BỘ Y TẾ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9157/BYT-VPB1 | Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2021 |
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hải Phòng
Bộ Y tế nhận được công văn số 227/BDN ngày 30 tháng 8 năm 2021 của Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc chuyển kiến nghị của cử tri gửi tới Quốc hội sau kỳ họp thứ 1, Quốc hội Khóa XV, trong đó có kiến nghị của cử tri địa phương tỉnh/thành phố.
Bộ Y tế xin gửi kèm theo các nội dung trả lời đối với các kiến nghị của cử tri địa phương về những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Y tế. Kính đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội xem xét và trả lời, thông tin tới cử tri.
Xin trân trọng cảm ơn./.
| BỘ TRƯỞNG |
TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ 1, QUỐC HỘI KHÓA XV THUỘC LĨNH VỰC BỘ Y TẾ
(Kèm theo công văn số 9157/BYT-VPB1 ngày 21/10/2021)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Bộ Y tế đã xác định được tầm quan trọng của vắc xin phòng COVID-19 ngay từ khi dịch COVID-19 xuất hiện tại Vũ Hán, Trung Quốc. Do các điều kiện mua bán vắc xin mà các nhà sản xuất vắc xin đưa ra có nhiều vướng mắc so với pháp luật Việt Nam, Chính phủ đã chủ động báo cáo Bộ Chính trị đã có ý kiến chỉ đạo, tháo gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý để thúc đẩy việc đàm phán, mua bán vắc xin với các nhà sản xuất trong trường hợp cấp bách.
Ngày 26/02/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP về mua và sử dụng vắc xin phòng COVID-19, trong đó “Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương có liên quan thực hiện việc mua, nhập khẩu, tiếp nhận viện trợ, tài trợ, quản lý và sử dụng vắc xin phòng COVID-19 trong năm 2021 cho người từ 18 tuổi trở lên” với số lượng khoảng 150 triệu liều. Bộ Y tế đã chủ động tiếp cận các nguồn vắc xin trên Thế giới, tổ chức hàng trăm cuộc họp để kêu gọi tài trợ, vận động và tổ chức mua vắc xin. Quá trình mua vắc xin được thực hiện công khai, minh bạch; có sự tham gia của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công an, Ngoại giao, Công Thương.
Việc cung ứng vắc xin còn chậm do các nguyên nhân khách quan và chủ quan: i) do tình trạng khan hiếm vắc xin trên toàn cầu; ii) tiến độ giao vắc xin phụ thuộc hoàn toàn vào nhà sản xuất, cung ứng; iii) vắc xin trong Chương trình COVAX được ưu tiên cung ứng cho các nước có tình hình dịch bệnh nghiêm trọng (trong khi Việt Nam được đánh giá là chống dịch tốt thời gian đầu); iv) điều kiện mua vắc xin rất khắt khe, chưa có trong tiền lệ và còn một số vướng mắc trong pháp luật Việt Nam.
Tính đến ngày 22/10/2021, Bộ Y tế cấp phép sử dụng cho 8 loại vắc-xin phòng COVID-19, gồm: AstraZeneca, Sputnik V, Vero Cell, Pfizer, Moderna, Janssen, Hayat-Vax và Abdala. Ngoài ra còn có 03 vắc xin đã nộp hồ sơ và đang trong quá trình xem xét, phê duyệt, bao gồm: Covaxin (Ấn độ), sputnik Light (Liên Bang Nga) và EpiVac Corona (Liên Bang Nga). Các loại vắc xin phòng COVID-19 Việt Nam đang nhập khẩu, nhận tài trợ đều đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cấp chứng nhận hoặc hoặc cơ quan quản lý dược của các nước trong danh sách SRA (Cơ quan quản lý dược chặt chẽ) phê duyệt sử dụng.
Tính đến ngày 05/11/2021, tổng số vắc xin đã có hợp đồng mua, cam kết viện trợ và tài trợ là 198,8 triệu liều, đã tiếp nhận 124,7 triệu liều vắc xin và phân bổ vắc xin theo địa bàn trọng điển là những nơi đang có dịch bùng phát mạnh, nguy cơ bùng phát cao, nhiều khu công nghiệp, giao thông huyết mạch…; thực hiện ưu tiên tiêm cho các đối tượng người già, người có nguy cơ cao, mở rộng chỉ định tiêm cho một số đối tượng như phụ nữ mang thai trên 13 tuần, trẻ em, mở rộng mạng lưới tiêm chủng bao gồm cố định và lưu động. Hiện đã phân bổ hơn 110 triệu liều vắc xin cho các đơn vị, địa phương để tiêm chủng cho toàn bộ người dân từ 18 tuổi trở lên và một số trẻ em từ 12 đến 17 tuổiCâu 2: Cử tri đề nghị Bộ Y tế khôi phục chức danh Y tá thôn để chăm sóc sức khỏe cho người dân; tăng kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động của trạm Y tế xã, vì hiện nay mức kinh phí chi cho y tế là 1.500.000 đồng là quá thấp (Thanh Hóa).
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về đề nghị khôi phục chức danh Y tá thôn để chăm sóc sức khỏe cho người dân
Ngày 11/5/2009, Bộ Y tế đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn bản; theo đó tại khoản 1 Điều 1 quy định “Mỗi thôn, bản được bố trí từ 01 đến 02 nhân viên y tế, căn cứ vào quy mô dân số và địa bàn hoạt động”, Điều 2 quy định “Trong thời gian công tác, nhân viên y tế thôn, bản được hưởng phụ cấp hàng tháng; mức phụ cấp bằng 0,5 và 0,3 so với mức lương tối thiểu chung’’. Đây là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng làm cơ sở cho các địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có quy định “Chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ thôn bản có nhân viên y tế hoạt động: Đạt 90% vào năm 2015 và trên 90% vào năm 2020”
Tuy nhiên, ngày 24/4/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2019/NĐ-CP quy định “Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố có không quá 03 người, được hưởng phụ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước và chỉ áp dụng đối với 03 chức danh gồm Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Ban công tác mặt trận; người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố ngoài 03 chức danh nêu trên không hưởng phụ cấp hàng tháng mà được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia vào công việc của thôn, tổ dân phố từ đoàn phí, hội phí khoán cho các đoàn thể và từ các nguồn quỹ khác (nếu có)”; dẫn đến việc triển khai thực hiện có khác nhau ở mỗi địa phương trên phạm vi toàn quốc.
Hiện tại, Bộ Y tế đang trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết về giải pháp thực hiện chính sách đối với đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản; bao gồm 02 nội dung chính: (1) Duy trì, ổn định đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản đã được đào tạo để hoạt động phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế ở địa phương; (2) Thực hiện chính sách bồi dưỡng hằng tháng đối với đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản; mức bồi dưỡng hàng tháng do địa phương quyết định từ nguồn ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) và các nguồn kinh phí hợp pháp khác làm cơ sở pháp lý giúp các địa phương thống nhất triển khai thực hiện nhằm duy trì, ổn định đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của địa phương.
2. Về tăng kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động của trạm Y tế xã, vì hiện nay mức kinh phí chi cho y tế là 1.500.000 đồng là quá thấp
(1) Ngày 01/9/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 01/2021/UBTVQH15 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022, trong đó giao các Bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, triển khai thực hiện Nghị quyết theo quy định; giao Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; quy định Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ khả năng ngân sách địa phương, quyết định phân bổ cho y tế dự phòng đạt tối thiểu 30% ngân sách y tế, ưu tiên cho y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, các lĩnh vực phong, lao, tâm thần và các lĩnh vực khác theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/217 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
(2) Bộ Y tế đã có Công văn số 4607/BYT-KHTC ngày 08/6/2021, Công văn số 8160/BYT-KHTC ngày 29/9/2021 gửi Bộ Tài chính đề nghị báo cáo Thủ tướng Chính phủ quy định trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 nội dung các địa phương dành 40% ngân sách y tế cho y tế cơ sở để phân bổ cho Trạm y tế xã để triển khai các hoạt động, bao gồm cả công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Số kinh phí này được phân bổ cho các Trạm Y tế theo định mức phân bổ do địa phương quyết định. Bộ Y tế đề nghị cử tri có ý kiến với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh trong quá trình phân bổ ngân sách chi sự nghiệp y tế.
Và Câu 5: Đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ chính sách về Bảo hiểm y tế cho nhân dân xã vùng An toàn khu (ATK) theo Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 24/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ xã ATK, vùng ATK cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; và đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số tại các xã vùng I và các xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới theo Quyết định 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ, vì thực tế hiện nay các xã thuộc vùng I và xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới vẫn còn rất nhiều cá nhân và hộ gia đình có điều kiện kinh tế rất khó khăn (Hòa Bình).
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Ngày 24/3/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/CT- TTg về chính sách hỗ trợ xã an toàn khu, vùng an toàn khu cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong đó giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu sửa đổi bổ sung Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 trong đó có chính sách hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế cho nhân dân các xã an toàn khu cách mạng. Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP các đối tượng chính sách, trong đó có những người sinh sống trong vùng ATK đã được hưởng chính sách bảo hiểm y tế, gồm:
“Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo và một số đối tượng khác, cụ thể:
a) Người thuộc hộ gia đình nghèo theo tiêu chí về thu nhập, người thuộc hộ nghèo đa chiều có thiếu hụt về bảo hiểm y tế quy định tại Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế chuẩn nghèo áp dụng cho từng giai đoạn;
b) Người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
c) Người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
d) Người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;”
Tuy nhiên, ngày 04/6/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 861/QĐ-TTg trong đó tại Điều 3, các xã khu vực III, khu vực II nếu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới sẽ được xác định là xã khu vực I và thôi hưởng các chính sách áp dụng đối với xã khu vực III, khu vực II kể từ ngày Quyết định của cấp có thẩm quyền công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới có hiệu lực. Như vậy, đối với người sinh sống trong các xã an toàn khu cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ không thuộc đối tượng được Ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế (trừ những đối tượng đã tham gia bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật).
(2) Để có cơ sở thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người sinh sống trong các xã an toàn khu cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Bộ Y tế đã có văn bản số 5934/BYT-BH ngày 24/7/2021 gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam thống nhất nội dung đề nghị mua thẻ bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó để tháo gỡ khó khăn đối với những đối tượng người sinh sống trong khu vực an toàn khu không được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo Quyết định số 861/QĐ-TTg. Ngày 26/7/2021, Bộ Y tế đã có văn bản số 5976/BYT-BH gửi Văn phòng Chính phủ để báo cáo, thống nhất với đề nghị của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về đề nghị mua thẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó để tháo gỡ khó khăn đối với những đối tượng người sinh sống trong khu vực an toàn khu không được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo Quyết định số 161/QĐ-TTg. Trên cơ sở đó, ngày 27/7/2021, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có văn bản số 2236/BHXH-TST báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy, việc triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi, trong đó có các xã an toàn khu cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã được Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành đề xuất, báo cáo Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hiện đang chờ ý kiến kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Ngày 08/12/2014, Bộ Y tế đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP quy định về y tế xã, phường, thị trấn; tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 117 quy định “ Tổ chức y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ” để bảo đảm tính thống nhất, tính khả thi trong việc thực hiện chương trình cải cách hành chính của Chính phủ. Vì Trạm y tế không phải là đơn vị sự nghiệp hoàn chỉnh (chỉ bố trí các chức danh chuyên môn) nên phải thuộc đơn vị sự nghiệp hoàn chỉnh là Trung tâm Y tế huyện để bảo đảm trong công tác quản lý chung; nếu quy định trạm y tế là đơn vị sự nghiệp hoàn chỉnh sẽ tăng tổ chức, tăng số lượng người làm việc ở bộ phận hành chính
Ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã nêu “Thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một Trung tâm Y tế đa chức năng, bao gồm y tế dự phòng, dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế khác; Trung tâm trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực (nếu có)” đã khẳng định việc quy định “Trạm y tế là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện cấp huyện ” đã hoàn toàn phù hợp và bảo đảm tính thực tiễn.
(2) Ngày 27/5/2021, Bộ Y tế ban hành Thông tư số 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (thay thế Thông tư số 37/2016/TT-BYT ngày 25/10/2016); trong đó xác định các đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện có: (i) Trạm y tế xã, phường, thị trấn, (ii) Phòng khám đa khoa khu vực, Nhà hộ sinh (nếu có); đồng thời xác định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh “Chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất đối với các đơn vị y tế trên địa bàn theo phân công, phân cấp và phối hợp với Sở Y tế tăng cường công tác y tế, dân số trên địa bàn”. Đến thời điểm hiện tại, 62/63 tỉnh, thành phố quy định Trạm y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện (tỉnh Quảng Ninh thực hiện thí điểm giao Phòng Y tế quản lý Trạm y tế xã từ năm 2016).
(3) Những văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng, kết quả thực hiện trên phạm vi toàn quốc là cơ sở thực tiễn khẳng định vị trí của Trạm y tế trong hệ thống, bảo đảm tính thống nhất trong quản lý chung đối với Trạm y tế trên cơ sở nội dung công việc cũng như quản lý các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) theo quy định của pháp luật và phân cấp hiện nay.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Ngày 08/7/2021, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3355/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021- 2022. Đây là chiến dịch tiêm chủng vắc xin COVID-19 với quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng tại Việt Nam, có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giao thông Vận tải và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; kế hoạch tổ chức triển khai trên quan điểm thống nhất “Tiêm nhanh nhất, nhiều nhất, rộng nhất, đảm bảo an toàn, hiệu quả, công bằng và công khai” với các giải pháp:
(1) Huy động lực lượng, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết triển khai chiến dịch tiêm chủng toàn quốc: Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho chiến dịch tiêm chủng với quy mô lớn nhất trong lịch sử. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và triển khai chiến dịch này. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia vào chiến dịch. Tổ chức, bố trí nhiều điểm tiêm (Trạm Y tế cấp xã, Bệnh viện, Bệnh xá, cơ sở y tế thuộc các Bộ, ngành, cơ sở tiêm chủng dịch vụ...) và một số cơ sở tiêm khác (Trạm y tế lưu động, các trường học, nhà văn hóa ...).
(2) Bộ Y tế đã xây dựng các tài liệu và tổ chức tập huấn về việc triển khai công tác tiêm chủng, hướng dẫn khám sàng lọc, xử trí tai biến nặng sau tiếm chủng; đảm bảo an toàn tiêm chủng. Chỉ đạo các Bệnh viện trung ương, tỉnh, thành phố, Bệnh viện và Trung tâm y tế cấp huyện tổ chức các đội cấp cứu tại đơn vị và hỗ trợ cho các điểm tiên chủng, đặc biệt là các xã ở các vùng đi lại khó khăn, ít nhất 01 đội cấp cứu lưu động tại mỗi cụm 3-4 điểm tiêm chủng. Trong thời gian triển khai tiêm chủng COVID-19, các bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố phải dự phòng một số giường bệnh hồi sức tích cực nhất định (để trong tối thiểu 5 giường/Bệnh viện) để sẵn sàng xử trí trường hợp phản ứng nặng sau tiêm chủng.
(3) Chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ, vật tư tiêu hao cho tiêm chủng, biểu mẫu tiêm chủng, phương tiện xử trí cấp cứu tại chỗ và phương án cụ thể để hỗ trợ cấp cứu trong trường hợp cần thiết. Bộ Y tế chỉ đạo các cơ sở y tế đảm bảo tiêm đến đâu an toàn đến đó, hướng dẫn các cơ sở tiêm chủng bố trí tiêm theo khung giờ, chia thành nhiều bàn, điểm tiêm chủng bảo đảm giãn cách phòng, chống dịch; sử dụng tối đa công nghệ thông tin trong tiêm chủng, bố trí cán bộ hỗ trợ sử dụng công nghệ thông tin trong việc triển khai tiêm chủng. Triển khai ứng dụng Sổ sức khỏe điện tử để quản lý quá trình tiêm chủng của từng người dân.
(4) Tính đến ngày 04/11/2021, cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vắc xin và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vắc xin. Tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin là 81,2% và tỷ lệ tiêm đủ 02 liều vắc xin là 37,34% dân số từ 18 tuổi trở lên; vào ngày cao điểm cả nước tiêm được trên 2 triệu liều vắc xin/ngày. Có 13 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%; có 11 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ đủ 02 mũi vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 50%. Riêng các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã tiêm được 94,1% mũi 1 và 48,7% mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên. Đối với trẻ em từ 12 - 17 tuổi, đã tiêm được hơn 900.000 liều vắc xin Pfizer tại 12 tỉnh/thành phố (TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Đồng Nai), theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Về cơ sở thực tiễn thực hiện biện pháp cách ly y tế
Dịch COVID-19 là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới nổi lây truyền qua đường hô hấp, bệnh có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao. Nguyên tắc để kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm là cắt đứt nguồn lầy nhiễm, không để người đã nhiễm bệnh tiếp xúc với người chưa nhiễm bệnh; do đó việc cách ly, khoanh vùng những người nhiễm bệnh (F0) hoặc tiếp xúc gần là rất cần thiết, thực hiện càng sớm càng tốt nhằm ngăn chặn lây nhiễm, loại trừ tác nhân gây bệnh, cắt đứt đường lây, bùng phát dịch bệnh trong cộng đồng.
Biện pháp cách ly y tế đã được chứng minh hiệu quả trong đối phó với dịch bệnh truyền nhiễm. Trong đợt dịch COVID-19 tại Thành phố Vũ Hán (Trung Quốc), việc cách ly nghiêm ngặt đã góp phần kiểm soát được dịch trong thời gian ngắn, ngay cả khi số lượng người cách ly rất đông (khoảng 100 triệu người). Tổ chức Y tế thế giới cũng khuyến cáo thực hiện biện pháp cách ly trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm và hầu hết các nước trên thế giới đã áp dụng để phòng chống dịch COVID-19, góp phần khống chế dịch mỗi khi có đợt bùng phát dịch.
Đặc biệt với biến thể vi rút Delta nguy hiểm, lây lan nhanh gây nhiều khó khăn cho hoạt động kiểm soát dịch bệnh; biện pháp cách ly y tế càng được chú trọng, thực hiện càng sớm, càng triệt để càng tốt nhằm kiểm soát được tỷ lệ mắc, tử vong và hạn chế lây lan ra cộng đồng. Hiện nay, nhiều nước vẫn áp dụng các biện pháp cách ly, khoanh vùng, thậm chí phong tỏa toàn thành phố (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Pháp, Mỹ,... ) mỗi khi có các đợt dịch bùng phát.
(2) Các biện pháp cách ly và hướng dẫn của Bộ Y tế
Việt Nam đã áp dụng chiến lược “Ngăn chặn - Phát hiện - Cách ly - Khoanh vùng dập dịch và Điều trị tích cực” ngay từ khi dịch COVID-19 được ghi nhận trên thế giới nhằm chủ động kiểm soát dịch ngay từ biên giới, cửa khẩu, hạn chế tối đa sự xâm nhập, lây lan của dịch và cách ly, khoanh vùng, xử lý nhanh, điều trị hiệu quả khi phát hiện những trường hợp nhiễm, nghi nhiễm SARS-CoV-2 trong nước. Chiến lược này đã được thực hiện xuyên suốt từ đầu năm 2020 đến nay và nhất quán, từ các văn bản chỉ đạo của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia.
Ngay từ giai đoạn đầu của dịch COVID-19, Bộ Y tế đã ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn cách ly y tếCâu 8: Cử tri phản ánh: Nhu cầu khám bệnh của nhân dân hiện rất lớn, trong khi đó các bệnh viện tuyến trên hầu như quá tải, do tập trung cho công tác phòng, chống và điều trị bệnh nhân nhiễm COVID-19. Vì vậy, ảnh hưởng đến việc khám, chữa bệnh cho nhân dân. Cử tri kiến nghị có giải pháp tăng cường nguồn nhân lực và cơ sở vật chất cho ngành y tế đảm bảo chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống dịch bệnh trong tình hình hiện nay (Bà Rịa Vũng Tàu)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Trong thời gian dịch COVID-19 vừa qua, công tác đảm bảo dịch vụ y tế vẫn thông suốt vừa đáp ứng công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân vừa đảm bảo công tác thu dung và điều trị bệnh nhân COVID-19. Bộ Y tế ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo hướng dẫn các bệnh viện, phòng khám chủ động ứng phó với COVID-19, tránh để COVID-19 xâm nhập vào bệnh viện nhờ đó tránh tối đa tình huống bệnh viện, phòng khám bị phong tỏa để bảo đảm hoạt động khám chữa bệnh được luôn thông suốt và an toànCâu 9: Cử tri kiến nghị Chính phủ, Bộ Y tế nghiên cứu, đầu tư xây dựng Bệnh viện ung bướu khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, đặt tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Vì đây là địa phương có nhiều điều kiện đảm bảo cho việc xây dựng Bệnh viện khu vực, đồng thời thuận lợi cho bệnh nhân bị ung thư thuộc các tỉnh khu vực Miền Trung - Tây Nguyên trong việc khám chữa bệnh (Bình Định)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Theo Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Bộ Y tế đã đề nghị và được Quốc hội thông qua, trong đó có Dự án đầu tư cải tạo nâng cấp Bệnh viện Phong và Da liễu Quy Hòa thành Bệnh viện đa khoa khu vực Nam Trung Bộ với tổng mức đầu tư là 750 tỷ đồng quy mô 800 giường bệnh, hiện tại Bộ Y tế đang thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư để khởi công dự án trong năm 2022.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về tiếp tục chỉ đạo quyết liệt công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19
Tổ chức Y tế Thế giới và các nhà khoa học, các quốc gia nhận định dịch COVID-19 chưa thể kiểm soát được trong năm 2021-2022, có thể xuất hiện các chủng mới nguy hiểm hơn làm cho dịch diễn biến phức tạp khó lường, số ca nhiễm vẫn có thể tăng nhanh ngay cả khi đã tiêm vắc xin nếu không tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch. Mặt khác, việc phòng, chống dịch bằng giãn cách xã hội kéo dài làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là đời sống, tâm lý người dân, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội. Vắc xin làm giảm tỷ lệ mắc và giảm ca nặng nên khi đạt độ bao phủ vắc xin không nhất thiết phải giãn cách kéo dài trên diện rộng và không có nguy cơ gây quá tải hệ thống y tế. Do vậy, đã có nhiều quốc gia thay đổi quan điểm ứng phó dịch bệnh từ cố gắng dập tắt dứt điểm sang sống chung an toàn với dịch bệnh.
Đối với Việt Nam, một số kinh nghiệm bước đầu được đúc kết từ thực tiễn phòng chống dịch; năng lực ứng phó của hệ thống y tế ngày một nâng lên; chiến lược vắc xin đã phát huy hiệu quả giúp chúng ta chủ động hơn trong việc chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch. Thời gian tới tiếp tục triển khai các nội dung trọng tâm sau:
(1) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng; huy động cả hệ thống chính trị, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm tốt hơn nữa công tác dự báo; phát huy trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở; đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra, giám sát và phát huy tính tự chủ, linh hoạt, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương và doanh nghiệp.
(2) Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19 để tạo điều kiện thuận lợi thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 4800/QĐ-BYT ngày 12/10/2021 ban hành Hướng dẫn tạm thời về chuyên môn y tế “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
(3) Đẩy nhanh Chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 toàn quốc, thực hiện tiêm mũi tăng cường và triển khai kế hoạch tiêm vắc xin cho trẻ em thận trọng, an toàn, khoa học. Hướng tới tỷ lệ vắc xin bao phủ dân số trên 18 tuổi đạt 100% trong quý 4/2021 và đầu năm 2022. Từ Quý 4 năm 2021, Bộ Y tế tiếp tục triển khai tiêm cho trẻ em từ 12 đến 17 tuổi theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương với mục tiêu 100% trẻ trong độ tuổi này được tiêm đủ số mũi cơ bản; mở rộng tiêm cho trẻ em thuộc các nhóm tuổi khác có chỉ định sử dụng vắc xin, đảm bảo toàn bộ người dân bình đẳng, công bằng trong tiếp cận vắc xin phòng COVID-19.
(4) Tập trung đầu tư, từng bước hiện đại hóa, nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là y tế dự phòng, y tế cơ sở. Bảo đảm an ninh y tế, chú trọng thúc đẩy nghiên cứu y sinh học, phát triển công nghiệp dược, vắc xin, sinh phẩm, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế để chủ động trong phòng, chống dịch, kể cả đối với các loại dịch bệnh nguy hiểm, mới nổi.
Tiếp tục nhập khẩu vắc xin về thúc đẩy sản xuất vắc xin trong nước để từng bước chủ động nguồn cung, đáp ứng nhu cầu năm 2022 và các năm tiếp theo; khuyến khích huy động nguồn lực địa phương, doanh nghiệp để mua vắc xin.
Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho phòng, chống dịch, thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công tư; tiếp tục đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho hệ thống y tế đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch; có chính sách đặc thù, đãi ngộ đối với lực lượng y tế, lực lượng tuyến đầu có nhiều đóng góp, hy sinh.
(5) Thực hiện việc kết nối, xác thực và liên thông các cơ sở dữ liệu trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư. Đảm bảo an toàn, an ninh đối với các ứng dụng và cơ sở dữ liệu phục vụ phòng, chống dịch.
2. Xử lý nghiêm những vi phạm của tổ chức, cá nhân trong công tác phòng, chống dịch
Công tác thanh tra, kiểm tra về phòng, chống dịch thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành và của Ủy ban nhân dân các cấp. Thời gian vừa qua, Bộ Y tế đã phối hợp cùng các Bộ, ngành triển khai quyết liệt kiểm tra về công tác phòng, chống dịch COVID-19, cụ thể:
(1) Ban hành các văn bản chỉ đạo tăng cường kiểm tra, thanh traCâu 11: Kiến nghị nghiên cứu trình sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế theo hướng học sinh được mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình để hộ gia đình được hưởng mức giảm trừ nhiều hơn (Nghệ An)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 13 Luật Bảo hiểm y tế hiện hành, đối tượng học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế được xác định theo thứ tự quy định tại điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng bảo hiểm y tế. Học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế theo Nhóm đối tượng 4 sẽ không tham gia bảo hiểm y tế ở nhóm 5 là nhóm Hộ gia đình.
Bộ Y tế đang xây dựng Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, dự kiến trình Quốc hội vào kì họp thứ 4, tháng 10 năm 2022 và thông qua Luật Bảo hiểm y tế vào kì họp thứ 5, tháng 5 năm 2023.
Và Câu 13: Cử tri và Nhân dân rất lo lắng trước tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước và trên thế giới vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp, số lượng ca mắc mới và tử vong vẫn tăng ở nhiều nước. Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành đảm bảo tiến độ sản xuất Vaccine trong nước và làm chủ Vaccine; mặt khác, đảm bảo đủ số lượng Vaccine đã ký kết hợp tác với các nước để đạt được mục tiêu tiêm chủng cho 70% đối tượng từ 18 tuổi trở lên (Sóc Trăng, Bà Rịa Vũng Tàu)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về việc đảm bảo tiến độ sản xuất vắc xin trong nước và làm chủ vắc xin
(1) Về nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia và Bộ Y tế luôn nhất quán quan điểm ủng hộ tối đa, tạo mọi điều kiện thuận lợi và thúc đẩy việc nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước, nhưng đảm bảo tuân thủ các quy trình về chuyên môn, bám sát cơ sở khoa học. Đến nay, Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực đã chủ động nghiên cứu vắc xin và có 3 vắc xin đang được thử nghiệm lâm sàng và là nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3Câu 14: Cử tri kiến nghị tiếp tục có cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực thỏa đáng cho công tác nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, tổ chức sản xuất vắc xin vì thuốc điều trị bệnh nhân mắc Covid-19 trong nước để Việt Nam sớm có thể chủ động trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 (Yên Bái, Hải Phòng)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực thỏa đáng cho công tác nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, tổ chức sản xuất vắc xin
(1) Sử dụng ngân sách Nhà nước, Quỹ vắc xin phòng chống COVID-19 Việt Nam (sau đây viết tắt là Quỹ vắc xin) và các nguồn hợp pháp để hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin, bao gồm cả việc mua bảo hiểm cho người tham gia thử nghiệm lâm sàng, thực hiện thử nghiệm lâm sàng ở nước ngoài và chấp nhận rủi ro đối với phần kinh phí mà ngân sách Nhà nước, Quỹ vắc xin đã hỗ trợ nếu nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin không thành công.
Áp dụng mức và thời hạn ưu đãi đặc biệt theo quy định pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về đất đai; thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư cần thiết về hệ thống kết cấu hạ tầng, tín dụng, khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ đối với các dự án nghiên cứu, sản xuất hoặc chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin. Có cơ chế, chính sách để tập hợp, thu hút các nhà khoa học; động viên, khen thưởng phù hợp, kịp thời để các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia, đóng góp cho việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin.
(2) Bộ Y tế đã quan tâm đẩy mạnh cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng, chống dịch và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như: Việt Nam là 1 trong 4 nước đầu tiên trên thế giới phân lập được vi rút; nghiên cứu, sản xuất sinh phẩm chẩn đoán, một số trang thiết bị y tế; đảm bảo được trang thiết bị phòng hộ phòng, chống dịch COVID-19... về nghiên cứu, sản xuất vắc xin, hiện nay có 02 vắc xin đang nghiên cứu để sản xuất trong nước (Nanocovax, Covivax) và phối hợp chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin từ các nước như Anh, Nhật, Đức, Tây Ban Nha, Nga, Cu Ba.... Các vắc xin sản xuất trong nước (bao gồm cả vắc xin gia công, chuyển giao công nghệ) chưa có đủ dữ liệu lâm sàng và chưa đánh giá hiệu quả bảo vệ của vắc xin theo quy định. Riêng vắc xin Nanocovax, Bộ Y tế đã triển khai tham vấn các tổ chức trong và ngoài nước, xây dựng hướng dẫn đánh giá kết quả giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả của vắc xin phòng COVID-19 sản xuất trong nước, làm việc với Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học quốc gia và Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc để có căn cứ xem xét và cấp phép lưu hành. Tập đoàn VinGroup đã đàm phán với Nhà sản xuất Hoa Kỳ về điều kiện chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin COVID-19 từ tinh chất mRNA. Công ty TNHH MTV vắc xin và Sinh phẩm số 1 (VABIOTECH) đã ký thỏa thuận với Quỹ đầu tư trực tiếp của Liên bang Nga về việc đóng ống vắc xin Sputnik-V.
Thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với Bộ Ngoại giao bám sát, đôn đốc các nhà sản xuất, cung ứng, nhất là đối với các hợp đồng đã được ký kết để đây nhanh tiến độ bàn giao vắc xin về Việt Nam nhanh nhất, sớm nhất; hỗ trợ tích cực công tác nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước để sớm chủ động nguồn vắc xin; thông qua đó tăng lượng vắc xin sẵn có, tạo điều kiện cho mọi người dân được tiêm chủng đầy đủ để kiểm soát tốt dịch bệnh. Tiếp tục trao đổi, đàm phán để tiếp cận các nguồn vắc xin COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng.
2. Về tổ chức sản xuất thuốc điều trị bệnh nhân mắc COVID-19
(1) Ngay từ khi dịch bệnh bùng phát, Bộ Y tế đã chủ động đưa ra các hướng dẫn điều trị và triển khai các giải pháp đảm bảo nguồn cung cho các thuốc điều trị COVID-19. Do vậy nhu cầu về thuốc điều trị đã đáp ứng đủ và kịp thời trong cả 4 giai đoạn dịch bệnh vừa qua.
(2) Thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ, Bộ Y tế đã tập trung nguồn lực, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, qua đó rút ngắn thời gian cấp đăng ký lưu hành lưu hành, giấy phép nhập khẩu thuốc điều trị COVID-19.
(3) Bộ Y tế đã chỉ đạo, thúc đẩy, tạo điều kiện cho việc sản xuất thuốc điều trị COVID-19 tại Việt Nam (đến nay Viện Hóa sinh biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tổng hợp được hoạt chất Molnupiravir quy mô pilot, đang tiếp tục nghiên cứu sản xuất với quy mô lớn hơn); tăng cường trao đổi hợp tác, chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc điều trị COVID-19 với một số quốc gia...góp phần đảm bảo nguồn cung thuốc điều trị cho chống dịch.
(4) Thời gian gần đây, có một số liệu pháp mới, hiệu quả vượt trội trong điều trị bệnh nhân COVID-19 như sử dụng các thuốc kháng virus (Remdesivir, Favipiravir, Molnupiravir), các kháng thể đơn dòng. Bộ Y tế đã tiếp cận để nhập khẩu thành phẩm, nhập khẩu nguyên liệu để nghiên cứu và sản xuất, kịp thời phục vụ điều trịCâu 15: Cử tri kiến nghị tiếp tục tăng cường, tập trung các nguồn lực, có biện pháp kịp thời, quyết liệt để sớm kiểm soát tình hình dịch Covid 19 trên cả nước. Đẩy nhanh tiến độ tiêm vaccine COVID-19, trong đó cần quản lý, công khai và minh bạch trong việc phân phối vaccine COVID-19, tạo sự bình đẳng trong việc tiếp cận vaccine COVID-19; sớm tiếp cận các nguồn vaccine COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng; chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, thử nghiệm để sớm đưa vaccine do Việt Nam nghiên cứu vào sử dụng, nhằm chủ động nguồn vaccine phòng COVID-19. Đồng thời, cử tri kiến nghị cần quan tâm, chủ động đầu tư, xây dựng các bệnh viện các tuyến đảm bảo tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân. Chú trọng bảo vệ sức khỏe cho đội ngũ y tế và các lực lượng tham gia phòng chống dịch, nhất là ở các tỉnh phía Nam hiện nay. Có các chế độ, chính sách đối với lực lượng tham gia phòng chống dịch (Bình Định)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về tăng cường, tập trung các nguồn lực, có biện pháp kịp thời, quyết liệt để sớm kiểm soát tình hình dịch COVID-19 trên cả nước
1.1. Về tăng cường, tập trung các nguồn lực phòng, chống dịch COVID-19
a. Về huy động nguồn nhân lực
(1) Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho công tác phòng, chống dịch. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng, lấy mẫu xét nghiệm cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và sẵn sàng hỗ trợ phòng, chống dịch. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia vào chiến dịch
(2) Trong đợt dịch lần thứ 4 xảy ra tập trung tại các tỉnh phía Nam, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng huy động, điều động một lực lượng lớn nhân lực của y tế, quân đội, công an với gần 300.000 lượt cán bộ của Trung ương và 34 địa phương hỗ trợ cho TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các địa phương khác đang có dịch. Ngành Y tế đã huy động gần 20.000 cán bộ, lực lượng quân đội huy động hơn 133.000 cán bộ, lực lượng công an huy động hơn 126.000 cán bộ, chiến sỹ hỗ trợ, tham gia phòng chống dịch tại TP. Hồ Chí Minh và các địa phương; huy động lực lượng y tế trung ương và 12 tỉnh, thành phố hỗ trợ công tác phòng chống dịch TP. Hà Nội... lực lượng quân y đã hỗ trợ và triển khai 531 trạm y tế lưu động tại TP. Hồ Chí Minh... Các lực lượng hỗ trợ đã cùng với lực lượng tại chỗ phối hợp chặt chẽ, triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch.
b. Về cung ứng trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm, thuốc điều trị COVID-19
Để chủ động nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm phục vụ khám chữa bệnh và phòng chống dịch COVID-19, Bộ Y tế đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản bảo đảm nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm, cụ thể: (1)Tổng hợp, rà soát đánh giá và khảo sát nhu cầu trong nước; đề nghị các đơn vị sản xuất, nhập khẩu, cung ứng trang thiết bị y tế; chủ động tìm kiếm nguồn hàng, chuẩn bị nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh đảm bảo cung ứng trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 năm 2022; (2) Thúc đẩy sản xuất trong nước, đề nghị các doanh nghiệp chủ động, nhanh chóng tìm kiếm các nguồn hàng có chất lượng, có khả năng cung ứng để kịp thời tiếp cận đưa các sản phẩm về thị trường Việt Nam theo hướng tiếp cận với các nhà sản xuất có uy tín từ Châu Âu, Mỹ và thực hiện theo hình thức chuyển giao công nghệ, gia công để rút ngắn quá trình sản xuất và tiến tới làm chủ công nghệ sản xuất tại Việt Nam, đặc biệt ưu tiên mặt hàng phòng chống dịch COVID-19: các sản phẩm test xét nghiệm SARS-CoV-2, máy thở, máy oxy dòng cao
File gốc của Công văn 9157/BYT-VPB1 năm 2021 về công tác y tế phòng chống Covid-19 do Bộ Y tế ban hành đang được cập nhật.
Công văn 9157/BYT-VPB1 năm 2021 về công tác y tế phòng chống Covid-19 do Bộ Y tế ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Y tế |
Số hiệu | 9157/BYT-VPB1 |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Nguyễn Thanh Long |
Ngày ban hành | 2021-10-27 |
Ngày hiệu lực | 2021-10-27 |
Lĩnh vực | Bảo hiểm |
Tình trạng | Còn hiệu lực |