THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 61-TTg | Hà Nội, ngày 17 tháng 2 năm 1961 |
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Kính gửi: | - Ông Chủ nhiệm Văn phòng cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương, |
Thông tư này nhằm giải thích các nghị định số 19/CP, số 20/CP của Hội đồng Chính phủ đã ban hành ngày 29 tháng 6 năm 1960 và Nghị định số 24/CP ngày 13-2-1951 bổ sung một số điểm vào 2 nghị định nói trên về chính sách đối với việc cho thuê nhà của tư nhân ở các thành phố và thị xã.
I- SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ THỐNG NHẤT NHÀ CHO THUÊ Ở CÁC THÀNH PHỐ VÀ THỊ XÃ
Ở Miền Bắc nước ta, dưới chế độ cũ, nhà cửa cho thuê là một công cụ bóc lột của giai cấp bóc lột, đối với quần chúng lao động. Chủ có nhiều nhà cho thuê phần đông là những nhà tư sản công thương nghiệp, là những địa chủ, quan lại, sĩ quan nguỵ cũ, là những viên chức cũ được bọn thống trị ưu đãi. Cũng có một số chủ có nhiều nhà cho thuê không thuộc thành phần bóc lột, nhưng hầu hết những nhà họ có đều do nguồn gốc bóc lột của ông cha để lại hoặc do mua rẻ trong những lúc tình hình rối ren mà có. Chủ có nhiều nhà cho thuê nhờ dịa vị kinh tế của mình, ngoài việc chiếm hữu diện tích ở rộng rãi, đầy đủ tiện nghi, lại đã lợi dụng tình trạng khan hiếm nhà thường xuyên và nghiêm trọng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, để tìm mọi thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động bằng cách đầu cơ, tăng giá tiền thuê không có hạn độ, đuổi nhà, câu kết với bọn mối lái trung gian ăn hoa hồng bắt người thuê đặt tiền cọc trước, bắt lễ lạt, biếu xén, giỗ tết, làm công không, hoặc cho thuê cả những gầm cầu thang, buồng để đồ đạc và những chỗ ẩm thấp, thiếu ánh sáng, thiếu không khí, v.v... Hiện nay nhiều nhà cho thuê đã quá cũ kỹ, nhưng chủ có nhà cho thuê chỉ lấy tiền mà không sửa chữa, do đó, nhà càng hư hỏng, luôn luôn đe doạ an toàn những người ở trong nhà.
Với hình thức cho thuê, chủ nhà đã bòn rút và tước đoạt của nhân dân lao động một phần thu nhập quan trọng. Khi tính tiền cho thuê, chủ nhà đã đổ lên đầu người thuê mọi thứ tiền tu sửa, khấu hao, tiền thuê đất, lợi nhuận và mọi khoản chi phí khác. Trong quá trình cho thuê, họ đã thu hết và có khi thu gấp 2, 3 lần số vốn bỏ ra. Từ ngày hoà bình lập lại, chính quyền ta đã có một số biện pháp để quản lý nhà trong các thành phố và thị xã, và đã thu được một số kết quả. Tuy chủ nhà không dám công khai đối xử tàn tệ với người đi thuê như trước, nhưng họ vẫn tiếp tục đầu cơ, tăng giá nhà, lấy tiền đặt cọc, cấu kết với bọn trung gian v.v... nhất là tìm mọi cách trốn tránh việc thi hành chính sách như bán chạy nhà, chia gia tài, kéo bà con đến ở lấy tiền thuê ngầm để trốn thuế, v.v...
Những biện pháp của cơ quan Nhà nước đã áp dụng trong thời gian trước đây còn nhiều thiết sót, đến nay lại càng không phù hợp với yêu cầu của tình hình, đòi hỏi phải tích cực cải tạo quan hệ thuê mượn nhà cửa, xoá bỏ bóc lột và cải thiện đời sống nhân dân lao động.
II- NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH THỐNG NHẤT QUẢN LÝ ĐỐI VỚI NHÀ CHO THUÊ CỦA TƯ NHÂN
Giải quyết nhà cửa là một vấn đề nằm trong toàn bộ nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ cũ chỉ thoả mãn nhu cầu của một số ít người, chế độ ta phải thoả mãn yêu cầu ngày một tăng của tuyệt đại đa số người của nhân dân lao động. Trong tình hình của ta hiện nay, nhiệm vụ đó đề ra rất cấp thiết.
Trong các nghị định của Hội đồng Chính phủ lần này chưa phải giải quyết toàn bộ vấn đề nhà cửa, mà chủ yếu là đề ra những chính sách và chủ trương thống nhất quản lý đối với nhà cho thuê của những chủ nhà có nhiều nhà cho thuê.
Mặc dầu phương thức bóc lột về nhà cửa là phương thức bóc lột lạc hậu hơn so với công nghiệp tư bản và một phần nào còn mang cái tính chất bóc lột phong kiến, nhưng trong tình hình của ta, chủ trương của Đảng và Chính phủ đối với chủ có nhiều nhà cho thuê cũng áp dụng chính sách hoà bình cải tạo như đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh. Tinh thần của chính sách là phải xoá bỏ bóc lột về nhà cửa, nhưng đối với người có nhiều nhà cho thuê thì cũng có sự chiếu cố về nhiều mặt cũng như đối với các nhà tư bản công thương nghiệp.
Nội dung cơ bản của chính sách là chuyển chế độ tư hữu về nhà cửa cho thuê của tư nhân qua chế độ công hữu về nhà cửa của toàn dân. Nhà nước thay mặt nhân dân đứng ra quản lý, sử dụng và phân phối nhà ở. Sau khi chuyển nhà cho Nhà nước quản lý, sử dụng và phân phối, người có nhiều nhà cho thuê chỉ còn được hưởng một khoản tiền dưới hình thức trích tiền thuê nhà, trả cho chủ nhà một tỷ lệ cố định mà không kiểm kê định giá và trả lãi như trong cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh.
Yêu cầu cụ thể là:
Hạn chế đi đến xoá bỏ bóc lột về nhà cửa, sử dụng hợp lý nhà cửa sẵn có, nâng cao chất lượng nhà cửa nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh và cải thiện đời sống nhân dân lao động đi thuê nhà, cải tạo người tư sản, biến họ thành người lao động và sống nhờ lao động chứ không phải sống bám vào sự bóc lột bằng cho thuê nhà.
Xuất phát từ những nội dung cơ bản của chính sách nói trên, nghị định của Hội đồng Chính phủ có quy định những chính sách cụ thể dưới đây:
1. Đối tượng quản lý:
Trong nghị định bổ sung lần này có quy định những đối tượng phải giao nhà cho Nhà nước quản lý là những người có nhà cho thuê thuộc thành phần tư sản, phú nông, những địa chủ, những người có diện tích cho thuê khoảng từ 120 thước vuông đến 150 thước vuông trở lên hoặc thu khoảng từ 1.000 đồng trở lên trong một năm.
Tinh thần các điểm ấy còn nói rõ như sau:
- Tất cả những người thuộc thành phần tư sản và phú nông có bao nhiêu diện tích nhà cho thuê đều phải chuyển tất cả cho Nhà nước quản lý và sử dụng.
Tất cả những người bị quy là địa chủ trong cải cách ruộng đất, dù có bao nhiêu diện tích nhà cho thuê đều phải giao cho Nhà nước quản lý và sử dụng. Đối với con người địa chủ ta vẫn đối đãi với họ như chính sách của Đảng và Chính phủ đối với địa chủ, nhưng phần nhà cửa cho thuê của họ thì giải quyết như nhà cửa cho thuê của tư sản, không đặt vấn đề tịch thu, trưng thu, trưng mua. Riêng đối với nhà cửa cho thuê của địa chủ cường hào gian ác thì tiếp tục thi hành các bản án của Toà án đối với tài sản của chúng.
- Về diện tích tính vào khởi điểm quản lý chỉ tính những nhà gạch hoặc có giá trị tương đương với nhà gạch trở lên như nhà tôn có tường gạch, nhà gỗ lợp ngói v.v... Diện tích tính khởi điểm là tính diện tích chủ nhà đã cho thuê (cả nhà chính và nhà phụ). Nếu chủ nhà có nhà gạch hoặc nhà có giá trị tương đương với nhà gạch đủ khởi điểm quản lý thì những nhà khác của họ đang cho thuê (nhà vách đất, nứa lá v.v...) cũng đều phải giao cho Nhà nước quản lý. Diện tích tính khởi điểm là diện tích hiện nay chủ nhà đang cho thuê, kể cả diện tích trước đây không cho thuê nhưng gần đây do nhu cầu của cơ quan, đoàn thể v.v... mà vừa mới cho thuê.
Trong nghị định lần này có nâng mức khởi điểm của ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng và các thành thị khác lên bằng nội thành Hà Nội, Hải Phòng là để phù hợp với tình hình thực tế ở các nơi ấy. Tuy nhiên, những nơi đã tiến hành xong theo tinh thần Nghị định số 19/CP thì nay cũng không cần phải sửa lại vì trước tính 100 thước vuông là chỉ tính diện tích nhà chính cho thuê, nay nếu tính cả diện tích phụ cho thuê cũng xấp xỉ với khởi điểm mới.
Khoảng cách từ 120 thước vuông đến 150 thước vuông là để các địa phương có thể xem xét, cân nhắc tuỳ đối tượng cụ thể mà quyết định, tránh được những trường hợp không cần dựa vào đối tượng hoặc tránh để sót, những đối tượng xét cần phải giao nhà cho Nhà nước quản lý.
- Về tiền cho thuê để tính vào khởi điểm, đây là tính tiền thuê bình quân trong 3 năm (1957-1958-1959) chưa trừ thuế nhưng không tính gộp các thu nhập khác vào.
- Đối với những chủ nhà già yếu mất sức lao động, mà nếu giao nhà cho Nhà nước, thu nhập còn lại không đủ sống thì có thể được tạm hoãn giao nhà cho Nhà nước quản lý mà chỉ cần họ phải thi hành chính sách sửa chữa nhà và chính sách giá cả như đối với những người có ít nhà cho thuê.
- Đối với những chủ nhà thuộc thành phần bóc lột đi thuê nhà để ở, đồng thời lại có nhà cho thuê, thì trong khi quản lý ta chiếu cố để lại cho họ ở một diện tích bình quân bằng bình quân để lại cho các tư sản khác không phải trả tiền thuê, phần còn lại sẽ tính tỷ lệ tiền thuê cố định trả cho họ.
- Khi giao nhà cho Nhà nước chủ có nhà cần làm các thủ tục kê khai và Uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh ra quyết định công nhận.
2. Về mức tiền thuê cố định và diện tích để lại cho chủ ở:
Điều 3 Nghị định số 19/CP quy đinh: "chủ nhà được hưởng từ 15 đến 50% tiền thuê nhà..." và "được giữ lại một diện tích để ở không quá 200 thước vuông, trừ trường hợp đặc biệt". Tinh thần của điều lệ này là:
- Chủ nhà sau khi giao nhà cho Nhà nước, Nhà nước chiểu theo tinh thần chính sách mà tính tiền cho thuê nhà trả cho chủ một số tiền cố định bằng từ 15 đến 50% giá tiền thuê nhà theo giá Nhà nước quy định. Tỷ lệ tiền thuê cố định để lại cho chủ nhà nhiều hay ít là căn cứ vào chất lượng và công dụng của nhà cửa hiện nay, đồng thời có chiếu cố những người có ít diện tích cho thuê mà thu nhập thấp và hạn chế những người có nhiều diện tích cho thuê và thu nhập quá cao. Nếu chưa có giá quy định, thì trong khi chờ đợi Uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh có thể căn cứ vào giá cho thuê nhà của Nhà nước hiện nay ở địa phương mà ấn định một giá tạm thời. Sau khi có giá chính thức sẽ điều chỉnh theo giá mới, nếu chủ nhà đã lĩnh quá cũng không phải hoàn lại, và nếu lĩnh kém hơn cũng không được bù thêm. Nhưng chủ nhà vì các lý do khác nhau mà không muốn nhận tỷ lệ tiền thuê nhà nói trên, thì tiền đó sẽ gửi vào Ngân hàng.
- Về diện tích để lại cho chủ ở, thì cần gấp rút nghiên cứu quy định tiêu chuẩn thống nhất cho các thành phần trong xã hội. Hiện nay nói chung chủ nhà đều ở quá rộng, cần phải thu hẹp lại cho hợp lý. Mức 200 thước vuông quy định trong Điều 3 của Nghị định số 19/CP là mức tối đa dành cho những gia đình đông con cháu đã có vợ, chồng nhưng vẫn còn ở chung một nhà. Mức để lại cụ thể cho từng gia đình cần phải xem xét thận trọng và do Uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh quyết định. Riêng đối với một số người làm công tác nghiên cứu khoa học, văn hoá, những nhân sĩ yêu nước và một số nhà tư sản tiêu biểu, thì có thể chiếu cố rộng rãi hơn.
- Đối với những diện tích mà chủ nhà hiện ở quá rộng phải rút bớt ra thì cơ quan phụ trách nhà cửa sẽ phân phối cho các cơ quan, các đoàn thể và nhân dân lao động thiếu nhà. Cần phải dành một phần quan trọng để sử dụng vào các lợi ích công cộng của nhân dân lao động như vườn trẻ, nhà ăn, lớp học, bệnh viện, nhà đẻ v.v... và để phân phối cho những người lao động đang không có nhà hay đang phải chui rúc trong các gầm cầu, lô cốt và những nơi rất chật hẹp. Đối với diện tích rút bớt ra này Nhà nước cũng tính tiền thuê cố định trả cho chủ nhà như các diện tích khác đã cho thuê.
3. Tiếp quản và sửa chữa nhà cửa (Nghị định bổ sung).
Tinh thần của Nghị định bổ sung là: trước khi tiếp quản nhà cửa, cơ quan có trách nhiệm cần xác định và phân loại các nhà cửa. Đối với nhà bỏ trống lấy ra thì cũng định tỷ lệ tiền thuê cố định. nhưng thấp hơn so với tỷ lệ định cho các nhà khác.
Đối với nhà hư nát quá không bảo đảm an toàn cho người ở và còn có thể gây nguy hiểm cho những người ở chung quanh thì ra lệnh cho chủ nhà phải phá đi.
Trước khi chuyển giao nhà cho Nhà nước quản lý thì chủ có nhà cho thuê phải có trách nhiệm tu sửa nhà cửa. Nếu chủ nhà không còn khả năng để sửa chữa thì Nhà nước tự đứng ra sửa chữa và mọi chi phí về sửa chữa sẽ trừ dần vào tiền cố định trả cho chủ.
- Đối với những nhà còn tương đối tốt nhưng vì lợi ích công cộng phải phá đi thì chủ nhà vẫn tiếp tục được hưởng tiền thuê cố định từ 2 đến 3 năm.
Nếu sau này nhà nào hư hỏng, không còn giá trị sử dụng, Nhà nước phải phá đi, thì chủ nhà không được hưởng tỷ lệ tiền thuê cố định nữa. Trong khi phá bỏ thì lấy tiền bán nguyên vật liệu cũ để trả công phá, nếu còn thừa có thể trích một phần trả cho chủ.
Vốn huy động ở chủ nhà là nhằm để tu sửa nhà. Những chủ nhà lâu nay đã làm tròn trách nhiệm về tu sửa thì tiền bỏ thêm ra để tiếp tục tu bổ nhà sau này hoặc làm thêm nhà mới sẽ được hưởng lãi định mức khoảng từ 3 đền 5%. Lãi đó cơ quan quản lý nhà trả thường kỳ cho chủ nhà.
Đối với những chủ nhà là tư sản công thương nghiệp, nếu đã bỏ vốn do tích luỹ tiền thuê nhà vào hợp doanh rồi thì nay phải bỏ thêm số tiền cho thuê mà họ thu được từ sau ngày công tư hợp doanh vào việc sửa chữa nhà.
Tuỳ tình hình cụ thể mà các địa phương giải quyết việc chủ nhà bỏ vốn cho hợp tình, hợp lý, không truy ép nhưng cũng không bỏ qua những số tiền rõ ràng do tích luỹ bằng cho thuê nhà cửa mà có.
4. Đối với nhà vắng chủ (Điều 4 trong Nghị định).
Về nguyên tắc, tất cả nhà vắng chủ đều do Nhà nước quản lý, không giao cho một tư nhân nào quản lý dù trước đây họ đã có giấy chứng nhận hợp pháp của chính quyền ta.
Những người quản lý không có giấy tờ hợp pháp và những người quản lý thuộc thành phần bóc lột thì ngoài việc giao nhà vắng chủ ấy lại cho Nhà nước quản lý còn phải trả số tiền cho thuê nhà thu được từ ngày mình quản lý đến nay sau khi đã trừ thuế, tiền sửa chữa và các chi phí về quản lý khác. Những người có khả năng thì phải thanh toán ngay. Những người không có khả năng trả ngay thì tuỳ theo hoàn cảnh của từng người mà quy định phải trả dần trong một thời gian nhất định khoảng từ 1 đến 2, 3 năm. Uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh xét tuỳ trường hợp cụ thể có thể hoãn trả hoặc miễn, giảm.
Đối với người quản lý là bố mẹ đẻ, vợ chồng chính thức, con đẻ, nếu lâu nay vẫn thu tiền nhà hoặc có giấy uỷ quyền của người chủ mà tự nguyện xin quản lý nhà vắn chủ ấy thì chính quyền địa phương xét và cho được hưởng mọi quyền lợi và làm mọi nhiệm vụ như người chủ nhà.
Đối với những người quản lý nhà vắng chủ, nếu lâu này vẫn sống nhờ vào tiền thuê nhà và không có nguồn sống nào khác, khi giao nhà cho Nhà nước quản lý nếu gặp khó khăn thì cần tìm cách sắp xếp công việc làm cho họ.
Đối với người quản lý nhà vắng chủ để ở thì nay cũng phải trả tiền thuê. Nếu diện tích họ ở quá rộng thì nên để lại cho họ ở với diện tích phải chăng, còn bao nhiêu Nhà nước phân phối cho người khác thuê. Từ nay trở đi không còn tư nhân nào quản lý nhà vắng chủ nữa.
5. Đối với chủ nhà cho thuê dưới diện cải tạo: (theo Nghị định số 20/CP ngày 29-6-1960).
Mục đích cuối cùng đi đến xoá bỏ chế độ cho thuê nhà của tư nhân, nhưng từ nay đến đó, cần phải nghiên cứu một chính sách thích hợp đối với loại chủ nhà này. Trước mắt, Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ các mặt sau đây:
- Về giá cả cho thuê do Nhà nước quy định;
- Cho thuê nhà phải có hợp đồng thuê mượn và phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà, đất địa phương.
- Hàng tháng chủ nhà phải trích một phần tiền thuê nhà gửi vào Ngân hàng làm quỹ tu sửa và phải có trách nhiệm tu sửa nhà kịp thời. Nếu nhà hư nát mà chủ nhà không có khả năng tu sửa hoặc Nhà nước đứng ra tu sửa và sau trừ dần vào tiền thuê nhà hoặc nếu nhà quá hư nát thì sau khi sửa chữa, người đứng ra sửa chữa được quản lý sử dụng nhà và chỉ trả cho chủ một khoản bồi thường về xác nhà cũ.
- Khi cần thiết vì ích lợi chung, Nhà nước có thể điều chỉnh, phân phối diện tích cho thuê đó, hoặc Nhà nước có thể dỡ đi và có bồi thường thích đáng.
- Chủ nhà nào nếu để lại ở một diện tích quá rộng thì Nhà nước cũng có rút bớt diện tích thừa ấy mà phân phối cho người khác thuê.
6. Đối với nhà cửa cho thuê của các Hội, của các tôn giáo và ngoại kiều:
Tuy trong nghị định không nói rõ, nhưng giải quyết theo tinh thần sau đây:
a) Đối với nhà của các Hội Việt Nam và của các Hội ngoại kiều:
- Nhà cửa Hội nào mà pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không thừa nhận thì do Nhà nước quản lý và sử dụng.
- Nhà của Hội nào không có người quản lý hợp pháp thì Nhà nước đứng ra quản lý, nhà của Hội nào lâu nay Nhà nước đã quản lý thì nay Nhà nước tiếp tục quản lý và sử dụng.
- Đối với Hội nào có nhà cho thuê theo lối tư bản chủ nghĩa, thì nên vận động họ tự nguyện xin giao cho Nhà nước quản lý việc cho thuê. Nhà nước trích một phần tiền cho thuê trả cho Hội.
b) Đối với nhà cho thuê thuộc quyền sở hữu của các tôn giáo:
- Những nhà cho thuê dưới khởi điểm quản lý thì chủ có nhà được tự kinh doanh dưới sự quản lý kiểm soát của Nhà nước.
- Những nhà cho thê trên khởi điểm quản lý thì coi như là trong diện mà Nhà nước quản lý, sử dụng, nhưng không đặt vấn đề học tập với chủ có nhà cho thuê.
Trong khi thi hành cần nghiên cứu kỹ hơn để làm tốt về kinh tế và chính trị. Chú ý về mặt chính trị.
c) Đối với nhà của ngoại kiều:
- Đối với kiều dân của các nước xã hội chủ nghĩa thì áp dụng chính sách như đối với người Việt Nam.
- Kiều dân các nước khác: Nhà nào vắng chủ do Nhà nước quản lý:
+ Nhà nào cho thuê phải tuân theo pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
d) Đối với nhà của các Chính phủ các nước:
- Nhà để dùng cho các cơ quan: sứ quán. Lãnh sự, Thương vụ v.v... mà Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thừa nhận, thì Nhà nước bảo vệ tôn trọng.
- Nhà vắng chủ của ngoại kiều thì Nhà nước quản lý và sử dụng.
Việc tiến hành thống nhất quản lý nhà cửa cần làm theo phương châm nhẹ nhàng, nhanh gọn, tốt, đảm bảo yêu cầu về kinh tế và chính trị, không nên tổ chức việc học tập kéo dài hoặc quần chúng đấu tranh không cần thiết.
Thông tư này nhằm giải thích những điểm đã có trong các nghị định và những điểm bổ sung. Trong khi tiến hành cải tạo nếu có những điểm khác thuộc về chính sách cụ thể thì Uỷ ban hành chính khu, thành phố, tỉnh cần báo cáo để Hội đồng Chính phủ ra quyết định bổ sung.
| Phạm Hùng (Đã ký) |
File gốc của Thông tư 61-TTg năm 1961 giải thích chính sách quản lý thống nhất nhà cho thuê ở các thành phố và thị xã do Thủ tướng Chính phủ ban hành đang được cập nhật.
Thông tư 61-TTg năm 1961 giải thích chính sách quản lý thống nhất nhà cho thuê ở các thành phố và thị xã do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Số hiệu | 61-TTg |
Loại văn bản | Thông tư |
Người ký | Phạm Hùng |
Ngày ban hành | 1961-02-17 |
Ngày hiệu lực | 1961-03-04 |
Lĩnh vực | Bất động sản |
Tình trạng | Đã hủy |