CHÍNH PHỦ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 362/BC-CP | Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2012 |
VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI
Kính gửi: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
trong đó có việc tăng cường công tác xử phạt vi phạm hành chính. Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTVT như sau:
- Nghị định số 33/2011/NĐ-CP ngày 16/5/2011 và Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP.
trong lĩnh vực giao thông vận tải đường sắt.
- Nghị định số 60/2011/NĐ-CP ngày 20/7/2011 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
ngày 19/10/2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 09/2005/NĐ-CP và Nghị định số 44/2006/NĐ-CP.
- Nghị định số 137/2004/NĐ-CP ngày 21/6/2004 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
hợp pháp, có tính răn đe đối với người vi phạm, nhiều nội dung đã được quy định cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, với diễn biến ngày càng phức tạp của tai nạn giao thông, thái độ chống đối người thi hành công vụ, tốc độ gia tăng nhanh của phương tiện nên một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính đã bộc lộ hạn chế, không còn phù hợp, mức chế tài xử phạt còn thấp đối với một số hành vi vi phạm nguy hiểm; việc phân định thẩm quyền xử phạt, xử lý vi phạm hành chính còn chồng chéo, thiếu rõ ràng làm giảm hiệu quả xử lý vi phạm hành chính.
Trong những năm qua, đặc biệt từ cuối năm 2010 đến nay, các Bộ, UBND đã có nhiều hoạt động cụ thể triển khai thực hiện công tác này thông qua hàng loạt các biện pháp mang tính vĩ mô và vi mô. Nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định, Chương trình, Kế hoạch có liên quan đến công tác này đã được các cấp từ trung ương đến địa phương ban hành; hình thức tuyên truyền, phổ biến đa dạng, phong phú được triển khai để phù hợp với từng điều kiện, đối tượng cụ thể; công tác tuyên truyền, phổ biến cũng hướng đến nhiều đối tượng như cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên; người sử dụng lao động, người lao động trong các doanh nghiệp và người tham gia giao thông...
về trật tự an toàn giao thông nhiều nơi còn mang tính hình thức, thiếu chuyên nghiệp, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng được tuyên truyền nên hiệu quả còn hạn chế; công tác giáo dục an toàn giao thông, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, học sinh các cấp học chưa đạt kết quả như mong đợi, chưa hình thành được văn hóa giao thông, đạo đức giao thông trong cộng đồng xã hội.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI
a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường bộ, các loại vi phạm phổ biến
- Các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ: phần lớn vi phạm là hành vi điều khiển xe không có giấy phép lái xe hoặc có giấy phép lái xe nhưng không phù hợp.
trường hợp vi phạm).
- Các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ: chủ yếu là các hành vi lấn chiếm, xây dựng, sử dụng trái phép hành lang an toàn giao thông đường bộ, san lấp, mở đường nhánh đấu nối trái phép vào đường chính, thi công công trình trong phạm vi đất dành cho đường bộ không có giấy phép thi công, không đảm bảo các điều kiện an toàn khi thi công trên đường bộ đang khai thác, vi phạm quy định về tải trọng cầu, đường bộ (trong năm 2011 Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN đã phát hiện xử lý hơn 5.000 trường hợp vi phạm); lấn chiếm lòng đường, vỉa hè làm nơi bày bán hàng hóa, trông giữ phương tiện trái phép (hành vi này phổ biến ở các thành phố lớn, riêng Hà Nội trong năm 2011 và 2 tháng đầu năm 2012 đã phát hiện và xử lý hơn 20.000 trường hợp vi phạm).
- Tình trạng tụ tập, gây rối trật tự công cộng, đi mô tô, xe máy tốc độ cao, lạng lách và đua xe trái phép diễn ra nhiều tại một số đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Những năm trước đây, đua xe trái phép có tổ chức, có quy mô, nhưng những năm gần đây, đua xe thường diễn ra tự phát, một nhóm 5 - 7 xe rú ga, có nhóm tụ tập đến hàng trăm xe dàn hàng ngang, lạng lách, đánh võng và các xe khác đua theo, gây mất trật tự an toàn giao thông nhất là những ngày diễn ra các sự kiện thể thao, bóng đá có đội tuyển Việt Nam tham gia. Lực lượng công an đã triển khai nhiều phương án chốt chặn và đã bắt giữ hàng nghìn trường hợp vi phạm, lập hồ sơ thông báo về phường, xã để giáo dục, quản lý, khởi tố một số trường hợp gây rối trật tự công cộng và đua xe trái phép.
trong những năm gần đây diễn biến hết sức phức tạp, đã xảy ra 56 vụ làm 18 đồng chí cảnh sát bị thương, đã bắt 63 đối tượng giao cho cơ quan điều tra xử lý. Riêng Hà Nội xảy ra 27 vụ (chiếm 48,2% trong tổng số vụ xảy ra trên toàn quốc), trong đó có 02 vụ cố ý gây thương tích.
Ủy ban ATGTQG, năm 2011, tai nạn giao thông đường bộ chiếm 98,2% về số vụ, 96% số người chết, 98,8% số người bị thương hàng năm trên cả nước, ngoài ra hàng năm còn gây thiệt hại về phương tiện, tài sản, hàng hóa hàng ngàn tỷ đồng.
quốc lộ do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông lớn, nhiều tuyến đường độc đạo, không có đường tránh nên khi xảy ra tai nạn giao thông hoặc sự cố trên đường giao thông không có phương tiện cứu hộ (đối với các phương tiện vận tải lớn) hoặc phương tiện cứu hộ không đến được địa điểm cứu hộ; ý thức chấp hành của người tham gia giao thông kém, người tham gia giao thông hoạt động theo nguyên tắc "dòng nước chảy" khi xảy ra ùn ứ giao thông, các xe đua nhau chen lấn, ken vào các chỗ hở, không nhường đường, thậm chí đi lên cả vỉa hè... làm cho tình hình ùn tắc càng trở nên phức tạp.
Số liệu thống kê vi phạm hành chính vẫn ngày càng gia tăng tỷ lệ thuận với tốc độ gia tăng của phương tiện và người tham gia giao thông. Với tốc độ gia tăng phương tiện giao thông ngày càng nhanh, lực lượng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn hạn chế thì việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính là rất cần thiết, hỗ trợ hiệu quả cho công tác tác này để vừa bảo đảm tính chính xác, kịp thời, cải cách thủ tục hành chính, vừa bảo đảm tính công khai, minh bạch.
hóa đang thực hiện lắp đặt thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô theo lộ trình. Việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình là hình thức hỗ trợ hiệu quả cho lực lượng tuần tra, kiểm soát về an toàn giao thông trong việc kiểm soát, xử lý các hành vi vi phạm của người lái xe như chạy quá tốc độ, quá thời gian quy định (Luật Giao thông đường bộ quy định thời gian làm việc của người lái xe ô tô không được quá 10 giờ trong một ngày và không được lái xe liên tục quá 4 giờ).
Đối với ngành công an, trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ đã tập trung sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông, trong đó các hành vi vi phạm là nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông được phát hiện qua máy đo tốc độ, camera giám sát, máy ảnh, cân trọng tải, máy đo nồng độ cồn... Bộ Công an chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ có kế hoạch phối hợp với cơ quan đăng kiểm, sử dụng các thiết bị chuyên ngành để kiểm tra, xử lý chuyên đề xe vi phạm quy định về tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; đối với các trường hợp vi phạm khi phát hiện đã đình chỉ và xử lý nghiêm, yêu cầu khắc phục, bảo đảm an toàn mới tiếp tục lưu hành. Đã tổ chức triển khai Dự án thí điểm xây dựng Hệ thống giám sát trật tự an toàn giao thông tuyến QL 1A đoạn Pháp Vân - Ninh Bình, triển khai đồng bộ từ lắp đặt hệ thống camera, máy đo tốc độ trên tuyến, truyền hình ảnh phương tiện vi phạm về Trung tâm chỉ huy để giám sát, trích xuất hình ảnh phương tiện vi phạm và dừng phương tiện để kiểm soát, xử lý. Từ năm 2009- 2011 đã lập biên bản xử lý 28.324 trường hợp, ra quyết định xử phạt và nộp Kho bạc nhà nước trên 14,855 tỷ đồng, tước quyền sử dụng GPLX 411 trường hợp, tạm giữ 25 phương tiện. Phân tích trong 24.297 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông thì chạy quá tốc độ 14.360 trường hợp (59%), phần đường, làn đường 9.189 trường hợp (37,8%), không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông 748 trường hợp (3,2%).
hóa. Khi áp dụng thành công hệ thống giám sát và sử dụng các thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ sẽ làm thay đổi căn bản phương thức hoạt động tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông và việc bố trí cán bộ, chiến sỹ làm nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát giao thông, góp phần xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời tác động mạnh vào ý thức tự giác của người tham gia giao thông, nhất là người lái xe ô tô, góp phần tạo chuyển biến tốt tình hình trật tự an toàn giao thông, kiềm chế, làm giảm tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.
c) Tổ chức thực hiện
+ Chủ tịch UBND các cấp.
+ Thanh tra đường bộ.
kết hợp hóa trang giám sát và xử lý công khai, sử dụng thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (máy đo tốc độ, camera). Trong hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính, Bộ Công an đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương mở các đợt hoạt động cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; đã huy động lực lượng, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ tập trung chỉ huy thực hiện trong phạm vi toàn quốc, chọn một tuyến hoặc đoạn tuyến quốc lộ trọng điểm hay một địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; mở các chiến dịch tổng kiểm tra phương tiện giao thông hoặc tập trung kiểm tra một loại phương tiện như ô tô khách hoặc xe tải, mô tô... Trong hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử phạt vi phạm hành chính thì lực lượng Cảnh sát giao thông đóng vai trò chính, tuy nhiên, do biên chế thiếu, không đủ quán xuyến được địa bàn nên Bộ Công an đã chỉ đạo các địa phương huy động lực lượng cảnh sát khác như cảnh sát cơ động, Công an xã theo quy định tại Nghi định số 27/2010/NĐ-CP.
Nhờ đó, hiệu quả của công tác tuần tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý vi phạm của các lực lượng chức năng trong thời gian qua đã được cải thiện, không ngừng nâng cao và đạt được một số kết quả đáng khích lệ, đặc biệt trong hơn 3 năm gần đây, sự nỗ lực của lực lượng kiểm tra, xử phạt đã góp phần đáng kể trong việc đạt được mục tiêu kiềm chế và kéo giảm TNGT.
trong lĩnh vực hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Xử phạt hành vi vi phạm về kỹ thuật hạ tầng giao thông đô thị, quản lý lòng đường, vỉa hè đô thị là trách nhiệm của Thanh tra xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng, Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27/2/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng. Do đó, thành phố Hồ Chí Minh phải thành lập Tổ kiểm tra liên ngành giữa Thanh tra xây dựng và Thanh tra GTVT (Quyết định số 5912/QĐ-UBND ngày 28/12/2010) để giải quyết bất cập này.
Ủy ban nhân dân các cấp.
- Trước ngày 01/6/2009 (thời điểm Nghị định 31/2009/NĐ-CP ngày 01/4/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu có hiệu lực):
- Từ ngày 01/6/2009 đến 01/7/2011 (ngày Luật Thanh tra 2010 có hiệu lực):
+ Nếu mức phạt vượt quá 500.000 đ, các Đội Thanh tra đường bộ sẽ Fax Biên bản VPHC về Ban để Ban Thanh tra đường bộ xác định tính pháp lý của Biên bản VPHC được lập đồng thời Ban dự thảo Quyết định xử phạt VPHC trong máy vi tính và Mail về Thanh tra Tổng cục.
ngày 01/4/2009 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu: mỗi tổ chức được khắc tối đa hai con dấu) nhưng ký Quyết định XPVPHC vẫn phải là cấp có thẩm quyền: Phó, Chánh Thanh tra Tổng cục.
cấp GPLX để phối hợp thực hiện.
thời điểm Luật Thanh tra 2010 có hiệu lực): Thực hiện nội dung Công điện 26/BGTVT-CĐ ngày 01/7/2011 của Bộ Giao thông vận tải. Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN chỉ đạo các thanh tra viên của các Đội Thanh tra đường bộ thuộc các Ban Thanh tra đường bộ khu vực khi phát hiện các hành vi vi phạm đối với lĩnh vực GTVT đường bộ kịp thời chuyển hồ sơ vi phạm cho Thanh tra các Sở GTVT hoặc chính quyền địa phương để cấp có thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
+ Tổng cục Đường bộ VN chỉ đạo Thanh tra Tổng cục (có chỉ đạo cụ thể bằng văn bản tới các Ban, Đội Thanh tra đường bộ khu vực) phải thường xuyên phối hợp chính quyền địa phương, các lực lượng khác trong nhiệm vụ thực hiện việc xử phạt theo thẩm quyền; lập kế hoạch, cử các thành viên vào Ban An toàn giao thông của địa phương; thực hiện công tác xử lý người điều khiển phương tiện vi phạm tại Trạm cân xe Dầu Giây (Đồng Nai) luôn có các lực lượng tham gia phối hợp (Công an, Quân đội và Thanh tra Sở GTVT Đồng Nai hoạt động trên cơ sở xây dựng quy chế tạm thời hoạt động giữa các lực lượng được ký giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Đồng Nai).
cụ thể như: bảo vệ công trình đường bộ và hành lang an toàn giao thông đường bộ; bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên các tuyến quốc lộ... Hai Tổng cục đã thống nhất triển khai Quy chế phối hợp 137/QC-LN từ Tổng cục đến địa phương; thành lập Ban chỉ đạo các cấp: cấp Tổng cục (trung ương) cấp Sở (địa phương) thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo điều hành hoạt động phối hợp công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn, tuyến đường quản lý. Theo kết quả đánh giá bước đầu việc thực hiện quy chế phối hợp giữa hai lực lượng đạt kết quả tốt, mang lại yếu tố tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ.
ủy nội địa
ủy nội địa, các loại vi phạm phổ biến
ủy hết hạn đăng kiểm lần đầu nhưng không đến kiểm định theo quy định (chiếm trên 70%).
trên đường thủy nội địa tuy đã được lực lượng Cảnh sát đường thủy, Thanh tra giao thông đường thủy phối hợp với lực lượng chức năng và chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý và chấn chỉnh nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để và vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, gây tác hại khó lường: làm lệch dòng chảy, sạt lở đê điều, nhà ở hai bên sông, gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; làm thất thu các khoản thuế, lệ phí; nghiêm trọng hơn là gây mất an toàn đối với người dân sinh sống dọc ven đường thủy và hoạt động của người và phương tiện tham gia giao thông trên đường thủy nội địa.
ủy sản không đúng với quy định, làm cản trở hoạt động giao thông vận tải đường thủy nội địa; sử dụng chất nổ, xung điện để đánh bắt thủy sản trên các tuyến giao thông đường thủy tiếp tục diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương.
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa:
UBND các cấp.
+ Thanh tra giao thông đường thủy nội địa.
ủy nội địa.
+ Cảnh sát biển.
ủy và Thanh tra GTVT. Trên đường thủy nội địa, không chỉ có hoạt động giao thông vận tải mà còn có nhiều hoạt động liên quan đến trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp, các ngành chức năng như Tài nguyên và Môi trường, Thủy sản, Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quốc phòng... song hoạt động tuần tra, kiểm soát của lực lượng Cảnh sát đường thủy còn đơn điệu, chưa thực sự chủ động phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, đồng bộ với các lực lượng chức năng để có biện pháp thống nhất giải quyết các tình hình phức tạp liên quan đến trật tự an toàn giao thông. Lực lượng Cảnh sát đường thủy có chức năng phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên đường thủy nhưng chưa thực sự chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng trên địa bàn như Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Quản lý thị trường, Thuế vụ, Kiểm lâm, Kiểm ngư... Cùng với những khó khăn, bất cập mang tính chủ quan của lực lượng công an, còn có những khó khăn, bất cập mang tính khách quan đã và đang tác động đến hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm như chưa có bến bãi tạm giữ phương tiện hoặc bến bãi tập kết hàng hóa khi hạ tải nên lực lượng có thẩm quyền không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà thực tế chỉ "phạt cho tồn tại" dẫn đến hiệu quả xử lý vi phạm hành chính để giáo dục, răn đe rất thấp.
trường hợp vi phạm thuộc thẩm quyền của Thanh tra viên thì việc xử phạt được Thanh tra viên thực hiện, ghi biên lai do Kho bạc nhà nước ủy quyền; trường hợp vượt thẩm quyền của Thanh tra viên thì Thanh tra viên báo cáo cấp thẩm quyền và thực hiện theo chỉ đạo. Sau khi Luật Thanh tra có hiệu lực, lực lượng Thanh tra Cục Đường thủy nội địa thực hiện công tác thanh, kiểm tra, khi xử phạt thì lập hồ sơ chuyển Thanh tra Sở GTVT địa phương thực hiện xử phạt.
phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong quản lý, xử phạt
ủy nội địa còn phối hợp với Cảnh sát đường thủy, Đăng kiểm và chính quyền địa phương thực hiện thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm; phát hiện vi phạm thuộc thẩm quyền của lực lượng nào thì lực lượng đó lập biên bản, ra quyết định xử phạt;
a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường sắt, các vi phạm phổ biến
Các loại vi phạm phổ biến là: vi phạm về kết cấu hạ tầng đường sắt; vi phạm về tín hiệu, quy tắc giao thông đường sắt và bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường sắt; vi phạm có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn giao thông vận tải đường sắt; vi phạm về phương tiện giao thông đường sắt; vi phạm quy định đối với nhân viên đường sắt; vi phạm về kinh doanh đường sắt.
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường sắt:
+ Lực lượng công an.
- Thực tế từ khi triển khai thực hiện xử phạt VPHC đến nay việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực đường sắt hầu hết chỉ do Thanh tra Cục Đường sắt thực hiện, việc xử phạt của lực lượng cảnh sát và chính quyền địa phương trong lĩnh vực đường sắt là rất ít.
a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không, các vi phạm phổ biến
trong lĩnh vực hàng không dân dụng đã xảy ra mà đối tượng vi phạm là nhân viên hàng không, hành khách đi tàu bay, người dân xung quanh cảng hàng không, sân bay, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ hàng không và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phi hàng không tại cảng hàng không, sân bay. Các hành vi vi phạm phổ biến trong thời gian gần đây như: hành vi gây mất trật tự, kỷ luật trong tàu bay; mở cửa thoát hiểm trên tàu bay trái quy định; cung cấp thông tin sai về việc có bom, mìn...; sử dụng thiết bị an toàn trên tàu bay khi không được phép; hút thuốc ở trên tàu bay hoặc những nơi không được phép; sử dụng các loại thiết bị điện tử, thiết bị thu phát sóng trên tàu bay khi không được phép; nhân viên hàng không không thực hiện đúng quy trình theo quy định... mà nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của một số người chưa cao, sự tò mò của một số hành khách khi đi tàu bay, một số nhân viên hàng không còn sai sót trong khi thực hiện nhiệm vụ,...
b) Tổ chức thực hiện
+ Chủ tịch UBND các cấp.
+ Thanh tra hàng không.
- Trước ngày 01/7/2011, việc xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo trình tự, thủ tục trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Nhưng kể từ ngày 01/7/2011 (ngày Luật thanh tra 2010 có hiệu lực), Chánh Thanh tra hàng không và Thanh tra viên hàng không không có quyền xử phạt vi phạm hành chính nên các vụ việc do Cục Hàng không VN phát hiện và các vụ việc vượt quá thẩm quyền của Cảng vụ hàng không phải chuyển cho Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải hoặc Chính quyền địa phương, cơ quan công an xử phạt.
Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, các vi phạm phổ biến
đăng ký, đăng kiểm, kiểm định phương tiện, thiết bị giao thông vận tải; hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải:
+ Lực lượng công an.
+ Giám đốc Cảng vụ hàng hải.
Tương tự như đối với Thanh tra Cục Hàng không, căn cứ ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải và Quyết định số 336/QĐ- BGTVT ngày 17/2/2012, hiện nay, Thanh tra Cục Hàng hải tiếp tục hoạt động trên cơ sở Luật Thanh tra, các văn bản hướng dẫn thi hành và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
trong lĩnh vực GTVT trong thời gian 3 năm (2009-2011) của các lực lượng có thẩm quyền được nêu tại Phụ lục (kèm theo công văn này).
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông chưa duy trì thường xuyên, liên tục, chưa phù hợp với đặc điểm từng loại đối tượng, địa bàn, chưa đến được cơ sở; người dân chưa nhận thức được việc chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông vừa là trách nhiệm, đồng thời là quyền lợi thiết thực của mình, nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân, gia đình và lợi ích chung của toàn xã hội.
Lực lượng tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
- Một số cán bộ, chiến sỹ làm nhiệm vụ trực tiếp trình độ, năng lực hạn chế, ngại va chạm, xử lý chưa nghiêm, chưa triệt để đối với các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, một số cán bộ, chiến sỹ trong khi thi hành nhiệm vụ còn tiêu cực, vi phạm quy trình, chế độ công tác; thái độ, lễ tiết, tác phong chưa đúng mực làm ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng và hiệu lực thực thi pháp luật.
trường hợp được phản hồi. Thiếu sự phối hợp là nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả không mong muốn này.
- Nhiệm vụ chính của Thanh tra viên trước đây khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính là lập biên bản và ra quyết định xử phạt theo thẩm quyền hoặc trình Chánh Thanh tra Cục ra quyết định xử phạt, hiện nay là lập biên bản về vi phạm pháp luật hành chính và kiến nghị hình thức, biện pháp xử phạt để gửi Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải hoặc Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính xem xét, quyết định. Tuy nhiên, việc lập biên bản đối với hành vi vi phạm hành chính cũng không thực hiện được do tổ chức Thanh tra Tổng cục, Cục đã không còn được hoạt động theo Luật Thanh tra.
thời gian chờ đợi xử lý, gây khó khăn cho đối tượng bị xử phạt và không bảo đảm tính kịp thời, nhanh nhạy của nền hành chính hiện đại vì xử lý vụ việc vi phạm pháp luật hành chính phải qua quá nhiều tầng nấc trung gian.
quyết định xử phạt đã hết; công trình vi phạm đã đưa vào sử dụng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả về công tác xử lý VPHC, giảm tính răn đe thuyết phục đối với các đối tượng vi phạm.
trường hợp có Thanh tra Sở GTVT chỉ tiếp nhận những hồ sơ khi biên bản VPHC lập phải đảm bảo biện pháp chế tài có tạm giữ các giấy tờ liên quan có giá trị pháp lý hoặc tang vật khác nhằm buộc tổ chức, cá nhân phải đến để chấp hành quyết định xử phạt VPHC. Nếu chuyển biên bản VPHC không đáp ứng yêu cầu trên thì Thanh tra Sở không tiếp nhận hồ sơ để xử lý. Đây là một vấn đề vướng mắc, vì hầu hết các trường hợp vi phạm hành lang an toàn đường bộ (xây dựng nhà cửa, lều quán, san lấp mặt bằng...) đều không tạm giữ được các giấy tờ có liên quan.
Ngày 12/07/2011, Thanh tra Chính phủ có công văn số 1839/TTCP-PC hướng dẫn thi hành hoạt động Thanh tra chuyên ngành, trong đó có quy định "việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các Tổng cục được chuyển về cho Thanh tra Bộ xử lý...”. Như vậy, theo nội dung hướng dẫn trên thì Thanh tra Sở không thụ lý hồ sơ xử lý vi phạm do lực lượng Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN chuyển đến.
quy định các thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC (Điều 7: trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thi hành) và Nghi định số 11/2010/ND-CP, ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (Điều 41: trách nhiệm của UBND huyện) thì UBND các cấp đều có thẩm quyền xử lý trong lĩnh vực nêu trên; do đó đề nghị các Đội Thanh tra đường bộ làm thủ tục (văn bản đề nghị) gửi UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế.
ủy nội địa quốc gia thì Luật Giao thông đường bộ, Luật Đường sắt và Luật Giao thông đường thủy nội địa giao Bộ Giao thông vận tải quản lý (không phải địa phương) vì vậy chuyển hồ sơ vi phạm hành chính cho Sở thì họ không nhiệt tình giải quyết, xử lý các trường hợp đó vì Sở không quản lý những đường này.
+ Từ trước đến nay việc tổ chức cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính rất khó thực hiện, nhất là vi phạm của cá nhân, tổ chức đối với hành lang an toàn đường bộ. Nguyên nhân chính là theo quy định pháp luật hiện hành, thẩm quyền cưỡng chế để tháo dỡ các công trình vi phạm trong hành lang an toàn đường bộ thuộc về chính quyền địa phương. Như vậy việc chuyển hồ sơ vi phạm cho chính quyền địa phương thụ lý và xử lý tiếp thực sự là một công việc khó khăn, còn việc cưỡng chế giải tỏa có thể coi là một việc khó có thể thực hiện được. Đồng thời khi tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính không tạm giữ được những giấy tờ cần thiết để buộc đối tượng vi phạm phải nộp phạt. Việc tổ chức cưỡng chế tháo dỡ tốn kém, phức tạp vì liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị. Như vậy việc giữ gìn hành lang an toàn đường bộ vẫn là bài toán nan giải cho các đơn vị quản lý đường bộ.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của địa phương về xử lý vi phạm hành chính.
hóa nói chung, hàng hóa là thực phẩm tươi sống nói riêng, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông hàng không và hàng hải làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và giao lưu thương mại quốc tế.
- Thẩm quyền xử phạt cao nhất của Giám đốc Cảng vụ hàng không, hàng hải, đường thủy nội địa quá thấp (10.000.000 đồng), trong khi hành vi vi phạm trong lĩnh vực này thường gây thiệt hại quá lớn đối với xã hội. Do đó, đa số các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này thường phải chuyển lên Chánh Thanh tra Bộ hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, kéo dài thời gian ra quyết định xử phạt, gây khó khăn cho đối tượng bị xử phạt vì theo nguyên tắc phân định thẩm quyền trong xử phạt vi phạm hành chính thì mức phạt tiền trên 10.000.000 đồng không thuộc thẩm quyền xử phạt của Giám đốc Cảng vụ.
thời gian đi lại do phương tiện giao thông không thuận lợi hoặc cách trở về địa lý. Tại mỗi cảng có một Đại diện Cảng vụ. Nếu không giao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho Đại diện Cảng vụ thì mọi hành vi vi phạm hành chính tại cảng đó đều phải gửi đến Giám đốc Cảng vụ để ra quyết định xử phạt, do đó, việc xử phạt vi phạm hành chính tại các cảng thường bị kéo dài, gây khó khăn cho đối tượng bị xử phạt và người thực hiện là không phạt được (do hành khách đã lên máy bay để đi về nước khác...).
- Quy định về trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính của người chỉ huy tàu bay không phù hợp với thực tế hoạt động hàng không dân dụng vì nếu thực hiện có thể gây uy hiếp an toàn, an ninh cho chuyến bay và ảnh hưởng đến hoạt động hàng không dân dụng.
- Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự, Thanh tra giao thông là lực lượng nòng cốt, xung kích trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đã được quan tâm tăng biên chế và trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Tuy nhiên, so với yêu cầu còn thiếu, năng lực hạn chế, phương tiện, thiết bị kỹ thuật chưa đảm bảo, nhất là thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại được ứng dụng trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông còn hạn chế. Hầu hết Công an các địa phương không có máy đo nồng độ cồn, máy đo tốc độ... Phương tiện của Thanh tra giao thông chủ yếu là mô tô nhưng địa bàn quản lý rộng, không tập trung nên hạn chế việc kiểm soát, phát hiện vi phạm. Một số trường hợp đã được phát hiện, xử phạt nhưng không có điều kiện áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung kèm theo (tạm giữ phương tiện vi phạm, buộc hạ tải, cắt bỏ thành thùng xe tự ý cơi nới...) nên tính răn đe chưa cao. Ngoài ra, nhiều đối tượng chấp hành theo kiểu đối phó và chống người thi hành công vụ gây khó khăn cho công tác xử lý vi phạm
- Việc xử phạt gián tiếp thông qua thiết bị quay phim, chụp ảnh đã được lực lượng cảnh sát giao thông triển khai thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập do người vi phạm không phải là chủ phương tiện hoặc phương tiện đã chuyển quyền sở hữu nhưng chưa sang tên, đổi chủ.
- Thuật ngữ “người chứng kiến” không rõ là người chứng kiến vụ việc hay người chứng kiến lập biên bản vi phạm hành chính, do đó gây khó khăn khi áp dụng.
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Tổng cục trưởng, Cục trưởng các Cục, Chánh Thanh tra Hàng không, Chánh Thanh tra hàng hải, công chức thanh tra chuyên ngành chưa được quy định cụ thể, nên việc xử phạt vi phạm hành chính có nhiều vướng mắc, khó khăn.
- Việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại công trình giao thông và hành lang an toàn giao thông gặp rất nhiều khó khăn, đối tượng chủ yếu là người dân lao động, đi kèm với hình thức phạt bổ sung là tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc xây dựng vi phạm nên người dân thường chống đối và không chấp hành quyết định xử phạt (Ví dụ: tính từ năm 2009 đến nay, lực lượng Thanh tra giao thông Quảng Ngãi đã lập biên bản và ra quyết định xử phạt 471 trường hợp nhưng chỉ có 20 đối tượng chấp hành).
- Mức xử phạt theo thủ tục đơn giản quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính là 200.000 đồng, trong thực tế áp dụng các Nghị định của Chính phủ có rất ít trường hợp vi phạm xử phạt tại chỗ, do đó dồn vụ việc về trụ sở đơn vị và lên cấp trên, tạo áp lực quá tải cho các đơn vị và gây khó khăn cho người vi phạm, không đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
- Đầu tư, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông: đầu tư, phát triển cho hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và tốc độ tăng của phương tiện giao thông; tổ chức giao thông trên một số tuyến đường bộ chưa khoa học, còn nhiều bất cập, chủ yếu là giao thông hỗn hợp, giao cắt đồng mức gây xung đột cho dòng phương tiện; va chạm giao thông, ùn tắc giao thông, chưa tạo được môi trường giao thông thuận lợi, thông thoáng cho người tham gia giao thông.
hóa, tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế cần được khắc phục như: nội dung chương trình đào tạo cần được bổ sung, thay đổi kịp thời để đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ, ý thức đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử và kỹ năng xử lý các tình huống trên đường của đội ngũ lái xe khi tham gia giao thông. Trong quản lý đào tạo có nơi chưa thực hiện nghiêm túc nội dung, chương trình đào tạo; thời gian dạy thực hành trên đường còn ít, việc sát hạch lý thuyết chưa được giám sát công khai.
- Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông có nơi, có lúc còn chưa chặt chẽ, chủ yếu thực hiện theo chức năng nhiệm vụ được phân công hoặc trong các đợt ra quân trọng điểm về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, sau đó chùng lại và có biểu hiện phó mặc cho lực lượng Công an và giao thông vận tải.
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác xử lý vi phạm hành chính về giao thông vận tải, trong thời gian qua, Chính phủ đã và sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành thực hiện nhiều giải pháp, cụ thể:
- Trình Quốc hội và đã được Quốc hội thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính.
trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo hướng: Tăng mức xử phạt bằng tiền hoặc điều chỉnh mức phạt bằng tiền theo nhiều mức tương ứng với mỗi mức độ vi phạm của hành vi, bổ sung quy định tạm giữ phương tiện có thời hạn, tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, tạm giữ phương tiện vi phạm đối với một số hành vi vi phạm có nguy cơ cao gây tai nạn giao thông đường bộ; bổ sung quy định tịch thu xe tham gia đua xe không phân biệt chủ sở hữu, mở rộng phạm vi áp dụng thí điểm tăng mức xử phạt cao hơn đối với đô thị loại 1.
quy định của pháp luật về hoạt động vận tải và an toàn giao thông trong hoạt động vận tải.
trong lĩnh vực GTVT trong Quý I/2013.
thành phố trực thuộc Trung ương để bảo đảm không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Thanh tra xây dựng và Thanh tra GTVT.
Nghị định số 11/2010/ND-CP ngày 24/2/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo hướng làm rõ các quy định về quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và trách nhiệm của tổ chức cá nhân liên quan.
b) Đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
- Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng các công trình hạ tầng giao thông đã và đang được đầu tư xây dựng, nhất là các tuyến giao thông huyết mạch, đường vành đai, các trục giao thông hướng tâm. Tập trung đầu tư mở rộng các tuyến quốc lộ trọng yếu; mở rộng tuyến quốc lộ 1 đủ để lắp giải phân cách giữa để tổ chức giao thông một chiều và tách làn giao thông cho xe ô tô, xe mô tô; xây dựng hệ thống đường gom, xây dựng các nút giao khác mức giữa đường bộ, đường sắt
hóa XIII. Trước mắt triển khai các biện pháp hành chính nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động giao thông vận tải đường bộ, góp phần giải tỏa áp lực cho hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thực hiện rà soát, bổ sung, điều chỉnh các phương án phân luồng, tổ chức giao thông khoa học hơn, lắp đặt bổ sung, nâng cấp hệ thống biển báo, đèn tín hiệu giao thông, lắp đặt dải phân cấp tách dòng xe ô tô và xe mô tô hai bánh tại một số tuyến đường có lưu lượng giao thông cao đã phát huy được hiệu quả.
c) Công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ
d) Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe
Đề án đang triển khai thực hiện là nghiên cứu sửa đổi văn bản QPPL về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, nâng cao chất lượng đào tạo lái xe bằng việc bổ sung quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của cơ sở đào tạo, bổ sung giáo trình đào tạo lái xe ô tô và ban hành giáo trình đào tạo lái xe mô tô mới. Sửa đổi bộ câu hỏi dùng để sát hạch lái xe cơ giới đường bộ, tăng thời gian người lái xe thực hành trên đường, lắp đặt hệ thống màn hình theo dõi công khai tại phòng chờ sát hạch lý thuyết. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các kỳ sát hạch lái xe. Riêng trong lĩnh vực đường bộ, Bộ Giao thông vận tải đang triển khai thực hiện Dự án cấp, đổi Giấy phép lái xe bằng vật liệu PET từ ngày 01 tháng 07 năm 2012 nhằm hiện đại hóa công tác quản lý, chống làm giả Giấy phép lái xe.
- Bộ Công an chỉ đạo Cục Cảnh sát giao thông đường bộ-đường sắt đẩy nhanh tiến độ xây dựng và thực hiện các Dự án thuộc Đề án "Tăng cường và hiện đại hóa công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự ATGT đường bộ" theo Quyết định số 617/QĐ-TTg ngày 15 tháng 05 năm 2009 của Thủ tưởng Chính phủ, trọng tâm là xây dựng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm về trật tự ATGT trên các tuyến quốc lộ trọng điểm.
phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế huy động các nguồn vốn cho các dự án đầu tư bảo đảm trật tự ATGT, trong đó khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng hệ thống giám sát trật tự ATGT đường bộ bằng hình ảnh.
- Củng cố, tăng cường lực lượng bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông (lực lượng thanh tra, công chức thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành).
- Tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi VPHC về giao thông vận tải, đặc biệt tập trung vào các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông; bảo đảm an toàn trong hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa; đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Triển khai thiết lập mạng lưới trạm kiểm tra tải trọng xe trên toàn hệ thống quốc lộ để bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông, phòng, chống, xử lý nghiêm các hành vi chở quá tải trọng của xe, của cầu, đường bộ.
- Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 47 khoản 2 quy định thẩm quyền của Giám đốc Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, tuy nhiên không quy định thẩm quyền cho Giám đốc Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc địa phương đã gây vướng mắc cho công tác xử phạt vi phạm hành chính tại các cảng vụ đường thủy nội địa ở địa phương vì không có người có thẩm quyền xử phạt.
ủy nội địa và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giao thông đường thủy nội địa dự kiến trình Quốc hội năm 2013.
ủy nội địa, đường sắt, hàng hải, hàng không trong thời gian tới.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Như trên;
- Thủ tướng CP (để b/c);
- PTT. Nguyễn Xuân Phúc (để b/c);
- VPCP;
- Bộ GTVT;
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- UBND các tỉnh, tp trực thuộc TW;
- Lưu VT, KTN.
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Đinh La Thăng
KẾT QUẢ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH CỦA CÁC CƠ QUAN
CÓ THẨM QUYỀN TRONG 3 NĂM (2009 - 2011)
I. KẾT QUẢ XỬ PHẠT VPHC CỦA CÁC CƠ QUAN THUỘC BỘ GTVT
Năm
2009
2010
2011
2. Thanh tra đường thủy nội địa và Giám đốc Cảng vụ ĐTNĐ
Đơn vị thực hiện | 2009 | 2010 | 2011 | |||
Xử phạt (Trường hợp) | Số tiền (Nghìn đồng) | Xử phạt (Trường hợp) | Số tiền (Nghìn đồng) | Xử phạt (Trường hợp) | Số tiền (Nghìn đồng) | |
701 | 710.380 | 414 | 469.850 | 653 | 1.157.250 | |
3.450 | 844.120 | 4.130 | 2.693.900 | 5.084 | 3.125.000 | |
Cộng: | 4.151 | 1.554.500 | 4.544 | 3.163.750 | 5.734 | 4.282.250 |
- Trong năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011, lực lượng Thanh tra Đường sắt đã tiến hành xử phạt được 456 vụ, trong đó 445 vụ phạt tiền trực tiếp, thu nộp kho bạc nhà nước đúng quy định với số tiền là 204.150.000 đồng (Hai trăm linh tư triệu, một trăm năm mươi nghìn đồng) và 11 vụ phạt cảnh cáo.
+ Phạt tiền 178 vụ: thu 87.225.000 đ;
- 6 tháng đầu năm 2011:
+ Phạt cảnh cáo: 02 vụ.
- Từ năm 2009 đến hết năm 2011, những người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt 360 đối tượng có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng, trong đó:
+ Năm 2010: 146 quyết định xử phạt, với số tiền xử phạt là 398.800.000 đồng;
Ngoài ra, một số vụ vi phạm xảy ra ở cảng hàng không, sân bay đã được chuyển cho cơ quan công an và UBND xử lý theo quy định.
5. Thanh tra hàng hải và Giám đốc Cảng vụ hàng hải
- Tổng số vụ tai nạn hàng hải: 69 vụ, trong đó 26 vụ chìm đắm và mắc cạn do ảnh hưởng của cơn bão số 9.
Tổng số vụ tai nạn hàng hải: 42 vụ.
Tổng số vụ tai nạn hàng hải: 60 vụ
1. Đường bộ
Năm 2010: xử phạt 6.249.780 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 1.522.000.000 đồng; tước GPLX 200.604 trường hợp; tạm giữ 23.420 ô tô, 699.218 mô tô và 4.895 phương tiện khác.
trường hợp vi phạm, số tiền phạt 1.792.000.000 đồng; tước GPLX 275.666 trường hợp; tạm giữ 24.281 ô tô, 559.236 mô tô và 4.063 phương tiện khác.
- TNGT tính từ ít nghiêm trọng trở lên: xảy ra 38.226 vụ, làm chết 32.951 người, bị thương 27.725 người.
Cụ thể từng năm như sau:
Năm | TNGT từ ít nghiêm trọng trở lên | Va chạm giao thông | |||
| Vụ | Chết | Bị thương | Vụ | Bị thương nhẹ |
2009 | 11.798 | 11.091 | 7.654 |
|
|
2010 | 13.713 | 11.060 | 10.036 | 34.588 | 41.652 |
2011 | 12.715 | 10.800 | 9.765 | 30.489 | 37.586 |
ủy
Năm 2010: xử phạt 212.293 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 98.400.000.000 đồng; tước quyền sử dụng bằng, chứng chỉ chuyên môn 224 trường hợp; đình chỉ hoạt động phương tiện 751 trường hợp.
Tình hình tai nạn giao thông: xảy ra 566 vụ, làm chết 472 người, bị thương 69 người, cụ thể từng năm như sau:
Năm | Vụ | Chết | Bị thương |
2009 | 199 | 180 | 27 |
2010 | 196 | 146 | 17 |
2011 | 171 | 146 | 25 |
Từ năm 2009-2011, xử lý 39 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 35.400.000 đồng.
Năm
Vụ
Chết
Bị thương
2009
442
213
306
2010
482
230
298
2011
539
276
353
- Năm 2009: xử phạt 389 trường hợp vi phạm, số tiền 507.340.000 đồng.
- Năm 2011: xử phạt 557 trường hợp vi phạm, số tiền 843.620.000 đồng.
- Năm 2009: xử phạt 417 trường hợp vi phạm, số tiền 2.915.000.000 đồng.
- Năm 2011: xử phạt 389 trường hợp vi phạm, số tiền 1.930.850.000 đồng.
1. UBNDTP. HÀ NỘI
Đường bộ: Tổng số 677.725 trường hợp với 679.118 người vi phạm, cảnh cáo 42.191 trường hợp, phạt tiền 636.927 trường hợp với tổng tiền phạt 96.546.307.000 đồng, số quyết định đã thi hành 669.729 trường hợp, số quyết định chưa thi hành 9.389 trường hợp.
ương tiện (trong đó năm trước chuyển sang 2.130 phương tiện), bao gồm 630 ô tô, 22.113 mô tô, xe máy và 467 phương tiện khác (công nông, xe đạp...), trong đó tịch thu 2.772 phương tiện (2.604 mô tô, 168 phương tiện khác, đã thanh lý xong 2.176 phương tiện); trả chủ sở hữu hợp pháp 16.679 phương tiện (550 ô tô, 15.962 mô tô, 167 phương tiện khác); chuyển cơ quan điều tra 86 phương tiện (01 ô tô, 85 mô tô).
ủy nội địa: Tổng số 5.033 trường hợp, phạt tiền 1.822.495.000 đồng, tạm giữ 5 tàu hút cá.
Đường bộ: Tổng số 945.246 trường hợp (so với năm 2009 tăng 266.128 trường hợp), cảnh cáo 52 trường hợp, phạt tiền 945.194 trường hợp với tổng tiền phạt 171.712.524.000 đồng, số quyết định đã thi hành 942.856 trường hợp, số quyết định chưa thi hành 2.390 trường hợp.
hợp pháp 28.768 phương tiện (1.637 ô tô, 26.223 mô tô, 908 phương tiện khác); chuyển cơ quan điều tra 32 phương tiện (02 ô tô, 28 mô tô, 02 phương tiện khác); đang giải quyết 2.402 phương tiện.
ủy nội địa: Tổng số 4.419 trường hợp (giảm 614 trường hợp so với năm 2009), phạt tiền 3.408.435.000 đồng.
Đường bộ: Tổng số 954.386 trường hợp (so với năm 2010 tăng 9.140 trường hợp), cảnh cáo 248 trường hợp, phạt tiền 954.138 trường hợp với tổng tiền phạt 225.904.503.000 đồng, số quyết định đã thi hành 949.786 trường hợp, số quyết định chưa thi hành 4.600 trường hợp.
hợp pháp 30.551 phương tiện (2.263 ô tô, 28.009 mô tô, 279 phương tiện khác); chuyển cơ quan điều tra 290 phương tiện (31 ô tô, 252 mô tô, 07 phương tiện khác).
ủy nội địa: Tổng số 4.453 trường hợp (tăng 34 trường hợp so với năm 2010), phạt tiền 4.049.225.000 đồng. Tạm giữ 87 lượt phương tiện, thu 20 đầu nổ, 12 sên dọ và hàng trăm mét ống bơm, hút cá trái phép.
Kết quả xử lý vi phạm từ ngày 01/01/2011 đến ngày 29/2/2012 như sau:
- Xử phạt trên 1,9 triệu trường hợp (269 tỷ đồng); tạm giữ 79.000 phương tiện, tước GPLX trên 53.000 trường hợp.
- Đã gửi 83.112 thông báo vi phạm về nơi cư trú, học tập của người vi phạm.
- Xử phạt 33.611 trường hợp vi phạm (hơn 62.5 tỷ đồng); tước GPLX có thời hạn 16.641 trường hợp; đình chỉ thi công cho đến khi khắc phục xong hậu quả vi phạm đối với 02 trường hợp do quá trình thi công trên đường bộ không bảo đảm các quy định về an toàn giao thông , vệ sinh môi trường và mỹ quan đô thị.
Năm
Số TH xử phạt
Số tiền phạt
Số phương tiện tạm giữ
Tước GPLX
Số TH kiểm tra lại Luật GTĐB
Số xe tịch thu bán đấu giá
Số tiền bán đấu giá
Ô tô
Mô tô
Tổng cộng
233.387
65.370
830
19.819
4.464
1.364
888
3200
Năm 2009: Tổng số 51.464 trường hợp vi phạm, lập Biên bản VPHC 47.769 trường hợp, phạt tiền 17.430.713.000 đồng. Tước giấy phép lái xe có thời hạn 3.615, thu giữ 159 ô tô, 13.636 mô tô và 74 phương tiện khác.
trường hợp vi phạm, lập Biên bản VPHC 57.423 trường hợp, phạt tiền 18.378.801.000 đồng. Tước giấy phép lái xe có thời hạn 1.671, thu giữ 171 ô tô, 8.520 mô tô và 07 phương tiện khác.
trường hợp vi phạm, lập Biên bản VPHC 52.105 trường hợp, phạt tiền 22.900.170.000 đồng. Tước giấy phép lái xe có thời hạn 1.846, thu giữ 334 ô tô, 8.742 mô tô.
Tổng số 339.506 trường hợp vi phạm, phạt tiền 115.554 tỷ đồng. Tạm giữ 29.332 phương tiện; tước 19.691 giấy phép lái xe các loại.
Năm 2009: Lập biên bản 41.595 trường hợp, ra quyết định xử phạt 41.355 trường hợp với số tiền phạt 17.378.122.000 đồng; tạm giữ 684 ô tô, 12.430 mô tô và 31.315 giấy tờ xe các loại; tước giấy phép lái xe có thời hạn 842 trường hợp.
Năm 2011: Lập biên bản 66.744 trường hợp, ra quyết định xử phạt 66.740 trường hợp với số tiền phạt 32.982.071.000 đồng; tạm giữ 678 ô tô, 13.213 mô tô và 59.041 giấy tờ xe các loại; tước giấy phép lái xe 2.111 trường hợp.
Trong 3 năm: Xử lý 226.493 trường hợp vi phạm, tổng tiền phạt là 77.512.000.000 đồng, trong đó:
Năm 2010: Lực lượng CSGT xử phạt 78.296 trường hợp vi phạm, tổng số tiền 25.082.675.000 đồng. Lực lượng TTGT xử lý 558 trường hợp vi phạm, số tiền 411.400.000 đồng.
trường hợp vi phạm, tổng số tiền 32.449.000.000 đồng.
Trong 3 năm, lực lượng Công an đã phát hiện 1.945.414 trường hợp vi phạm, trong đó 1.886.088 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, 18.344 trường hợp vi phạm trật tự đô thị và 11.893 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa, tạm giữ 260.137 phương tiện vi phạm các loại; ra quyết định xử phạt 1.856.566 trường hợp với tổng tiền phạt 523.223.906.000 đồng; tước giấy phép lái xe 80.512 trường hợp; tịch thu sung công quỹ 14.412 phương tiện (năm 2009: 4.058 xe, năm 2010: 3.103 xe, năm 2011: 7251 xe)
trường hợp vi phạm hành lang an toàn giao thông , kiểm tra an toàn 38 bến đò ngang, các cơ sở đóng mới phương tiện thủy, đình chỉ 3 trường hợp không phép và 25 trường hợp khai thác bến thủy quá thời hạn cho phép; phát hiện xử lý 23.626 trường hợp vi phạm an toàn giao thông đường thủy và vi phạm về vận tải đường bộ, tước giấy phép lái xe có thời hạn 30 ngày 2.802 trường hợp, thời hạn 60 ngày 1.404 trường hợp, cụ thể là:
trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, 1796 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy, tổng tiền phạt 3.799 triệu đồng.
ủy, tổng tiền phạt 7.389 triệu đồng.
ủy, tổng tiền phạt 9.017 triệu đồng.
Trong 3 năm, lực lượng CSGT và TTGT đã phát hiện lập biên bản 159.106 trường hợp vi phạm, tổng tiền phạt 34.638 tỷ đồng, tạm giữ 2.722 phương tiện, tước giấy phép lái xe có thời hạn 3.579 trường hợp, trong đó:
Năm 2010: lập biên bản VPHC 34.122 trường hợp, xử phạt 8.656 tỷ đồng, tước giấy phép lái xe 1.183 trường hợp, tạm giữ 251 phương tiện.
10. UBND tỉnh Bình Thuận
Lực lượng TTGT phát hiện 3.733 vụ vi phạm, trong đó nhắc nhở 1.052 trường hợp, lập biên bản và ra quyết định xử phạt 2.695 trường hợp với số tiền phạt 4,414 tỷ đồng.
Năm 2010: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 81.995 trường hợp vi phạm, trong đó phạt cảnh cáo 430 trường hợp, ra quyết định xử phạt 72.058 trường hợp với số tiền 32.383 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 3.931 trường hợp; tạm giữ 20.129 phương tiện các loại.
Năm 2011: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 85.110 trường hợp vi phạm, trong đó phạt cảnh cáo 75 trường hợp, ra quyết định xử phạt 78.229 trường hợp với số tiền 37,97 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 3.305 trường hợp; tạm giữ 19.537 phương tiện các loại.
Lực lượng CSGT phát hiện và lập biên bản VPHC 32 trường hợp đối với phương tiện thủy hải sản, đò ngang, ca nô với số tiền phạt 28,2 triệu đồng.
11. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế
Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 56.821 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 49.828 trường hợp với số tiền 15 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 1.190 trường hợp; tạm giữ 1.678 phương tiện các loại.
với số tiền phạt 558.000 triệu đồng; tước quyền sử dụng GPLX 117 trường hợp.
ủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 205 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 205 trường hợp với số tiền 74 triệu đồng; đình chỉ hoạt động 6 trường hợp vi phạm.
Năm 2010:
Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 2.034 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.985 trường hợp với số tiền phạt 730 triệu đồng; tước quyên sử dụng GPLX 175 trường hợp.
ủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 144 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 144 trường hợp với số tiền 63,3 triệu đồng.
Năm 2011:
trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 67.317 trường hợp với số tiền 26,93 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 2.262 trường hợp; tạm giữ 2.265 phương tiện các loại.
trường hợp với số tiền phạt 715 triệu đồng; tước quyền sử dụng GPLX 182 trường hợp.
ủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 183 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 183 trường hợp với số tiền 92,2 triệu đồng.
12. UBND tỉnh Lào Cai
ủy nội địa, cụ thể là:
với số tiền phạt là 4.123.596.000; tước giấy phép lái xe (từ 30-90 ngày) 233 trường hợp; tạm giữ phương tiện (từ 01-90 ngày) 2.216 trường hợp.
Năm 2011: Phát hiện 20.231 vụ vi phạm, đã xử lý 18.503 vụ với số tiền phạt là 5.808.663.000; tước giấy phép lái xe (từ 30-90 ngày) 501 trường hợp; tạm giữ phương tiện (từ 01-90 ngày) 582 trường hợp.
Năm 2009:
Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 586 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 508 trường hợp với số tiền phạt 465,25 triệu đồng.
Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện 140 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 9 trường hợp, ra quyết định xử phạt 131 trường hợp với số tiền phạt 100,85 triệu đồng.
Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện 50.809 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 48.469 trường hợp với số tiền phạt 15.387 triệu đồng.
Tạm giữ giấy phép lái xe 670 trường hợp; Đình chỉ hoạt động có thời hạn 1.656 phương tiện.
ủy nội địa: lực lượng CSGT và TTGT đã phát hiện 148 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 41 trường hợp, ra quyết định xử phạt 107 trường hợp với số tiền phạt 58,3 triệu đồng.
Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện 59.325 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 59.150 trường hợp với số tiền phạt 23.198 triệu đồng.
Tạm giữ giấy phép lái xe 1450 trường hợp; Đình chỉ hoạt động có thời hạn 2.078 phương tiện; Tịch thu, đấu giá sung công quỹ nhà nước 2 xe ô tô, 5 xe mô tô, 3 tổng thành máy không rõ nguồn gốc. Tịch thu 68 trường hợp sử dụng GPLX giả.
ủy nội địa: lực lượng CSGT và TTGT đã phát hiện 80 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 11 trường hợp, ra quyết định xử phạt 69 trường hợp với số tiền phạt 71 triệu đồng.
Năm 2009: xử lý 55.153 trường hợp vi phạm, số tiền phạt là 15.420.050.000 đồng.
Năm 2011: xử lý 89.956 trường hợp vi phạm, số tiền phạt là 21.267.113.000 đồng.
15. UBND tỉnh Hà Nam
Đường bộ: lực lượng CSGT xử phạt 32.034 trường hợp với số tiền 13.983.495.000 đồng. TTGT xử phạt 232 trường hợp với số tiền phạt 175.990.000 đồng. TTGT xử phạt 232 trường hợp với số tiền phạt 175.990.000 đồng.
Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT xử phạt 629 trường hợp với số tiền 94.750.000 đồng.
trong đó:
Tạm giữ 144 phương tiện; tước GPLX 930 trường hợp.
ủy nội địa: lực lượng CSGT xử phạt 680 trường hợp với số tiền 122.500.000 đồng.
Đường bộ: lực lượng CSGT xử phạt 33.714 trường hợp với số tiền 18.146.441.000 đồng. TTGT xử phạt 327 trường hợp với số tiền phạt 251.600.000 đồng.
trường hợp.
ủy nội địa: lực lượng CSGT xử phạt 714 trường hợp với số tiền 132.500.000 đồng.
Đường bộ: trong 3 năm, lực lượng CSGT lập biên bản 133.396 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 281 trường hợp, ra quyết định xử phạt 128.737 trường hợp với số tiền phạt 55.754.365.000 đồng; tạm giữ 24.252 phương tiện; tước GPLX 4.598 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 12.821 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 12.811 trường hợp với số tiền phạt 7.048.580.000 đồng; tước GPLX 8.492 trường hợp, cụ thể các năm như sau:
trường hợp vi phạm, cảnh cáo 65 trường hợp, ra quyết định xử phạt 47.364 trường hợp với số tiền phạt 18.618.456.000 đồng; tạm giữ 9.464 phương tiện; tước GPLX 2.281 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 3.077 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 3.077 trường hợp với số tiền phạt 1.457.130.000 đồng; tước GPLX 897 trường hợp
trường hợp vi phạm, cảnh cáo 133 trường hợp, ra quyết định xử phạt 36.723 trường hợp với số tiền phạt 13.569.909.000 đồng; tạm giữ 6.785 phương tiện; tước GPLX 831 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 4.087 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 4.087 trường hợp với số tiền phạt 1.988.120.000 đồng; tước GPLX 1.324 trường hợp
trường hợp vi phạm, cảnh cáo 83 trường hợp, ra quyết định xử phạt 44.650 trường hợp với số tiền phạt 23.566.000.000 đồng; tạm giữ 8.003 phương tiện; tước GPLX 1.486 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 5.647 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 5.647 trường hợp với số tiền phạt 3.603.330.000 đong; tước GPLX 1.673 trường hợp.
ủy nội địa xử phạt 362 vụ vi phạm với số tiền 228.535.000 đồng; tước quyền sử dụng bằng thuyền trưởng 24 trường hợp.
Năm 2009: Lập biên bản 11.234 trường hợp, xử phạt 9.722 trường hợp với số tiền 2.575.035.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 122 trường hợp, 60 ngày 8 trường hợp và 90 ngày 3 trường hợp; tịch thu 116 phương tiện vi phạm.
trường hợp, xử phạt 20.298 trường hợp với số tiền 6.557.130.500 đồng; tước GPLX 30 ngày 628 trường hợp, 60 ngày 21 trường hợp và 90 ngày 3 trường hợp; tịch thu 224 phương tiện vi phạm.
trường hợp với số tiền 6.853.613.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 468 trường hợp, 60 ngày 33 trường hợp; tịch thu 338 phương tiện vi phạm.
Trong 3 năm đã phát hiện 159.042 vụ vi phạm, xử phạt 151.110 trường hợp với số tiền 49.611.068.000 đồng, cụ thể từng năm như sau:
trường hợp, xử phạt 41.975 trường hợp với số tiền 13.303.731.000 đồng; tước GPLX 1.412 trường hợp; tạm giữ 13.487 phương tiện vi phạm các loại.
trường hợp, xử phạt 49.509 trường hợp với số tiền 15.669.449.000 đồng; tước GPLX 1.218 trường hợp; tạm giữ 10.957 phương tiện vi phạm các loại.
trường hợp, xử phạt 59.626 trường hợp với số tiền 20.637.888.000 đồng; tước GPLX 2.024 trường hợp; tạm giữ 11.223 phương tiện vi phạm các loại.
Trong 3 năm đã phát hiện 102.131 vụ vi phạm, xử phạt tiền 86.060 trường hợp, cảnh cáo 16.071 trường hợp, tổng số tiền phạt là 27.346.152.000 đồng; tạm giữ 13.897 phương tiện; thông báo về nơi cư trú, đơn vị công tác, học tập của đối tượng vi phạm là 1.866 trường hợp; tước quyền sử dụng GPLX có thời hạn 1.070 trường hợp, cụ thể từng năm như sau:
trường hợp, xử phạt 34.793 trường hợp với số tiền 9.650.027.000 đồng, phạt cảnh cáo 5.835 trường hợp; tước GPLX 253 trường hợp; tạm giữ 7.342 phương tiện vi phạm các loại.
trường hợp, xử phạt 23.739 trường hợp với số tiền 10.011.500.500 đồng, phạt cảnh cáo 4.622 trường hợp; tước GPLX 432 trường hợp; tạm giữ 3.278 phương tiện vi phạm các loại; thông báo về nơi cư trú, công tác, học tập của đối tượng vi phạm là 927 trường hợp.
trường hợp; tước GPLX 521 trường hợp; tạm giữ 3.230 phương tiện vi phạm các loại; thông báo về nơi cư trú, công tác, học tập của đối tượng vi phạm là 939 trường hợp.
Năm 2009: TTGT đã phát hiện 131 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 46 trường hợp, số tiền 105.750.000 đồng.
trường hợp vi phạm, số tiền phạt 575.510.000 đồng; tạm giữ 7.330 phương tiện; tước 1.483 GPLX, thu 48 GPLX giả.
trường hợp, số tiền 253.500.000 đồng (5 trường hợp đã thực hiện Quyết định xử phạt, 118 trường hợp chưa chấp hành).
trường hợp vi phạm, số tiền phạt 12.109.993.000 đồng; tạm giữ 5.193 phương tiện; tước 1.009 GPLX, thu 25 GPLX giả, 01 biển số giả.
trường hợp, số tiền 185.000.000 đồng.
trường hợp vi phạm, số tiền phạt 12.252.380.000 đồng; tạm giữ 4.271 phương tiện; tước 1.345 GPLX, thu 20 GPLX giả.
Năm 2009: Phát hiện 75.138 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 73.906 trường hợp, số tiền phạt 16.537.665.000 đồng; tạm giữ 87 ô tô, 2516 xe máy.
trường hợp, số tiền phạt 16.281.237.000 đồng; tạm giữ 48 ô tô, 1538 xe máy.
trường hợp, số tiền phạt 19.250.000.000 đồng; tạm giữ 120 ô tô, 3.219 xe máy.
Năm 2009: Lực lượng CSGT phát hiện 67.187 vụ vi phạm, cảnh cáo 82 trường hợp, ra quyết định xử phạt 66.367 trường hợp, số tiền phạt 22.177.928.000 đồng; tạm giữ 16.967 phương tiện, tịch thu 2.452 xe mô tô không rõ nguồn gốc.
trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.163 trường hợp, số tiền phạt 482.486.000 đồng; tạm giữ 251 tang vật, phương tiện vi phạm.
trường hợp, số tiền phạt 30.144.586.000 đồng; tạm giữ 14.116 phương tiện, tịch thu 1.528 xe mô tô không rõ nguồn gốc.
trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.815 trường hợp, số tiền phạt 1.502.775.000 đồng; tạm giữ 340 tang vật, phương tiện vi phạm.
trường hợp, ra quyết định xử phạt 103.620 trường hợp, số tiền phạt 40.799.945.000 đồng; tạm giữ 19.797 phương tiện, tịch thu 966 xe mô tô không rõ nguồn gốc.
trường hợp, số tiền phạt 1.965.101.000 đồng; tạm giữ 514 tang vật, phương tiện vi phạm.
Năm 2009: xử phạt 46.728 trường hợp vi phạm, số tiền 13.347.238.000 đồng; tước GPLX 1.402 trường hợp; tạm giữ 13.566 phương tiện các loại.
Năm 2011: phát hiện 41.141 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 739 trường hợp, phạt tiền 40.969 trường hợp, số tiền 17.744.421.000 đồng; tước GPLX 1.749 trường hợp; tạm giữ 10.249 phương tiện các loại.
24. UBND tỉnh Bình Dương
Năm 2010: xử phạt 105.658 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 48.962.535.000 đồng, cảnh cáo 280 trường hợp, tước GPLX 5.260 trường hợp, tạm giữ 27.836 phương tiện, đình chỉ lưu hành 6.300 trường hợp, tạm giữ 5.036 tang vật các loại.
ủy nội địa, 2 bến khách ngang sông.
Trong 3 năm phát hiện 52.000 vụ vi phạm, xử phạt 51.834 trường hợp, số tiền phạt 20.492.436 đồng.
26. UBND tỉnh Bắc Giang
Năm 2010: phát hiện 106.905 trường hợp vi phạm, xử phạt 106.322 trường hợp, số tiền phạt 33.214.120.000 đồng; tạm giữ 10.410 phương tiện các loại; tước GPLX 3.175 trường hợp; tịch thu 832 phương tiện các loại bán đấu giá sung công quỹ nhà nước 917 triệu đồng.
27. UBND TP. Hải Phòng
trường hợp, số tiền 35.741.581.000 đồng.
trường hợp, số tiền 1.348.815.000 đồng.
Lực lượng TTGT xử phạt 1694 trường hợp, số tiền 1.501.390.000 đồng.
Lực lượng TTGT xử phạt 2.224 trường hợp, số tiền 2.055.620.000 đồng.
trường hợp, tạm giữ 36.850 phương tiện.
Năm 2009: phát hiện 74.399 trường hợp vi phạm, giáo dục nhắc nhở 11.426 trường hợp, tạm giữ 24.677 phương tiện đường bộ các loại, phạt tiên 56.926 trường hợp vơi số tiền 21.634.483.000 đồng; tước GPLX, bằng thuyền trưởng, máy trưởng 3.871 trường hợp; tịch thu 475 GPLX, chứng chỉ chuyên môn phương tiện thủy nội địa giả; đình chỉ 119 bến khách, phương tiện chở khách ngang sông không đủ điều kiện hoạt động; tháo dỡ 191 đăng, đáy cá lấn chiếm luồng tàu chạy.
trường hợp; tịch thu 607 GPLX, chứng chỉ chuyên môn phương tiện thủy nội địa giả; đình chỉ 28 bến khách, phương tiện chở khách ngang sông không đủ điều kiện hoạt động; tháo dỡ 47 miệng đáy, 87 cột đáy và 3 trường hợp đặt chà, nò lấn chiếm luồng tàu chạy; tháo dỡ 50 nhà cửa, lều quán lấn chiếm hành lang ATĐB.
trường hợp vi phạm, giáo dục nhắc nhở 10.040 trường hợp, tạm giữ 22.961 phương tiện đường bộ các loại, phạt tiền 73.289 trường hợp với số tiền 33.022.945.000 đồng; tước GPLX, bằng thuyền trưởng, máy trưởng 5.326 trường hợp; tịch thu 976 GPLX, chứng chỉ chuyên môn phương tiện thủy nội địa giả; đình chỉ 28 bến khách, phương tiện chở khách ngang sông không đủ điều kiện hoạt động, tháo dỡ 98 đăng, đáy chà, nò lấn chiếm luồng tàu chạy; tháo dỡ 58 nhà cửa, lều quán lấn chiếm hành lang ATĐB.
Trong 3 năm Thanh tra GTVT đã xử phạt với số tiền 412.335.000 đồng.
Năm 2010: xử phạt 154 trường hợp với số tiền 128.225.000 đồng
30. UBND tỉnh Bắc Cạn
Thanh tra giao thông: phát hiện 987 trường hợp vi phạm, nhắc nhở 511 trường hợp, xử phạt 476 trường hợp, số tiền phạt 1.171.855.000 đồng; tước GPLX có thời hạn đối với 104 trường hợp.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 11.336 trường hợp, số tiền phạt 4.350.000.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 832 trường hợp, 60 ngày là 78 trường hợp.
ủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 120 trường hợp vi phạm với số tiền 17.000.000 đồng; đình chỉ các bến thủy và phương tiện thủy không có giấy phép hoạt động.
Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 1.659 trường hợp với số tiền 748.100.000 đồng.
Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 2.074 trường hợp với số tiền 1.400.000.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 249 trường hợp, 60 ngày 36 trường hợp.
Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 392 trường hợp, số tiền 170.850.000 đồng
Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 205 trường hợp, số tiền 170.360.000 đồng
Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 567 trường hợp, số tiền 271.075.000 đồng
Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 979 trường hợp, số tiền 809.480.000 đồng
Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 3559 trường hợp, số tiền 5.301.322.000 đồng
Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 2358 trường hợp, số tiền 6.997.658.000 đồng
Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 6.744 trường hợp, số tiền 4.120.790.000 đồng
Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 4.571 trường hợp, số tiền 3.817.505.000 đồng
Năm 2009: xử phạt 122.289 trường hợp, số tiền 28.265.043.000 đồng.
Năm 2011: xử phạt 94.376 trường hợp, số tiền 24.249.000.000 đồng.
Năm 2009:
Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 112 trường hợp, số tiền 82.000.000 đồng.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.192 trường hợp, số tiền 866.900.000 đồng.
ủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 75 trường hợp, số tiền 50.550.000 đồng.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.465 trường hợp, số tiền 1.198.580.000 đồng.
ủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 94 trường hợp, số tiền 64.000.000 đồng.
Trong 3 năm, Thanh tra GTVT lập biên bản 2.128 trường hợp vi phạm, xử phạt 2.022 trường hợp với số tiền 1.814.005.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 317 trường hợp, 60 ngày 44 trường hợp.
Năm 2009:
trường hợp vi phạm, cảnh cáo 128 trường hợp, ra quyết định xử phạt 28.442 trường hợp, số tiền phạt 6.267.540.000 đồng; tạm giữ 6.185 mô tô, 181 ô tô, 165 xe đạp; tước GPLX 773 trường hợp; cưỡng chế khắc phục tại chỗ 365 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông tỉnh; tổ chức học lại Luật GTĐB cho 87 đối tượng; thông báo kết quả xử phạt VPHC về nơi cư trú, công tác và học tập cho 5.066 trường hợp.
trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 401 trường hợp, số tiền phạt 29.885.000 đồng; đình chỉ hoạt động 2 phương tiện; tạm giữ giấy tờ 26 trường hợp; khắc phục tại chỗ 23 trường hợp.
Đường bộ: phát hiện 32.1009 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 53 trường hợp, ra quyết định xử phạt 30.554 trường hợp, số tiền phạt 7.670.730.000 đồng; tạm giữ 5.439 mô tô, 271 ô tô; tước GPLX 849 trường hợp; cưỡng chế khắc phục tại chỗ 152 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông tĩnh; tổ chức học lại Luật GTĐB cho 41 đối tượng.
trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 293 trường hợp, số tiền phạt 21.835.000 đồng; đình chỉ hoạt động 15 phương tiện và 13 bến.
Đường bộ: phát hiện 35.590 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 25 trường hợp, ra quyết định xử phạt 34.476 trường hợp, số tiền phạt 8.819.290.000 đồng; tạm giữ 5.079 mô tô, 175 ô tô; tước GPLX 935 trường hợp; tổ chức học lại Luật GTĐB cho 38 đối tượng.
trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 173 trường hợp, số tiền phạt 14.510.000 đồng.
41. UBND tỉnh Phú Yên
trường hợp, số tiền 142.700.000 đồng
trường hợp, số tiền 298.850.000 đồng
trường hợp, số tiền 791.960.000 đồng
42. UBND tỉnh Hậu Giang
43. UBND tỉnh Tuyên Quang
Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 273 trường hợp, số tiền 397.585 đồng; tạm giữ 2 xe ô tô, 159 bộ giấy tờ phương tiện; tước GPLX 15 trường hợp; đình chỉ hoạt động 5 bến khách ngang sông.
trường hợp, số tiền 465.710.000 đồng; tạm giữ 0 xe ô tô, 199 bộ giấy tờ phương tiện; tước GPLX 34 trường hợp; đình chỉ hoạt động 3 bến khách ngang sông.
44. UBND tỉnh Cao Bằng
trường hợp với số tiền 20.492.436.000 đồng.
Năm 2009:
trường hợp, số tiền 11.756.100.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 710 trường hợp, tạm giữ 2.150 phương tiện, trong đó có 2.024 mô tô, xe máy, 126 xe ô tô.
ủy nội địa: phát hiện 140 trường hợp, cảnh cáo 9 trường hợp, xử phạt 131 trường hợp, số tiền 100.850.000 đồng.
Đường bộ: xử phạt 48.909 trường hợp, số tiền 15.800.000.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 670 trường hợp, tạm giữ 1.656 phương tiện, trong đó có 1.163 mô tô, xe máy, 493 xe ô tô.
ủy nội địa: phát hiện 148 trường hợp, cảnh cáo 41 trường hợp, xử phạt 107 trường hợp, số tiền 58.300.000 đồng.
Đường bộ: xử phạt 59.728 trường hợp, số tiền 23.740.000.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 1.450 trường hợp, tạm giữ 2.078 phương tiện, trong đó có 1.551 mô tô, xe máy, 536 xe ô tô; tịch thu 68 trường hợp GPLX giả; tịch thu sung công 2 xe ô tô, 5 xe mô tô, 3 tổng thành máy không rõ nguồn gốc.
ủy nội địa: phát hiện 80 trường hợp, cảnh cáo 11 trường hợp, xử phạt 69 trường hợp, số tiền 71.000.000 đồng.
Phát hiện 19.162 trường hợp vi phạm, phạt tiền 7.781.316.000 đồng, tước giấy phép lái xe có thời hạn 931 trường hợp, tạm giữ 128 ô tô, 2.824 mô tô và 03 xe công nông.
Năm 2009:
trường hợp, số tiền 29.217.030.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 5.371 trường hợp, tạm giữ 7.111 phương tiện.
ủy nội địa: xử phạt 560 trường hợp, số tiền 265.480.000 đồng.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.067 trường hợp, số tiền 1.386.710.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 394 trường hợp.
ủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 152 trường hợp, số tiền 77.915.000 đồng.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 983 trường hợp, số tiền 1.293.220.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 427 trường hợp.
ủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 128 trường hợp, số tiền 74.540.000 đồng.
Năm 2009:
Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 7 trường hợp, số tiền 9.500.000 đồng; tước quyền sử dụng có thời hạn 2 bằng thuyền trưởng.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 299 trường hợp, số tiền 590.000.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 106 trường hợp.
Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 147 trường hợp, số tiền 295.450.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 28 trường hợp.
ủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 10 trường hợp, số tiền 8.850.000 đồng.
Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 316 trường hợp, số tiền 134.550.000 đồng.
Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 581 trường hợp, số tiền 764.280.000 đồng.
50. UBND tỉnh Bắc Ninh
Năm 2010: Thanh tra GTVT lập biên bản 461 trường hợp, xử phạt 462 trường hợp, số tiền 218.640.000 đồng.
51. UBND tỉnh Đồng Tháp
ủy).
ủy).
ủy).
Năm 2009: xử phạt 67.331 trường hợp vi phạm, số tiền 7.000.000.000 đồng, tước có thời hạn 12 bằng thuyền trưởng, 9.875 giấy phép lái xe, tạm giữ 11.037 phương tiện cơ giới đường bộ.
ủy nội địa, 9.931 giấy phép lái xe, tạm giữ 11.861 phương tiện cơ giới đường bộ.
53. UBND tỉnh Quảng Ninh
Năm 2010: xử phạt 173.161 trường hợp, số tiền 64.812.294.119 đồng.
Từ khóa: Báo cáo 362/BC-CP, Báo cáo số 362/BC-CP, Báo cáo 362/BC-CP của Chính phủ, Báo cáo số 362/BC-CP của Chính phủ, Báo cáo 362 BC CP của Chính phủ, 362/BC-CP
File gốc của Báo cáo 362/BC-CP năm 2012 việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải do Chính phủ ban hành đang được cập nhật.
Báo cáo 362/BC-CP năm 2012 việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải do Chính phủ ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Chính phủ |
Số hiệu | 362/BC-CP |
Loại văn bản | Báo cáo |
Người ký | Đinh La Thăng |
Ngày ban hành | 2012-12-28 |
Ngày hiệu lực | 2012-12-28 |
Lĩnh vực | Vi phạm hành chính |
Tình trạng |