, sinh viên”; “Những điều cần biết về BHYT hộ gia đình”... Nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Ngành, để góp phần quảng bá hình ảnh và nâng cao vị thế xã hội của BHXH Việt Nam, xây dựng bộ phim tài liệu “BHXH Việt Nam - 25 năm vững trụ cột an sinh” ghi lại lịch sử 25 năm xây dựng và phát triển Ngành; Phim tài liệu “BHXH Việt Nam 25 năm hành trình nhân văn”... Cùng với đó, nhằm cụ thể hóa các quan điểm về cải cách chính sách BHXH được đề ra tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, đặc biệt là việc đổi mới công tác truyền thông, xây dựng kế hoạch và thực hiện triển khai Chiến dịch truyền thông "Xúc cảm" tuyên truyền chính sách BHXH bắt buộc thông qua Viral clip “Trọn vòng trường sinh” và 05 Motion graphics giới thiệu về quyền, lợi ích của 05 chế độ BHXH bắt buộc... tuyên truyền trên mạng xã hội...
- Hoạt động của Hệ thống chăm sóc khách hàng (Callcenter): Ngày 31/8/2017, BHXH Việt Nam đã khai trương Hệ thống chăm sóc khách hàng với đầu số 1900.96.9668 (từ ngày 01/01/2019 chuyển sang đầu số 1900.9068). Hệ thống hoạt động 24/7, từ khi đi vào hoạt động đến nay đã tiếp nhận và trả lời 567.518 cuộc gọi thành công. Hệ thống chăm sóc khách hàng cơ bản đã hỗ trợ, tư vấn, giải đáp cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp về tham gia và thụ hưởng BHXH, BHTN, BHYT qua đó tiết kiệm thời gian, chi phí, đảm bảo quyền lợi cho người lao động, doanh nghiệp... giảm số người phải trực tiếp đến liên hệ, giao dịch tại cơ quan BHXH các cấp. Góp phần giúp ngành BHXH đẩy mạnh việc chuyển đổi hình thức giao dịch với cơ quan BHXH của người dân và tổ chức từ hình thức giao dịch trực tiếp sang hình thức sử dụng dịch vụ công trực tuyến của Ngành.
Trong giai đoạn 2016-2020, toàn ngành BHXH đã nỗ lực phấn đấu để hoàn thành tốt công tác phát triển đối tượng tam gia BHXH, BHTN, BHYT. Hàng năm, giao chỉ tiêu phát triển đối tượng, đôn đốc thu, giảm nợ ngay từ nhũng tháng đầu năm để BHXH các tỉnh, thành phố chủ động xây dựng, tham mưu, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm khai thác phát triển đối tượng và đôn đốc thu BHXH, BHYT. Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT; Ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ. BHXH các tỉnh, thành phố đã tích cực tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ: Chủ động tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ các sở, ban, ngành tại địa phương để triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thuế, Lao động - Thương binh và Xã hội, Kế hoạch - Đầu tư, Ban Quản lý các khu công nghiệp trao đổi thông tin, chia sẻ dữ liệu; rà soát, đối chiếu với đơn vị đang quản lý để nắm bắt về số đơn vị đang hoạt động; số đơn vị được thành lập mới hoặc giải thể, phá sản; số lao động; tiền lương, phụ cấp của người lao động tại các đơn vị, doanh nghiệp để đôn đốc, vận động đơn vị đăng ký tham gia BHXH, BHYT cho người lao động. Rà soát, đối chiếu dữ liệu do cơ quan thuế cung cấp với dữ liệu quản lý, xác định số lao động phải đóng BHXH bắt buộc, số lao động không phải đóng BHXH bắt buộc, từ đó, xây dựng các giải pháp đôn đốc, phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện. Thường xuyên cử cán bộ đến các đơn vị sử dụng lao động tuyên truyền và hướng dẫn thủ tục tham gia, thu nộp BHXH, BHYT để chủ sử dụng lao động và người lao động nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình về BHXH, BHYT. Gửi thông báo (kèm theo danh sách lao động chưa đóng BHXH, BHTN, BHYT) và làm việc trực tiếp với từng đơn vị sử dụng lao động yêu cầu đóng BHXH, BHTN, BHYT đầy đủ cho người lao động. Tăng cường thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính và thông tin, báo cáo kịp thời tình hình vi phạm pháp luật BHXH, BHTN, BHYT của các đơn vị trên địa bàn để có hướng chỉ đạo giải quyết, xử lý kịp thời. Đồng thời, công khai thông tin về các đơn vị trốn đóng trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo địa phương và gửi trực tiếp đến tổ chức công đoàn hoặc đại diện người lao động.
1.3.1 Về phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT
- Số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 12,8 triệu người năm 2016 lên 15,2 triệu người vào năm 2019 (tăng 18,3% so với năm 2016);
- Số người tham gia BHTN tăng từ 11 triệu người năm 2016 lên 13,3 triệu người vào năm 2019 (tăng 21,4% so với năm 2016);
Tỷ lệ bao phủ dân số năm 2016 bằng 81,9% dân số tham gia BHYT/79% chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tăng lên 89,3% dân số tham gia BHYT/88,1% chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao năm 2019.
Dịch bệnh Covid-19 đến nay vẫn diễn biến hết sức phức tạp trong nước cũng như toàn thế giới, làm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất của các doanh nghiệp trong đó một số ngành nghề bị ảnh hưởng lớn như: ngành du lịch, dịch vụ, khách sạn, nhà hàng, vận tải hàng không, đường bộ, đường thủy; doanh nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục; sản xuất sản phẩm từ gỗ. Theo đó, người lao động làm việc trong các ngành nghề trên tạm thời mất việc hoặc tạm ngừng việc đóng BHXH bắt buộc (ước tính khoảng 60%-80% người lao động trong các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề). Dự báo, tình hình dịch bệnh Covid-19 sẽ tiếp tục làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân, vì vậy công tác thu BHXH, BHYT, BHTN sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn do các yếu tố chủ yếu làm giảm số tiền thu hằng tháng của BHXH Việt Nam, cụ thể:
- Do người lao động phải ngừng việc (chấm dứt HĐLĐ, nghỉ không lương, tạm hoãn HĐLĐ).
- Do các doanh nghiệp gặp khó khăn tiếp tục nợ thêm tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN.
+ Số người tham gia BHXH là 15,820 triệu người, giảm 561 nghìn người (-3,4%) so với dự toán Chính phủ giao đầu năm; đạt tỷ lệ khoảng 32% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, giảm 1,5% so với chỉ tiêu phấn đấu tại Nghị quyết số 01/2020/NQ-CP của Chính phủ (33,5%). Trong đó:
Số người tham gia BHXH tự nguyện là 896 nghìn người, tăng 283 nghìn người (46,1%) so với dự toán Chính phủ giao (Do BHXH Việt Nam triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp tuyên truyền, vận động phát triển người tham gia như: phối hợp với Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam tổ chức lễ ra quân “Hưởng ứng Tháng vận động triển khai BHXH toàn dân - Tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện”; tăng cường tổ chức hội nghị khách hàng để phát triển người tham gia; tăng mức thù lao cho đại lý thu để khuyến khích các đại lý thu tích cực tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện; ước tính mỗi tháng phát triển mới được khoảng 40 đến 50 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện).
+ Số người tham gia BHYT là 87,785 triệu người, bằng dự toán Chính phủ giao, đạt tỷ lệ 90,7% dân số tham gia BHYT, bằng chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg.
a) Tình hình thực hiện qua các năm 2016-2019
- Số thu BHXH bắt buộc tăng từ 175 nghìn tỷ đồng năm 2016 lên 243 nghìn tỷ đồng vào năm 2019 (tăng 39,2% so với năm 2016);
- Số thu BHTN tăng từ 11,8 nghìn tỷ đồng năm 2016 lên 17,4 nghìn tỷ đồng vào năm 2019 (tăng 46,7% so với năm 2016);
b) Ước thực hiện năm 2020
1.3.3 Về công tác thu hồi nợ
1.3.4 Công tác cấp sổ BHXH, thẻ BHYT
Năm
Số đối tượng tham gia BHXH (triệu người)
Số người đã được cấp sổ BHXH (triệu người)
Tỷ lệ % số người đã được cấp sổ BHXH trên tổng số đối tượng tham gia
13,06
12,9
98,8%
13,82
13,5
97,7%
14,73
14,62
99,3%
15,77
15,6
98,9%
15,82
15,72
99,4%
Năm
Dân số (triệu người)
Số người tham gia BHYT (triệu người)
Tỷ lệ % số người đã được cấp thẻ BHYT trên dân số
92,71
75,92
81,9%
93,43
81,19
86,9%
94,34
83,54
88,6%
96,21
85,95
89,3%
96,79
85,64
89,3%
Sau 2 năm thực hiện rà soát, bàn giao sổ BHXH cho người lao động quản lý (năm 2017 - 2018), BHXH các tỉnh, thành phố đã có nhiều cố gắng tích cực trong công tác tổ chức thực hiện, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của việc rà soát, bàn giao sổ BHXH. Tính đến 31/12/2018, toàn quốc đã hoàn thành theo Kế hoạch số 112/KH-BHXH ngày 10/01/2017 của BHXH Việt Nam về Kế hoạch rà soát, bàn giao sổ BHXH. Tổng số sổ BHXH đã rà soát, bàn giao cho người lao động đang tham gia BHXH là 13.253.505 sổ BHXH.
a) Về công tác giải quyết chế độ chính sách cho người lao động đảm bảo đúng quy định của chính sách, thủ tục hành chính được từng bước rút gọn, tạo thuận lợi cho người lao động.
- Năm 2019 và 2020, ước giải quyết cho 278.748 người hưởng các chế độ BHXH hàng tháng (trong đó 232.957 người hưởng lương hưu); 1.973.048 người hưởng các chế độ BHXH một lần (trong đó có 1.717.969 người hưởng BHXH một lần); 17.548.161 lượt người hưởng trợ cấp ốm đau; 4.009.653 lượt người hưởng trợ cấp thai sản; 762.894 lượt người hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.
- BHXH Việt Nam đã ban hành các văn bản hướng dẫn trong công tác chi trả chế độ BHXH, BHTN đảm bảo phù hợp với quy định của Luật BHXH, Luật Việc làm, Luật An toàn vệ sinh lao động đồng thời đáp ứng được việc áp dụng CNTT trong quá trình triển khai nhiệm vụ để từng bước cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu quả: Quyết định số 828/QĐ-BHXH ngày 27/5/2016 quy định quản lý chi trả các chế độ BHXH, BHTN; Quyết định số 166/QĐ-BHXH ngày 31/01/2019 về quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH, chi trả các chế độ BHXH, BHTN.
- Đến hết năm 2019, toàn Ngành BHXH đang quản lý chi trả cho gần 3,2 triệu người hưởng các chế độ BHXH hàng tháng qua hệ thống bưu điện tại 63/63 tỉnh, thành phố với 11.164 xã, phường với tổng số tiền khoảng trên 13 nghìn tỷ đồng, trong đó: Chỉ bằng tiền mặt cho khoảng 2,6 triệu người với số tiền khoảng 10,4 nghìn tỷ đồng; Chi qua tài khoản cá nhân cho khoảng 567 nghìn người với số tiền 3,2 nghìn tỷ đồng. Các giải pháp tổ chức chi trả các chế độ BHXH ngày càng được cải tiến như chi trả đến tận nhà đối với người hưởng già yếu, ốm đau đi lại khó khăn, không ủy quyền cho người thân lĩnh thay được, qua đó đã từng bước tạo được sự hài lòng của người hưởng.
- Thực hiện Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 26/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam, BHXH Việt Nam đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện và giao chỉ tiêu phấn đấu số người, số tiền chi trả qua phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cho BHXH các tỉnh cụ thể từng năm, từng chế độ BHXH, trợ cấp thất nghiệp.
1.5. Công tác thực hiện chính sách khám bệnh, chữa bệnh (KCB) BHYT
Đến ngày 31/7/2020, Hệ thống thông tin giám định BHYT đã tiếp nhận đề nghị thanh toán của 77,7 triệu lượt KCB BHYT 6 tháng đầu năm 2020 (giảm khoảng 10,5% so với cùng kỳ năm 2019), với tổng chi KCB đề nghị quỹ BHYT chi trả 46.857 tỷ đồng.
Công tác giám định có vai trò, vị trí rất quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện chế độ KCB BHYT nhằm mục tiêu bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bệnh và thanh quyết toán chi phí KCB BHYT được thực hiện đúng các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thực hiện, tăng cường hiệu quả sử dụng và nâng cao khả năng cân đối quỹ KCB BHYT.
Năm 2016 là năm đổi mới phương thức giám định chi phí KCB BHYT từ hình thức giám định trực tiếp hồ sơ tại cơ sở KCB chuyển sang giám định bằng phương pháp tập trung theo tỷ lệ, giám định trên Hệ thống thông tin giám định BHYT theo đúng quy trình giám định của BHXH Việt Nam. Bước đầu đã thực hiện tốt công tác kiểm soát chi phí KCB, chống lạm dụng, trục lợi, sử dụng an toàn hiệu quả quỹ BHYT, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia. Năm 2016 đã từ chối thanh toán chi phí KCB chưa hợp lý năm 2016 (178 tỷ đồng) chiếm 41,02% so với năm 2015 (32 tỷ đồng), 26% so với năm 2014 (47 tỷ đồng). Kiểm tra, từ chối dịch vụ kỹ thuật được thống kê thanh toán nhưng chưa được Bộ Y tế phê duyệt giá hoặc phê duyệt giá vượt khung giá Thông tư số 14/TTLB ngày 30/9/1995, Thông tư số 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày 26/01/2006. Quản lý chỉ định thanh toán dịch vụ kỹ thuật, giảm chi phí thanh toán và tiết kiệm chi phí quỹ BHYT trong thanh toán xét nghiệm sinh hóa, xét nghiệm phát máu tại Bệnh viện Huyết học và Truyền máu Trung ương; xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi bằng phương pháp tự động hoàn toàn, chỉ định chụp CT32, 64 dãy, Pet CT, MRI, chụp can thiệp tim mạch, chạy thận nhân tạo, HDF online... Phát hiện kịp thời những thuốc có chỉ định rộng rãi tại hồ sơ đăng ký, dễ lạm dụng; phối hợp với cơ sở KCB trong việc thực hiện lựa chọn sử dụng thuốc, đảm bảo hợp lý, hiệu quả. Kịp thời đề xuất Bộ Y tế thanh toán theo điều kiện, tỷ lệ các thuốc: Glutation, dung dịch túi ba ngăn, Acid Thioctic, Galantalin, và các thuốc bổ trợ khác. Riêng Viện Huyết học-Truyền máu TW. Thống nhất với các bệnh viện xây dựng định mức VTYT tái sử dụng, làm cơ sở để Bộ Y tế và BHXH Việt Nam xây dựng chính sách, tiết kiệm cho quỹ BHYT hàng trăm tỷ đồng/năm (riêng Viện tim mạch, Bệnh viện Bạch Mai tiết kiệm gần 80 tỷ đồng/năm).
Năm 2017, Hệ thống tiếp nhận dữ liệu 168,89 triệu lượt KCB BHYT, tỷ lệ liên thông trên 95%; năm 2018, tiếp nhận dữ liệu của 176,46 triệu lượt KCB BHYT, tỷ lệ liên thông đạt 98,02%; năm 2019, tiếp nhận dữ liệu của 184,52 triệu lượt KCB BHYT, tỷ lệ liên thông đạt 98,39%. Dữ liệu kết xuất từ Hệ thống được các đơn vị của BHXH Việt Nam chủ động khai thác, phân tích số liệu để thực hiện nghiệp vụ kiểm toán, kiểm tra, thẩm định quyết toán chi KCB BHYT như: năm 2017 từ chối thanh toán 4.896,84 tỷ đồng (trong đó Vụ Thanh tra - Kiểm tra là 335,84 tỷ đồng, Ban Thực hiện chính sách BHYT là 1.977 tỷ đồng), năm 2018 từ chối thanh toán 4.466,45 tỷ đồng (trong đó Vụ Thanh tra - Kiểm tra là 164,65 tỷ đồng, Ban Thực hiện chính sách BHYT là 164,65 tỷ đồng).
BHXH Việt Nam đã tổ chức thí điểm công tác đấu thầu mua thuốc lần 1 đối với 6 thuốc (5 hoạt chất) sử dụng cho năm 2018. Tổng giá trị các mặt hàng thuốc trúng thầu 946,8 tỷ đồng, giảm so với giá thuốc trung bình năm 2017 tại các địa phương 251 tỷ đồng, tương ứng 21,12% (trong đó thuốc biệt dược gốc giảm 13,8%, thuốc Generic giảm 33,3%). Thí điểm lần 2, mua sắm cho năm 2019-2020, có kết quả từ 01/01/2019 gồm 26 thuốc (14 hoạt chất). Tổng giá trị trúng thầu là 10.027,6 tỷ đồng, giảm 22,34% tương ứng 2.868,5 tỷ đồng so với giá trúng thầu bình quân các địa phương trước khi đấu thầu tập trung quốc gia, trong đó Biệt dược gốc giảm 13,19%, Generic giảm 27,47%. Công tác theo dõi, giám sát tình hình thực hiện thỏa thuận khung, hợp đồng mua bán thuốc, yêu cầu các nhà thầu đảm bảo việc cung ứng đầy đủ thuốc cho cơ sở khám chữa bệnh, thực hiện điều tiết số lượng thuốc giữa các cơ sở y tế và các địa phương được thực hiện thường xuyên; Các vướng mắc trong quá trình cung ứng thuốc cơ bản được giải quyết.
BHXH Việt Nam thực hiện đẩy mạnh công tác cải cách TTHC, những nỗ lực cắt giảm TTHC của ngành BHXH đã được cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức chuyên ngành trong nước và ngoài nước đánh giá cao. Kết quả cụ thể đạt được trong giai đoạn 2016-2020 như sau:
Về số lượng TTHC: giai đoạn 2016-2020 số TTHC tiếp tục được rà soát, cắt giảm triệt để: từ 32 thủ tục năm 2016 xuống còn 28 thủ tục năm 2017, 2018 và 27 thủ tục năm 2019.
- Giai đoạn 2016-2017 đã giảm 38% thành phần hồ sơ, giảm 42% tiêu thức trên tờ khai, biểu mẫu; giảm 54% quy trình, thao tác thực hiện.
b) Thực hiện giao dịch điện tử, tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia
Năm 2019, tham gia xây dựng, trình Chính phủ Đề án “Đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 ngành bảo hiểm và các dịch vụ công trên cơ sở kết nối chia sẻ dữ liệu giữa BHXH Việt Nam và các ngành có liên quan”, Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1939/QĐ-BHXH ngày 31/12/2019. Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án, BHXH Việt Nam ban hành Kế hoạch số 400/KH-BHXH ngày 12/02/2020 để triển khai thực hiện.
Bên cạnh việc tiếp nhận hồ sơ trực tiếp tại Bộ phận một cửa của cơ quan BHXH, ngành BHXH đã triển khai tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích (từ năm 2015) và giao dịch điện tử (từ năm 2017). Việc sử dụng dịch vụ bưu chính công ích và đẩy mạnh giao dịch điện tử đã đáp ứng mục tiêu hỗ trợ đơn vị sử dụng lao động trong việc giảm chi phí đi lại, chờ đợi cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch với cơ quan BHXH; giảm hồ sơ tồn đọng tại cơ quan BHXH sau khi được giải quyết; giảm áp lực cho bộ phận một cửa của cơ quan BHXH; Đảm bảo công khai minh bạch các quy định về hồ sơ, quy trình thủ tục. Theo tính toán, phương thức giao dịch điện tử và qua hệ thống bưu điện đã giúp giảm 16 giờ đi lại, chờ đợi trong việc làm thủ tục tại cơ quan BHXH cho 1 đơn vị trong 1 năm; số lần thực hiện giao dịch đã giảm từ 12 lần/năm xuống còn 01 lần/năm.
d) Triển khai việc theo dõi trực tuyến
1.8. Công tác quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính của BHXH Việt Nam và chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công của Ngành giai đoạn 2016-2018 thực hiện theo Nghị quyết số 1083/2015/UBTVQH13 ngày 16/12/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về chi phí quản lý BHXH, BHTN giai đoạn 2016-2018 và việc ngân sách nhà nước chuyển kinh phí vào quỹ BHXH; Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg và Quyết định số 15/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư số 20/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính. Đến giai đoạn 2019-2020 thực hiện theo Nghị quyết số 528/2018/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Quyết định số 51/2018/QĐ-TTg, Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg, Quyết định số 38/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư số 20/2016/TT-BTC, Thông tư số 24/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Mức chi tiền lương từ 2016 đến nay được Ủy ban Thường vụ quốc hội quyết định bằng 1,8 lần so với chế độ tiền lương do nhà nước quy định và được đảm bảo nguồn thực hiện trong tổng mức chi hoạt động BHXH, BHYT, BHTN hàng năm nên Ngành đã chủ động được nguồn kinh phí đảm bảo ổn định thu nhập cho công chức, viên chức và người lao động.
Giai đoạn 2016-2020, BHXH Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định về tiêu chí định mức phân bổ dự toán chi phí quản lý BHXH, BHYT, BHTN đối với BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đơn vị dự toán cấp 3 trực thuộc BHXH Việt Nam. Các tiêu chí phân bổ được xây dựng khoa học, đúng chế độ chính sách hiện hành, phù hợp với đặc thù của Ngành, giúp cho công tác phân bổ dự toán chi phí quản lý BHXH, BHYT, BHTN hằng năm cho các đơn vị trực thuộc thuận lợi, đảm bảo công khai, minh bạch, sát với tình hình thực tế.
Công tác thẩm định, xét duyệt quyết toán và lập báo cáo quyết toán tài chính tại BHXH Việt Nam được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước, ngày càng được đổi mới và hoàn thiện, đã phân công phân nhiệm rõ ràng trách nhiệm của từng đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ. Từ năm 2019 đã thực hiện thẩm định, xét duyệt quyết toán trên phần mềm kế toán tập trung, do đó đã rút ngắn thời gian thực hiện.
Thứ nhất, đã xây dựng được hệ thống trụ sở BHXH đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ yêu cầu công tác của ngành góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương; tạo niềm tin của người lao động, của người sử dụng lao động và các đối tượng khác đối với cơ quan BHXH.
Thứ hai, ngành BHXH đã xây dựng được những công trình có chất lượng tốt, có kỹ mỹ thuật được đánh giá cao làm tô điểm những nét đẹp tại các địa phương nơi xây dựng trụ sở. Hầu hết các công trình được BHXH Việt Nam xây dựng đều đảm bảo chất lượng theo đúng quy chuẩn, quy phạm xây dựng. Các mẫu thiết kế được chọn lựa có nhiều nét đẹp vừa truyền thống, vừa hiện đại khi xây dựng phù hợp, hài hòa với môi trường xung quanh nên là điểm nhấn kiến trúc, xây dựng tại các địa phương. Các công trình được lựa chọn, đầu tư khá hoàn chỉnh từ phương án kiến trúc, thiết kế... đã được rút kinh nghiệm các công trình xây dựng trước, lựa chọn chỉ định các vật liệu có phẩm cấp tốt, giá cả hợp lý nên chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật của công trình được đánh giá cao.
1.10. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin.
BHXH Việt Nam cũng xây dựng hệ thống cấp số định danh và quản lý BHYT hộ gia đình để cập nhật và cấp mã số BHXH cho từng cá nhân, tạo thuận lợi cho người dân giao dịch với bất kỳ cơ quan BHXH nào trên toàn quốc; đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác, phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT...; công khai số máy điện thoại đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của các tổ chức cá nhân về các nội dung liên quan đến chế độ, chính sách, TTHC về BHXH, BHYT; thực hiện có hiệu quả Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO; duy trì và củng cố cơ chế “một cửa”, chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính thụ động sang phục vụ. Đáp ứng yêu cầu giải quyết công việc của các tổ chức, cá nhân, rút ngắn được thời gian giải quyết, hạn chế sự chồng chéo trong quá trình giải quyết công việc.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT, hiện đại hóa quản lý BHXH bao phủ hầu hết các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu, giúp rút ngắn thời gian giải quyết công việc, giảm bớt được các khâu trung gian và tạo điều kiện để các hoạt động tác nghiệp trở nên nhanh chóng, thuận tiện, chính xác, nâng cao hiệu quả hoạt động của cán bộ, viên chức, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người tham gia BHXH, BHYT. Toàn bộ ứng dụng CNTT ngành BHXH đã được triển khai, xây dựng theo Kiến trúc CPĐT của BHXH Việt Nam, phiên bản 1.0, phù hợp với Khung Kiến trúc CPĐT của Việt Nam. Tiếp tục đầu tư đồng bộ trong các hoạt động từ hạ tầng, phần mềm, CSDL và nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT. Trong đó phải kể đến các hoạt động: (1) nâng cấp, xây dựng mới hệ thống phần mềm nghiệp vụ phục vụ công tác quản lý theo hướng tập trung CSDL tại Trung ương; (2) Hệ thống giao dịch điện tử được tiếp tục hoàn thiện (tin học hóa hầu hết các thủ tục tham gia BHXH, BHYT, BHTN); (3) Tiếp tục triển khai và hoàn thiện phần mềm cấp mã số BHXH và quản lý BHYT hộ gia đình; (4) Tiếp tục triển khai và hoàn thiện hệ thống thông tin giám định BHYT góp phần quan trọng trong việc kiểm soát, giám sát thực hiện các dịch vụ y tế của các cơ sở KCB và người tham gia BHYT; là công cụ hỗ trợ đắc lực để giám sát, cảnh báo những vấn đề bất thường, cung cấp thông tin cho các cơ sở y tế để hoàn thiện và đảm bảo quyền lợi cho người bệnh; (5) Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hạ tầng CNTT; (6) Triển khai kết nối mạng WAN xuyên suốt từ BHXH Việt Nam tới BHXH cấp tỉnh, huyện và (7) Duy trì kết nối với trục tích hợp thông tin Quốc gia và với các Bộ, Ngành có liên quan để tích hợp và trao đổi thông tin trong và ngoài ngành. Ngoài ra, trên nền tảng ứng dụng CNTT những năm vừa qua, ngành đã và đang triển khai xây dựng hệ sinh thái 4.0 Ngành BHXH phục vụ người dân và doanh nghiệp với các dịch vụ: dịch vụ tin nhắn (SMS); dịch vụ thanh toán trực tuyến; ứng dụng BHXH trên thiết bị di động; hệ thống Chatbot hỗ trợ khách hàng (trả lời chính sách BHXH, BHYT tự động bằng trí tuệ nhân tạo, tăng tính tương tác cao với người tham gia, cung cấp thông tin đóng, hưởng BHXH, BHYT và dự tính mức hưởng nhằm phục vụ người dân tốt hơn); Phân tích, khai thác được lượng dữ liệu khổng lồ của Ngành trên BIGDATA; Thiết lập Fanpage truyền thông trên hệ thống mạng xã hội; cung cấp tất cả các dịch vụ công có thể lên cấp độ 4. Dự kiến công bố chính thức ứng dụng BHXH số trên nền tảng thiết bị di động với tên gọi “VssID” nhằm mục đích thiết lập kênh giao tiếp, tiếp cận thông tin, thực hiện dịch vụ công cho cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch với cơ quan BHXH vào ngày 18/9/2020. Ứng dụng VssID có các tính năng cơ bản như: Sổ BHXH điện tử, Thẻ BHYT điện tử, Sổ khám chữa bệnh, Sổ hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH và rất nhiều các tiện ích hữu dụng khác.
Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục được BHXH Việt Nam quan tâm chỉ đạo, trong đó nổi bật là việc tập trung hoàn thiện cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc theo Nghị định số 01/2016/NĐ-CP ngày 05/01/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Ngày 4/8/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/2020/NĐ-CP về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam (Nghị định số 89), trên cơ sở đó BHXH Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 2575/KH-BHXH ngày 12/8/2020 về tổ chức thực hiện Nghị định số 89.
- Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản hướng dẫn về quản lý, sử dụng công chức, viên chức (CCVC) phù hợp với nội dung mới được sửa đổi, bổ sung trong Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Đề án thí điểm thi tuyển vào các chức danh lãnh đạo, quản lý để có cơ sở tổng kết, đánh giá; rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với CCVC theo hướng khuyến khích CCVC nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm các sai phạm trong tuyển dụng, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ không đúng quy định, kịp thời thay thế CCVC tham nhũng, lãng phí, không đủ điều kiện về đạo đức, năng lực, trình độ. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ CCVC có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
Giai đoạn từ 2016-2020 cũng là giai đoạn đầu BHXH Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (TTCN) theo Nghị định số 21/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Trong 05 năm, toàn ngành BHXH đã tiến hành TTKT tại 94.237 đơn vị, số đơn vị TTKT năm sau luôn cao hơn năm trước: Năm 2016 thực hiện TTKT tại 18.732 đơn vị, năm 2017 tại 19.402 đơn vị (bằng 103,6% so với năm 2016), năm 2018 tại 25.343 đơn vị (bằng 130,6% so với năm 2017), năm 2019 tại 28.336 đơn vị (bằng 111,8%) và 6 tháng đầu năm 2020 tại 2.424 đơn vị. Trong đó, số đơn vị được TTCN qua các năm đều tăng cao cả về số lượng lẫn chất lượng (năm 2016, khi bắt đầu thực hiện chức năng TTCN, toàn Ngành thực hiện TTCN tại 1.174 đơn vị, năm 2017 là 4.006 đơn vị, tăng 241%; năm 2019, TTCN tại 9.886 đơn vị, bằng 117% so với năm 2018). Kết quả cụ thể như sau:
Phát hiện 175.999 lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH, BHTN, BHYT nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian với số tiền phải truy đóng là 523.737 triệu đồng; 184.675 lao động tham gia thiếu mức tiền lương, các khoản phụ cấp, các khoản bả sung theo quy định, số tiền phải truy đóng là 292.578 triệu đồng. Ban hành 2.402 quyết định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) với số tiền phải thu là 96.808 triệu đồng; số tiền xử phạt đã thu 28.645 triệu đồng, đạt 29,6% Yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH số tiền 47.135 triệu đồng do người lao động hưởng chế độ BHXH không đúng quy định. Yêu cầu thu hồi về quỹ BHYT số tiền 743.675 triệu đồng chi phí KCB BHYT không đúng quy định.
b) Công tác tiếp công dân (TCD) và giải quyết khiếu nại tố cáo (KNTC)
Tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, dứt điểm, có tình, có lý và đúng theo quy định của pháp luật mọi KNTC, KNPA, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động và người thụ hưởng. Tổng số đơn tiếp nhận của toàn Ngành từ năm 2016 đến hết tháng 6/2020 là 13.702 đơn; trong đó phần lớn đơn tiếp nhận là đơn KNPA (chiếm 87,2%), đơn KNTC chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số đơn (đơn khiếu nại chiếm 8,4%, đơn tố cáo chiếm 4,4%).
Thực hiện Nghị quyết 22/NQ-TW ngày 10/7/2013 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ về tăng cường hội nhập quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã giao BHXH Việt Nam xây dựng “Chiến lược Hội nhập quốc tế của ngành BHXH đến năm 2020, định hướng 2030”. Năm 2015, BHXH Việt Nam đã xây dựng, lấy ý kiến các Bộ, ngành, cơ quan liên quan hoàn thành dự thảo Chiến lược và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chiến lược này là cơ sở pháp lý và định hướng chiến lược cho mọi hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế của ngành BHXH trong thời gian tới, góp phần thực hiện thành công chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước.
Công tác thông tin đối ngoại (TTĐN) có bước đột phá và đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng: thiết lập hệ thống công chức viên chức làm đầu mối công tác TTĐN; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng công tác TTĐN cho cán bộ ngành BHXH từ Trung ương đến địa phương; xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả các kế hoạch TTĐN giai đoạn, hàng năm; kết nối với BHXH các tỉnh, thành phố trong triển khai công tác đối ngoại và TTĐN; tuyên truyền hiệu quả về các sự kiện lớn của Ngành. Áp dụng các hình thức truyền thông đối ngoại hiện đại như truyền thông đa phương tiện, cổng thông tin điện tử phiên bản tiếng Anh.
- Hoạt động đầu tư quỹ đã đi vào nền nếp, đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ, hướng dẫn của các Bộ, ngành và Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam; cơ cấu đầu tư quỹ chuyển dịch theo hướng an toàn (tăng dần tỷ lệ đầu tư trái phiếu Chính phủ, giảm dần tỷ lệ cho Ngân hàng thương mại nhà nước vay), hành lang pháp lý và cơ chế hoạt động được hoàn thiện nâng cao chất lượng và hiệu quả theo hướng chuyên nghiệp. Công tác quản lý đầu tư quỹ đã được Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá và ghi nhận là an toàn, hiệu quả và có tăng trưởng.
Tuy nhiên, việc đầu tư hiện nay chủ yếu thông qua mua trái phiếu Chính phủ (thời hạn cho vay dài) mà chưa mở rộng đến các hình thức đầu tư trực tiếp có lợi nhuận cao hơn nên chưa tận dụng hết khả năng sinh lời của quỹ.
a) Công tác phòng, chống tham nhũng
Thực hiện có hiệu quả chủ trương bố trí, luân chuyển cán bộ từ Trung ương xuống BHXH cấp tỉnh, BHXH cấp huyện và ngược lại, không bố trí, đề bạt, bổ nhiệm những người có quan hệ gia đình cùng làm một số vị trí, công việc, lĩnh vực nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực.
Thực hiện tuyên truyền, phổ biến, quán triệt nội dung Chiến lược Quốc gia, Chương trình hành động của Chính phủ về PCTN và các chính sách, pháp luật về PCTN; kiểm soát tài sản, thu nhập; tăng cường công khai, minh bạch trong thực thi công vụ; xây dựng chương trình, kế hoạch công tác PCTN hàng năm nhằm tăng cường việc thực hiện pháp luật về PCTN của CCVC, người lao động.
b) Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Hàng năm, BHXH Việt Nam đã báo cáo Bộ Tài chính kết quả THTK, CLP để tổng hợp, báo cáo Chính phủ. Theo đó, công tác THTK, CLP đã được quan tâm, chú trọng tại từng đơn vị gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Toàn Ngành thực hiện nghiêm túc tiết kiệm 10% kinh phí chi thường xuyên trước khi phân bổ dự toán cho các đơn vị để tạo nguồn cải cách tiền lương theo đúng yêu cầu tại Chương trình THTK, CLP của Chính phủ; phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu dự toán Thủ tướng Chính phủ giao; kết hợp công tác kiểm tra THTK, CLP cùng với kiểm tra nghiệp vụ của đơn vị, kịp thời ngăn chặn các hành vi lãng phí.
BHXH Việt Nam báo cáo tình hình thực hiện của 03 đề án theo số thứ tự 119, 120, 121 tại Phụ lục II kèm theo Công văn số 4201/BKHĐT-TH ngày 30/6/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về đề cương chương trình hành động thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, cụ thể như sau:
- Đề án có số thứ tự 120: “Sổ BHXH, thẻ BHYT điện tử” theo quy định của Luật BHXH năm 2014.
Thực hiện yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý ngành BHXH, từ ngày 01/8/2017 BHXH Việt Nam đã hoàn thiện cơ sở dữ liệu điện tử về đối tượng tham gia BHXH, BHYT và thực hiện cấp thẻ BHYT theo mã số BHXH duy nhất. Người tham gia có thể tự tra cứu thông tin dữ liệu về quá trình tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của mình trên Cổng thông tin BHXH Việt Nam (tại địa chỉ: http://www.baohiemxahoi.gov.vn). Các cơ sở KCB BHYT đã thực hiện việc tra cứu thông tin về dữ liệu thẻ BHYT thông qua mã số BHXH và mã vạch BHYT trên Cổng thông tin Giám định BHYT của BHXH Việt Nam. Đến thời điểm hiện nay, toàn bộ hệ thống CNTT (cả phần cứng và phần mềm) của BHXH Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu ứng dụng, quản lý thông tin, dữ liệu điện tử của người tham gia BHXH, BHYT.
- Đề án có số thứ tự 121: “Xây dựng mô hình tổ chức BHXH, BHYT, BHTN ở Việt Nam”. Đề nghị đưa ra khỏi Danh mục các chương trình, đề án. Lý do: Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản (số 157/VPCP-KHTH ngày 5/1/2018) đồng ý rút Đề án “Xây dựng mô hình tổ chức BHXH, BHYT, BHTN ở Việt Nam” ra khỏi Danh mục các chương trình, đề án thuộc chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn 2016-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 22/7/2016 của Chính phủ.
Trong giai đoạn 5 năm 2016-2020, BHXH Việt Nam đã phối hợp tốt với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan cũng như hướng dẫn, chỉ đạo BHXH các địa phương để hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao. Cụ thể:
2.2. Trên cơ sở Luật BHXH, BHYT và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật, BHXH Việt Nam ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu quản lý về công tác thu, công tác cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT và công tác giải quyết chế độ cho đối tượng thụ hưởng. Đồng thời tháo gỡ những tồn tại, vướng mắc cho BHXH các tỉnh, thành phố trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước và đáp ứng yêu cầu giải quyết quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT.
- Việc phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về BHXH, BHYT ở một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa sâu rộng, có nơi, có lúc còn chưa được quan tâm đúng mức, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.
- Công tác quản lý nhà nước về BHXH, BHYT vẫn còn một vài hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, một số văn bản hướng dẫn còn chung chung, chưa cụ thể ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện; tính ổn định của chính sách BHXH chưa cao, một số chế độ thường xuyên thay đổi; công tác thanh tra, kiểm tra còn nhiều bất cập.
- Công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của ngành BHXH. Tuy nhiên hiện nay, những tác động và ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đã gây ra không ít khó khăn cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của Ngành, đặc biệt là công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT, cụ thể:
+ Trong bối cảnh tác động của dịch bệnh Covid-19 đã và đang ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề, lĩnh vực, khiến nhiều doanh nghiệp khó khăn vì thiếu nguyên liệu đầu vào hoặc không tiêu thụ được hàng hóa sản xuất ra dẫn đến đóng cửa, sa thải nhân công, làm tăng tỷ lệ lao động thất nghiệp, giảm đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền thu, tăng số tiền nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT mà ngành BHXH đang quản lý.
- Theo quy định của Luật BHXH, chủ hộ kinh doanh cá thể, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã, không hưởng tiền lương, không thuộc đối tượng tham gia BHXH, do vậy một số chủ hộ kinh doanh cá thể, chủ doanh nghiệp tư nhân không được tham gia BHXH bắt buộc nên cũng không đóng BHXH bắt buộc cho ngươi lao động. Người tham gia BHXH tự nguyện hiện nay chỉ được hưởng 02 chế độ hưu trí và tử tuất nên chưa thu hút được nhiều đối tượng tham gia.
- Tình trạng chậm đóng, trốn đóng, nợ đọng BHXH, BHTN, BHYT vẫn còn xảy ra ở các địa phương ảnh hưởng đến việc triển khai công tác thu BHXH, BHTN, BHYT toàn Ngành. Một số địa phương phối hợp chưa tốt với cơ quan tài chính trong việc chuyển tiền đóng BHYT cho các đối tượng được NSNN đóng, hỗ trợ đóng.
- Mặc dù công tác quản lý người hưởng BHXH đã được cơ quan Bưu điện quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp, nhưng tại một số địa phương vẫn còn tình trạng chậm trễ trong việc thông báo cắt giảm đối tượng hưởng BHXH (đối với các trường hợp chết, mất tích, di chuyển đi nơi khác ...) cho cơ quan BHXH dẫn đến phát sinh chi không đúng phải thu hồi hoàn trả quỹ BHXH; việc hướng dẫn, giải đáp thắc mắc đối với người hưởng BHXH về các thủ tục hành chính, chế độ chính sách BHXH của các nhân viên chi trả còn hạn chế do chưa hiểu rõ về chính sách hiện hành.
- Công tác kiểm tra giám sát đối với BHXH các tỉnh vẫn còn hạn chế dẫn tới tình trạng phát sinh ngoài tầm kiểm soát, khi đã xảy ra sự vụ mới biết.
- Một số cán bộ, viên chức trong công tác chỉ đạo, điều hành còn mang tính hành chính, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa sâu, lề lối, tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp.
Qua thực tiễn đánh giá, phân tích về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020, BHXH Việt Nam đã rút ra một số bài học kinh nghiệm để tiếp tục triển khai tốt nhiệm vụ được giao tại Nghị Nghị quyết số 20, Nghị quyết số 28-NQ/TW trong thời tới đó là:
Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH, BHYT để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ vai trò, ý nghĩa của BHXH, BHYT trong hệ thống ASXH; quyền lợi và nghĩa vụ của người dân khi tham gia BHXH, BHYT. Phát hiện và biểu dương kịp thời các địa phương, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện tốt, đồng thời phê phán, xử lý nghiêm vi phạm. Chính quyền, cơ quan BHXH và các tổ chức đoàn thể cần chú ý làm tốt công tác vận động nhân dân tham gia BHXH, BHYT.
Bốn là, phát triển hệ thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống BHXH, BHYT theo hướng phục vụ chi trả nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền lợi người tham gia.
Sáu là, Quản lý chặt chẽ các nguồn kinh phí; tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng quy định các chế độ BHXH, BHTN, BHYT. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ chi phí KCB BHYT tại các cơ sở y tế để quản lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả Quỹ KCB BHYT.
Tám là, nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên chức; đối mới tác phong, lề lối làm việc và phong cách phục vụ đối tượng; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, tập trung vào việc đơn giản hóa các TTHC, tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM Y TẾ 5 NĂM 2021-2025
- Trong giai đoạn tới, tình hình thế giới tiếp tục phức tạp, khó lường trong khi đó kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn rủi ro, đặt ra nhiều thách thức cho quá trình phát triển bền vững. Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số nhanh chóng, tốc độ tăng dân số ngày càng thấp. Đồng thời, đại dịch Covid-19 vẫn còn tiếp diễn và những tác động tích cực của đại dịch đến mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người lao động hết sức nặng nề. Đây là những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chính sách BHXH, BHTN, BHYT 5 năm 2021-2025.
II. Mục tiêu phát triển ngành BHXH
Thực hiện tốt các chính sách, chế độ BHXH, BHTN, BHYT; tăng nhanh đối tượng tham gia BHXH, BHYT, nhất là đối tượng tự nguyện; phấn đấu thực hiện BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân; sử dụng, quản lý quỹ BHXH, BHYT đảm bảo an toàn, hiệu quả. Xây dựng ngành BHXH theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN, BHYT để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 tại Hội nghị lần thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương; Nghị quyết số 28-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 8/10/2018 của Chính phủ về việc ban hành chương trình hành động của chính phủ thực hiện nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
3.1. Các căn cứ xây dựng kế hoạch
b) Các văn kiện, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phát triển KTXH.
d) Các chỉ tiêu về BHXH, BHTN, BHYT được giao tại các văn bản: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Bộ Chính trị về cải cách chính sách BHXH; Quyết định số 856/QĐ-TTg ngày 10/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án "Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
g) Tình hình và kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2016-2020 nêu tại mục I trên đây.
i) Mục tiêu phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 của cả nước nêu tại Chỉ thị số 18/CT-TTg.
3.2. Dự kiến các chỉ tiêu kế hoạch
3.2.1. Dự kiến kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN và số thu BHXH, BHYT, BHTN
a) Dự kiến năm 2021
+ BHXH bắt buộc 15,731 triệu người, tăng 807 nghìn người (5,4%) so với ước thực hiện năm 2020.
- Số người tham gia BHTN là 14,136 triệu người, tăng 822 nghìn người (6,2%) so với ước thực hiện năm 2020, đạt tỷ lệ 28,4% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, cao hơn 0,4% so với chỉ tiêu phấn đấu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW.
b) Ước đến năm 2025
+ BHXH bắt buộc 19,553 triệu người, tăng 1,071 triệu người (5,8%) so với ước thực hiện năm 2024.
- Số người tham gia BHTN là 18,010 triệu người, tăng 1,804 triệu người (6,4%) so với ước thực hiện năm 2024, đạt tỷ lệ 35% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, bằng chỉ tiêu phấn đấu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW.
3.2.1.2. Số thu
- Ước đến năm 2025: Tổng số thu BHXH, BHYT, BHTN là 598.766 tỷ đồng, tăng 55.361 tỷ đồng (10,2%) so với ước thực hiện năm 2024. Trong đó: BHXH bắt buộc: 409.816 tỷ đồng, BHXH tự nguyện: 19.056 tỷ đồng, BH thất nghiệp: 30.248 tỷ đồng, BHYT: 139.007 tỷ đồng, lãi chậm đóng: 639 tỷ đồng.
3.2.2.1. Chi từ nguồn Ngân sách nhà nước đảm bảo
3.2.2.2. Chi từ nguồn quỹ BHXH bảo đảm
a) Chi từ Quỹ hưu trí, tử tuất
+ Số chi ước năm 2021 là 173.980 tỷ đồng, năm 2025 là 203.341 tỷ đồng (tăng bình quân 5.872 tỷ đồng/năm, tương ứng 2,89%/năm).
+ Dự kiến tổng số người hưởng chế độ TNLĐ-BNN hàng tháng năm 2021 là 53.191 người, năm 2025 là 66.859 người (số đối tượng tăng bình quân 6,42%/năm).
c) Chi từ Quỹ ốm đau, thai sản ước mỗi năm khoảng 35.025 tỷ đồng.
+ Dự kiến tổng số lượt người hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp năm 2021 là 1.027.055 lượt người, năm 2025 là 1.247.633 lượt người.
3.2.2.4 Chi khám bệnh, chữa bệnh BHYT
- Số chi KCB BHYT ước năm 2021 là 109.048 tỷ đồng, năm 2025 là 116.006 tỷ đồng (dự kiến tăng 1,6%/năm).
1. Tiếp tục bám sát các nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết số 21-NQ/TW, Nghị quyết số 20-NQ/TW, Nghị quyết số 102/NQ-CP, Nghị quyết số 28-NQ/TW, Nghị quyết 125, Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH và Nghị quyết số 01/NQ-CP hàng năm của Thủ tướng Chính phủ.
3. Tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư tại Công văn số 79-CV/TW ngày 29/1/2020 và các Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 28/1/2020, Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 31/1/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phòng chống dịch bệnh Covid-19; Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/03/2020 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19; quán triệt công chức, viên chức và người lao động trong toàn Ngành thực hiện các biện pháp phòng, chống và chấp hành chỉ đạo của từng địa phương nơi xảy ra dịch Covid-19.
5. Nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng sự hài lòng của người dân, tổ chức và doanh nghiệp đối với sự phục vụ của Ngành BHXH. Thực hiện tốt việc hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính sách cho tổ chức, doanh nghiệp và người dân về BHXH, BHYT, BHTN thông qua Hệ thống chăm sóc khách hàng.
7. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, triển khai thực hiện hệ thống tương tác đa phương tiện giữa người dân và doanh nghiệp, mở rộng cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên các lĩnh vực; đẩy mạnh việc giao dịch điện tử; quản lý và sử dụng văn bản điện tử trong hệ thống cơ quan BHXH và trên trục liên thông của Chính phủ.
9. Tiếp tục thực hiện Chiến lược hội nhập quốc tế của Ngành BHXH đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 20/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tăng cường hội nhập quốc tế, đẩy mạnh thực hiện công tác thông tin đối ngoại nhằm khẳng định vai trò, vị thế và hình ảnh Ngành BHXH là bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng an sinh xã hội khu vực và thế giới, hướng tới sự chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo vì mục tiêu sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp và phát triển sự nghiệp an sinh xã hội bền vững, hiệu quả tại Việt Nam.
Trên đây là Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 của BHXH Việt Nam, đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Chính phủ./.
- Như trên;
- Các Phó Tổng Giám đốc;
- Các đơn vị: TST, TCKT, CSYT, CSXH, ĐTQ, TCCB;
- BHXH các tỉnh, thành phố;
- Lưu: VT, KHĐT (03b).
TỔNG GIÁM ĐỐC
Nguyễn Thế Mạnh
HỆ THỐNG BIỂU MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2021-2025
(Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
TT | Tên biểu | Nội dung | Đơn vị thực hiện | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 - 2020 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2021 - 2025 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
ĐỐI TƯỢNG THAM GIA VÀ SỐ THU BHXH, BHYT, BHTN 5 NĂM 2016 - 2020 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
ĐỐI TƯỢNG THAM GIA VÀ SỐ THU BHXH, BHYT, BHTN 5 NĂM 2021-2025 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
TÌNH HÌNH CHẬM ĐÓNG, NỢ ĐỌNG BHXH, BHYT, BHTN 5 NĂM 2016 - 2020 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
SỐ CHI CÁC CHẾ ĐỘ BHXH, BHYT, BHTN NĂM 2016 - 2025 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam) Đơn vị tính: Tỷ đồng
ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG CÁC CHẾ ĐỘ BHXH, BHYT, BHTN NĂM 2016 - 2025 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam)
ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG CÁC QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2016-2025 (Kèm theo Kế hoạch số 3353/KH-BHXH ngày 22 tháng 10 năm 2020 của BHXH Việt Nam) Đơn vị tính: tỷ đồng
Từ khóa: Kế hoạch 3353/KH-BHXH, Kế hoạch số 3353/KH-BHXH, Kế hoạch 3353/KH-BHXH của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Kế hoạch số 3353/KH-BHXH của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Kế hoạch 3353 KH BHXH của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 3353/KH-BHXH File gốc của Kế hoạch 3353/KH-BHXH năm 2020 về phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 của ngành Bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành đang được cập nhật. Kế hoạch 3353/KH-BHXH năm 2020 về phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 của ngành Bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hànhTóm tắt
Đăng nhậpĐăng ký |