TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 751/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ lý số 271/2017/HNST ngày 23/52017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2017/QĐST-HNGĐ ngày 25/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 151/2017/QĐST-HNGĐ ngày 11/9/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1986 (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Buôn A, xã B, huyện C, tỉnh Đăk Lăk
- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc K, sinh năm 1986 (vắng mặt)
Địa chỉ: 487/47A/41D đường X, khu phố Y, phường Z, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chủ tọa công bố tóm tắt nội dung vụ án và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như sau:
Trong đơn K kiện đề ngày 24/4/2017, cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:
Bà T và ông Nguyễn Ngọc K tự nguyện kết hôn năm 2007, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do ông K không có trách nhiệm, không chịu làm ăn, suốt ngày ăn nhậu, bà khuyên bảo cạn lời ông K vẫn không thay đổi. Từ năm 2009 đến nay ông K bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, bỏ mặc bà một mình nuôi con nhỏ bị khuyết tật bẩm sinh không thăm nom chăm sóc hay phụ giúp cấp dưỡng tiền bạc cho bà nuôi con. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục, thời gian ly thân kéo dài nếu duy trì mối quan hệ vợ chồng chỉ là sự ràng buộc về mặt pháp lý nên bà T xin được ly hôn với ông K để giải phóng cho nhau và yên tâm ổn định cuộc sống.
Về con chung: Quá trình chung sống có 01 con chung họ tên: Nguyễn Ngọc C, sinh ngày 06/3/2008. Bà T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Bà T xác nhận không có.
- Về nợ chung, nợ riêng: Bà T xác nhận không có.
Về phía bị đơn ông Nguyễn Ngọc K, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Quận 7 nhiều lần triệu tập hợp lệ ông K theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông K vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như hòa giải theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghe chủ tọa công bố tóm tắt nội dung vụ án và nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án;
Sau khi nghe kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 phát biểu quan điểm; Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án, nhận thấy:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thì đơn khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.
[2] Xét trong quá trình tòa thụ lý giải quyết, ngày 28/8/2017, bà T nộp Đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Phía ông K đã được Tòa án tiến hành triệu tập và tống đạt hợp lệ các Thông báo thụ lý, Thông báo về phiên hòa giải, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn ông K vẫn liên tục vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi.
Căn cứ khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì ông K đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa tham gia tố tụng nên ông K phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, lấy yêu cầu khởi kiện và các chứng cứ do phía nguyên đơn xuất trình để xem xét giải quyết và Tòa án xét xử vắng mặt ông K là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; điểm a, điểm b, khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung khởi kiện:
[4] Về quan hệ hôn nhân:
Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 117, quyển số 01/2007 ngày 27/8/2007 tại Ủy ban nhân dân phường Tân Thuận Tây, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Hội đồng xét xử khẳng định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Ngọc K là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Xét mối quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông K tuy được xây dựng trên cơ sở tự nguyện nhưng do ông K không thể hiện được vai trò trụ cột trong gia đình ngay từ khi bắt đầu chung sống, thể hiện qua việc không có trách nhiệm với bản thân, với gia đình khi không chịu làm ăn mà luôn nhậu nhẹt, khi được bà T góp ý không thay đổi mà bỏ đi nơi khác sống bỏ mặc bà T một mình nuôi con bị khuyết tật gần 10 năm nay. Từ những nguyên nhân này đã làm cho mâu thuẫn không thể khắc phục bởi cách sống vô trách nhiệm của ông K với vợ con. Xét thấy, nếu tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông K chỉ là sự ràng buộc về mặt pháp lý, bởi hôn nhân thực tế không còn tồn tại, không đem lại hạnh phúc đích thực cho nhau. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.
[5] - Về con chung: Bà T và ông K có 01 con chung họ tên: Nguyễn Ngọc C, sinh ngày 06/3/2008.
Xét: Từ khi ông K bỏ đi nơi khác sống, bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, bà T có nguyện vọng được nuôi con chung không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con. Xét, để đảm bảo sự phát triển toàn diện về mặt tâm sinh lý của trẻ nên cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp.
[6] - Về tài sản chung: Bà T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] - Về nợ chung, nợ riêng: Bà T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xét.
[8] - Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 91; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 và điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, Điềuu 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014;
Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Về hình thức:
Xử vắng mặt: nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và bị đơn ông Nguyễn Ngọc K.
Về nội dung: Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc K.
2. Về con chung: Bà T xác nhận có 01 con chung họ tên là Nguyễn Ngọc C, sinh ngày 06/3/2008.
Giao bà nguyễn Thị T là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con
Ông K có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Bà T xác nhận không có.
4. Về nợ chung, nợ riêng: Bà T xác nhận không có.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số /2012/07863 ngày 23 tháng 5 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ.
6. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Bà T, ông K
có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
File gốc của Bản án 751/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về tranh chấp ly hôn – Tòa án nhân dân Quận 7 – Hồ Chí Minh đang được cập nhật.
Bản án 751/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về tranh chấp ly hôn – Tòa án nhân dân Quận 7 – Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh |
Số hiệu | 751/2017/HNGĐ-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2017-09-28 |
Ngày hiệu lực | 2017-09-28 |
Lĩnh vực | Hôn Nhân Gia Đình |
Tình trạng | Còn hiệu lực |