\r\n ỦY BAN NHÂN DÂN | \r\n \r\n CỘNG HÒA XÃ HỘI\r\n CHỦ NGHĨA VIỆT NAM | \r\n
\r\n Số:\r\n 2658/KH-GDĐT-PC \r\n | \r\n \r\n Thành phố Hồ Chí\r\n Minh, ngày 26 tháng 8 năm 2015 \r\n | \r\n
\r\n\r\n\r\n\r\n\r\n\r\n
Thực hiện Nghị quyết số\r\n972/NQ-UBTVQH13 ngày 13 tháng 7 năm 2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc\r\ntổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
\r\n\r\nThực hiện Quyết định số\r\n1076/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch\r\ncủa Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình\r\nsự (sửa đổi);
\r\n\r\nThực hiện Quyết định số\r\n4575/QĐ-UBND-PCNC ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí\r\nMinh về việc nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
\r\n\r\nThực hiện Công văn số 03-CV/ĐU\r\nngày 17 tháng 8 năm 2015 cùa Đảng ủy Sở Giáo dục và Đào tạo về thực hiện tổ chức\r\nlấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
\r\n\r\nSở Giáo dục và Đào tạo xây dựng Kế\r\nhoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)\r\ntrong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo với các nội dung như sau:
\r\n\r\n\r\n\r\n1. Mục đích
\r\n\r\n-\r\nTriển khai có hiệu quả Nghị quyết số 972/NQ-UBTVQH13 ngày 13 tháng 7 năm 2015 của\r\nỦy ban thường vụ Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ\r\nluật Hình sự (sửa đổi); Quyết định số 1076/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2015 của\r\nThủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ về việc tổ chức lấy ý kiến\r\nNhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi); Quyết định số\r\n4575/QĐ-UBND-PCNC ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí\r\nMinh; Công văn số 03-CV/ĐU ngày 17 tháng 8 năm 2015 cùa Đảng ủy Sở Giáo dục và\r\nĐào tạo
\r\n\r\n-\r\nPhát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ của Nhân dân, tạo sự đồng thuận của\r\nNhân dân trong việc góp ý Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
\r\n\r\n- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các trường, các đơn vị trực\r\nthuộc và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong toàn\r\nngành đối với việc góp ý Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
\r\n\r\n2. Yêu cầu
\r\n\r\n-\r\nBám sát nội dung Nghị quyết số 972/NQ-UBTVQH13; Quyết định số 1076/QĐ-TTg; Quyết\r\nđịnh số 4575/QĐ-UBND-PCNC ngày 07 tháng 8 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố\r\nHồ Chí Minh và Công văn số 03-CV/ĐU ngày 17 tháng 8 năm 2015 cùa Đảng ủy Sở\r\nGiáo dục và Đào tạo
\r\n\r\n-\r\nXác định cụ thể nội dung công việc, thời hạn hoàn thành và trách nhiệm của các\r\ntrường, các đơn vị trực thuộc trong việc triển khai lấy ý kiến Nhân dân đối với\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
\r\n\r\n- Các trường, các đơn vị trực thuộc có trách nhiệm tuyên truyền, vận\r\nđộng cán bộ, nhân dân tham gia đóng góp ý kiến và phản ánh trung thực, kịp thời\r\ný kiến đóng góp;
\r\n\r\n-\r\nBảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo\r\nPhòng, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc lấy ý kiến Nhân dân về\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
\r\n\r\n-\r\nViệc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) phải được\r\ncoi là một nhiệm vụ trọng tâm cần được ưu tiên tập trung chỉ đạo thực hiện.
\r\n\r\nII. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, ĐỐI TƯỢNG, THỜI\r\nGIAN LẤY Ý KIẾN
\r\n\r\n1. Nội dung lấy ý kiến
\r\n\r\n-\r\nNội dung lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) bao gồm toàn\r\nbộ dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), trọng tâm là những vấn đề được xác định\r\ntrong Phụ lục I kèm theo Kế hoạch;
\r\n\r\n- Các trường, các đơn vị trực thuộc tổ chức lấy ý kiến về các nội\r\ndung được xác định; đồng thời căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của\r\nmình, tập trung lấy ý kiến về những nội dung liên quan trực tiếp đến phạm vi,\r\nlĩnh vực hoạt động của trường, đơn vị mình và những vấn đề mà trường, đơn vị,\r\nngành quan tâm hoặc về những nội dung liên quan trực tiếp đến đặc thù phát triển\r\nkinh tế - xã hội, phong tục, tập quán ở địa phương và những vấn đề mà địa\r\nphương quan tâm.
\r\n\r\n2. Hình thức lấy ý kiến
\r\n\r\n- Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) được đăng tải toàn văn trên Báo\r\nNhân dân, Báo Đại biểu Nhân dân, Cổng thông tin điện tử của Quốc hội, Bộ Tư\r\npháp, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân\r\ndân Thành phố; Các trường, các đơn vị trực thuộc đăng tải dự thảo Bộ luật Hình\r\nsự (sửa đổi) trên Trang thông tin điện tử của trường, đơn vị mình để phục vụ\r\ncho việc lấy ý kiến của cơ quan, đơn vị.
\r\n\r\n-\r\nDự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) được lấy ý kiến thông qua các hình thức:
\r\n\r\n+ Góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản;\r\n
\r\n\r\n+ Tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa\r\nđàm;
\r\n\r\n+ Thông qua Cổng thông tin điện tử\r\ncủa Bộ Tư pháp; Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân Thành phố, quận -\r\nhuyện,…; thông qua Hội nghị phổ biến, hướng dẫn góp ý dự thảo Bộ luật Hình sự\r\n(sửa đổi); qua các phương tiện thông tin đại chúng;
\r\n\r\n+ Các hình thức phù hợp khác.
\r\n\r\n3. Đối tượng lấy ý kiến
\r\n\r\nToàn thể cán bộ, công chức, viên\r\nchức, người lao động và học sinh - sinh viên trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo\r\nThành phố Hồ Chí Minh.
\r\n\r\n4. Thời gian lấy ý kiến
\r\n\r\n- Thời gian lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)\r\nbắt đầu từ ngày 24 tháng 8 năm 2015 và kết thúc vào ngày 14 tháng 9 năm\r\n2015.
\r\n\r\n- Các cơ sở giáo dục tổ chức lấy\r\ný kiến cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh - sinh viên trong đơn vị, sau\r\nđó gửi về Phòng Pháp chế - Sở Giáo dục và Đào tạo trước ngày 15 tháng 9 năm\r\n2015 theo địa chỉ: số 66 - 68, Lê Thánh Tôn, Phường Bến Nghé, Quận I, Thành phố\r\nHồ Chí Minh hoặc qua hộp thư điện tử: [email protected].
\r\n\r\n- Sau thời hạn trên, tổ chức, cá nhân tiếp tục đóng góp ý kiến đối với\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) thì gửi trực tiếp đến Bộ Tư pháp trước ngày\r\n18 tháng 9 năm 2015 theo địa chỉ: 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội hoặc qua hộp thư\r\nđiện tử: [email protected].
\r\n\r\n5.\r\nChế độ báo cáo
\r\n\r\n- Hiệu trưởng các trường và Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc thực hiện\r\nbáo cáo việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện và gửi báo cáo về quá trình\r\ntổ chức thực hiện việc lấy ý kiến vào dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
\r\n\r\n- Báo cáo kết quả lấy ý kiến đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)\r\ncủa các trường và các đơn vị trực thuộc phải dựa trên Đề cương báo cáo theo Phụ\r\nlục II của Kế hoạch và gửi về Phòng Pháp chế trước ngày 15 tháng 9 năm 2015.
\r\n\r\nIII. PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM THỰC\r\nHIỆN
\r\n\r\n1. Phòng Pháp chế
\r\n\r\n-\r\nHướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các trường, các đơn vị trực thuộc về việc tổ chức lấy\r\ný kiến dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi);
\r\n\r\n- Tham mưu Lãnh đạo triển khai tổ chức phổ biến nội dung, cách thức lấy\r\ný kiến về dự thảo Bộ Luật Hình sự (sửa đổi) trong toàn ngành;
\r\n\r\n-\r\nTập hợp, tổng hợp kết quả lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) theo\r\nbáo cáo kết quả lấy ý kiến của các trường, các đơn vị trực thuộc; ý kiến của\r\ncác tổ chức, cá nhân gửi trực tiếp và qua đường bưu điện; qua Trang thông tin\r\nđiện tử; báo cáo kết quả lấy ý kiến trình Ủy ban nhân dân Thành phố.
\r\n\r\n2. Công đoàn ngành, Văn phòng\r\nSở, Phòng công tác HSSV, Phòng ban chuyên môn: Phối\r\nhợp Phòng Pháp chế kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức lấy ý kiến theo quy định.
\r\n\r\n3. Thủ trưởng các đơn vị: Phòng GD và ĐT quận -\r\nhuyện, Cao đẳng, TCCN, THPT, Trung tâm GDTX và các đơn vị trực thuộc
\r\n\r\n- Phổ biến nội dung, cách thức lấy\r\ný kiến về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trong cơ quan, đơn thuộc thẩm quyền\r\nquản lý;
\r\n\r\n- Tổ chức lấy ý kiến đóng góp về\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) của cán bộ, công chức, viên chức và người lao\r\nđộng trong đơn vị mình theo hình thức thích hợp;
\r\n\r\n- Xây dựng báo cáo kết quả lấy ý\r\nkiến về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và gửi đến Bộ phận Pháp chế của đơn vị\r\nđể tổng hợp (theo Đề cương và Mẫu báo cáo theo phụ lục II gửi kèm).
\r\n\r\nTrên đây là Kế hoạch tổ chức lấy\r\ný kiến đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trong toàn ngành Giáo dục và\r\nĐào tạo của Sở Giáo dục và Đào tạo. Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn,\r\nvướng mắc, đề nghị các đơn vị kịp thời báo cáo để hướng dẫn kịp thời./.
\r\n\r\n\r\n\r\n
\r\n
| \r\n \r\n KT.GIÁM ĐỐC | \r\n
\r\n\r\n\r\n\r\n
CÁC VẤN ĐỀ TRỌNG\r\nTÂM XIN Ý KIẾN NHÂN DÂN VỀ DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
\r\n\r\n1. Vấn đề trách\r\nnhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự
\r\n\r\na) Về trách nhiệm hình sự của pháp\r\nnhân
\r\n\r\nTheo quy định của Bộ luật Hình sự\r\n(BLHS) hiện hành, việc truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) chỉ đặt ra đối\r\nvới cá nhân (con người cụ thể).
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi) lần này bổ\r\nsung TNHS của pháp nhân (các điều 2, 3, 6, 8 và các điều thuộc Chương XI. Những\r\nquy định đối với pháp nhân phạm tội).
\r\n\r\nVề vấn đề này có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng,\r\ncho đến thời điểm này, việc quy định TNHS của pháp nhân trong BLHS là cần thiết, vì:
\r\n\r\nThứ nhất,\r\ntình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện diễn ra phức tạp và ngày\r\ncàng nghiêm trọng, nhất là các hành vi gây ô nhiễm môi trường, buôn lậu, trốn\r\nthuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm,\r\ntrốn đóng bảo hiểm cho người lao động...gây ảnh hưởng\r\nnghiêm trọng đến môi trường sống an lành của người dân và gây\r\nmất trật tự, an\r\ntoàn xã hội.
\r\n\r\nThứ hai,\r\nmặc dù chúng ta đã có chế tài xử phạt vi phạm hành chính và có quy định trong pháp luật dân sự, kinh tế để người\r\ndân, cơ quan, tổ chức kiện đòi bồi\r\nthường thiệt hại đối với pháp nhân có hành vi vi phạm, nhưng trên thực tế, các quy định này còn bất cập, kém hiệu quả. Điều này dẫn đến trên thực tế có tình trạng pháp\r\nnhân coi thường pháp luật, ngang nhiên vi phạm. Mặt khác, mức phạt tiền trong Luật Xử lý vi phạm hành chính còn thấp,\r\nchưa đủ sức răn đe. Mức tối đa áp dụng đối với pháp nhân\r\nkhông vượt quá 2 tỷ đồng. Với mức phạt này, nhiều pháp nhân, nhất là các pháp\r\nnhân là các tập đoàn lớn hoặc các công ty đa quốc gia có thể chấp nhận nộp phạt\r\nđể tiếp tục vi phạm. Hơn nữa, dưới khía cạnh bảo vệ người\r\ndân (đối tượng bị gây thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra), thủ tục kiện đòi bồi thường thiệt hại của người dân đối với pháp nhân phức tạp, nên người\r\ndân khó có điều kiện để bảo vệ quyền lợi của mình như: Quy\r\nđịnh về nghĩa vụ chứng minh thiệt hại (nguyên nhân, mức độ\r\nthiệt hại) thuộc về bản thân bị hại, hay\r\nquy định buộc người bị hại phải nộp một khoản tiền án phí dân sự. Khoản tiền này trong một số trường\r\nhợp cũng là không nhỏ đối với người dân.
\r\n\r\nThứ ba, việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân là xu thế chung trên thế\r\ngiới. Hiện nay trên thế giới có 119\r\nnước quy định TNHS đối với pháp nhân. Hiệp hội các nước Đông Nam Á là 5 nước, một nước đang xem xét quy định. Trong xu thế đó, nếu ta\r\nkhông quy định TNHS của pháp nhân trong BLHS thì sẽ tạo ra sự bất bình đẳng\r\ntrong việc xử lý pháp nhân vi phạm. Cụ thể: các pháp nhân Việt Nam ra nước ngoài làm ăn mà vi phạm có thể bị truy cứu TNHS, bị phạt\r\nrất nặng, trong khi đó, doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, làm ăn tại Việt Nam\r\ndù vi phạm đến mức nào, theo quy định hiện nay cũng chỉ bị phạt cao nhất\r\nlà 2 tỷ đồng.
\r\n\r\nThứ tư, theo truyền thống lập pháp của ta, đối với các\r\nvi phạm nhỏ, mức độ nguy hiểm thấp thì chúng ta xử phạt vi phạm hành chính. Đối\r\nvới các vi phạm có mức độ nguy hiểm cao thì chúng ta coi là tội phạm và áp dụng\r\nchế tài hình sự để xử lý. Tuy nhiên, đối với hành vi luôn có mức độ nguy hiểm\r\ncao như: phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia, tham nhũng, rửa tiền, buôn bán người, tài trợ\r\nkhủng bố là nghĩa vụ quốc tế bắt buộc của nước ta với tư cách là quốc gia thành\r\nviên Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước chống tham\r\nnhũng, thành viên Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG) thì luôn xác định là tội phạm mà không bị xử phạt hành chính. Do đó,\r\nnếu không quy định TNHS của pháp nhân, thì không thể xử lý được các pháp nhân\r\nkhi thực hiện một trong các hành vi nêu trên.
\r\n\r\nThứ năm, để giảm thiểu tác động tiêu cực khi áp dụng hình phạt tước giấy phép vĩnh viễn hoặc đình chỉ vĩnh viễn hoạt động của\r\npháp nhân, dự thảo BLHS quy định đối với pháp nhân phạm tội chủ yếu áp dụng hình\r\nphạt tiền. Việc áp dụng hình phạt tước giấy phép hoạt động của pháp nhân chỉ đặt\r\nra trong hai trường hợp: (i) Pháp nhân phạm tội gây hậu quả\r\nhoặc đe dọa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng của nhiều người, đến\r\nmôi trường và trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra không có khả năng khắc\r\nphục trên thực tế; và (ii) Pháp nhân\r\nsử dụng giấy phép hoặc đăng ký kinh doanh làm vỏ bọc để thực hiện một trong các\r\ntội phạm quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai cho rằng,\r\nkhông nên quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại thời điểm này vì:
\r\n\r\nThứ nhất,\r\nhiện nay chúng ta đã có các chế tài xử phạt vi phạm hành chính, hoặc cơ chế kiện\r\nđòi bồi thường thiệt hại trong tố tụng dân sự, kinh tế để xử lý các pháp nhân\r\nvi phạm;
\r\n\r\nThứ hai,\r\ntheo quan niệm truyền thống lập pháp hình sự của ta thì Bộ luật hình sự chỉ\r\ntruy cứu TNHS đối với cá nhân có hành vi phạm tội; việc quy định TNHS của pháp\r\nnhân trong Bộ luật hình sự sẽ không phù hợp với quan niệm truyền thống về khoa học luật hình sự Việt Nam của ta là chỉ truy cứu TNHS đối với cá nhân.
\r\n\r\nThứ ba,\r\nngoài hình phạt tiền, việc áp dụng hình phạt tước giấy phép hoạt động đối với\r\npháp nhân trong một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao\r\nđộng.
\r\n\r\nb) Loại tội mà pháp nhân phải chịu TNHS
\r\n\r\nĐiều 76 của dự thảo BLHS (sửa đổi)\r\nquy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về 32 tội danh, cụ thể là:
\r\n\r\n- Điều 149 (tội mua bán người); Điều 150 (tội mua bán\r\ntrẻ em);
\r\n\r\n- Điều 190 (tội\r\nbuôn lậu); Điều 191 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới);\r\nĐiều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 193 (tội tàng trữ, vận chuyển\r\nhàng cấm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là\r\nlương thực, thực phẩm); Điều 196 (tội sản xuất,\r\nbuôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh);\r\nĐiều 197 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi,\r\nphân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 204 (tội trốn thuế);\r\nĐiều 207 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 213 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc\r\nche giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán); Điều 214 (tội sử dụng thông tin\r\nnội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 215 (tội thao túng giá thị trường chứng\r\nkhoán); Điều 220 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất\r\nnghiệp cho người lao động); Điều 221 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều\r\n223 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 224 (tội xâm phạm quyền\r\nsở hữu công nghiệp);
\r\n\r\n- Điều 231 (tội gây ô nhiễm môi trường);\r\nĐiều 232 (tội vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại); Điều 236 (tội đưa\r\nchất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 239 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản);\r\nĐiều 240 (tội huỷ hoại rừng); Điều 241 (tội vi phạm các quy định về bảo vệ động\r\nvật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ);
\r\n\r\n- Điều 307 (tội vi phạm quy định về\r\nan toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người); Điều\r\n313 (tội tài trợ khủng bố); Điều 328 (tội sản xuất, kinh doanh thực phẩm không\r\nđảm bảo an toàn); Điều 336 (tội rửa tiền);
\r\n\r\n- Điều 367 (tội nhận hối lộ); Điều\r\n377 (tội đưa hối lộ);
\r\n\r\n- Điều 393 (tội không chấp hành án).
\r\n\r\nVề vấn đề này, có\r\nhai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất đồng\r\ntình với quy định của dự thảo Bộ luật và cho rằng, việc quy định diện các loại\r\ntội mà pháp nhân phải chịu TNHS phải\r\ntương đối bao quát đủ để xử lý các hành vi vi phạm nghiêm trọng của pháp nhân\r\ngây thiệt hại cho kinh tế, môi trường và tính mạng, sức khỏe của con người.\r\nTrên tinh thần đó, đồng tình với quy định của dự thảo Bộ luật.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\nđây là vấn đề mới, nên trước mắt, chỉ nên tập trung xử lý hình\r\nsự các hành vi do pháp nhân thực hiện xảy ra tương đối phổ\r\nbiến và thật sự gây bức xúc trong nhân dân. Cụ thể là 15 tội, gồm: buôn lậu (Điều 190); trốn thuế (Điều 204); cố ý công bố thông tin\r\nsai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 213); sử dụng\r\nthông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 214); thao túng giá thị trường chứng\r\nkhoán (Điều 215); trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp\r\ncho người lao động (Điều 221); gây ô nhiễm môi trường (Điều 231); vi phạm quy định\r\nvề quản lý chất thải nguy hại (Điều 232); đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam\r\n(Điều 236); huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 239); huỷ hoại rừng (Điều 240);\r\ntài trợ khủng bố (Điều 313); rửa tiền (Điều 336); nhận hối lộ (Điều 367); đưa hối\r\nlộ (Điều 377).
\r\n\r\n\r\n\r\na) Phạm vi chịu\r\ntrách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
\r\n\r\nĐiều 12 BLHS hiện hành quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu\r\ntrách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt\r\nnghiêm trọng”.
\r\n\r\nDự thảo Bộ luật lần này (Điều 12) kế\r\nthừa quy định của BLHS hiện hành nhưng chỉ rõ hơn những tội\r\nphạm cụ thể mà người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16\r\ntuổi phải chịu TNHS. Cụ thể là:
\r\n\r\n“Người từ đủ 14 tuổi trở lên,\r\nnhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu\r\ntrách nhiệm hình sự về tội giết người, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em, tội\r\ncưỡng dâm trẻ em, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản và tội rất\r\nnghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau\r\nđây:
\r\n\r\na) Điều 133 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức\r\nkhỏe của người khác); Điều 142 (tội\r\ncưỡng dâm);
\r\n\r\nb) Điều 168 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 169 (tội\r\ncưỡng đoạt tài sản); Điều 172 (tội trộm cắp tài sản); Điều 177 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng\r\ntài sản);
\r\n\r\nc) Điều 249 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội tàng trữ, trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội\r\nvận chuyển trái phép chất ma túy);\r\nĐiều 252 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 253 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
\r\n\r\nd) Điều 275 (tội đua xe trái phép);
\r\n\r\nđ) Điều 294\r\n(tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ,\r\nthiết bị, phần mềm dùng để tấn\r\ncông mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử);\r\nĐiều 295 (tội phát tán vi rút, chương trình tin học có\r\ntính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện\r\nđiện tử); Điều 296 (tội cản trở\r\nhoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện\r\ntử); Điều 298 (tội truy cập bất hợp\r\npháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 299 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng\r\nviễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều 300 (tội truy cập trái phép tài khoản ngân hàng của tổ chức, cá nhân chiếm đoạn tài sản); Điều\r\n304 (tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa thông tin về tài khoản ngân hàng); Điều 305 (sản xuất\r\nmua bán, tàng trữ, lưu hành thẻ ngân hàng giả để thực hiện hành vi chiếm đoạt\r\ntài sản;
\r\n\r\ne) Điều 311 (tội chiếm đoạt vũ\r\nkhí quân dụng); Điều 316 (tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an\r\nninh quốc gia)”.
\r\n\r\nVề vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ\r\nnhất đồng tình với quy định tại Điều 12 của dự thảo BLHS (sửa đổi) vì:
\r\n\r\nThứ nhất, theo quy định hiện hành thì diện các tội phạm mà trẻ em\r\nphải chịu trách nhiệm hình sự là khá rộng và quan trọng hơn là quy định này không rõ ràng, minh bạch, nên bản thân các em không thể hoặc khó có thể biết được\r\nchính xác khi nào thì hành vi bị coi là tội phạm. Điều này dẫn\r\nđến công tác phòng ngừa không đạt hiệu quả.
\r\n\r\nThứ hai, thực tế cho thấy, số trường hợp trẻ em từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi tự\r\nmình thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng\r\nlà không nhiều và chủ yếu tập trung vào một số tội thuộc nhóm các tội xâm phạm\r\ntính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, các tội xâm phạm sở hữu.\r\nCòn lại phần lớn các trường hợp khác các em tham gia thực hiện tội phạm là do bị\r\nngười lớn xúi giục, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa,...., bản thân các em không nhận thức được một cách đầy đủ về tính chất, mức độ nguy\r\nhiểm của loại tội phạm mà mình đã thực hiện (ví dụ: các\r\ntội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về kinh tế, môi trường, các tội phá\r\nhoại hòa bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh, ...). Vì vậy, việc xử lý\r\nhình sự đối với các em trong những trường hợp này có phần quá nghiêm khắc và ít\r\ncó tác dụng giáo dục, phòng ngừa,\r\ngiúp các em nhận ra và sửa chữa lỗi lầm của bản thân.
\r\n\r\nDo đó, BLHS cần khoanh lại một số tội mà người chưa thành niên ở độ tuổi này hay thực\r\nhiện và quy định rõ những tội danh cụ thể thuộc một số\r\nnhóm tội phạm mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS. như: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,\r\ndanh dự của con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội phạm về ma túy và các tội\r\nphạm xâm phạm trật tự, an toàn công cộng.\r\n
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giữ nguyên quy định hiện\r\nhành (Điều 12): “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi\r\nphải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội\r\nđặc biệt nghiêm trọng”, vì nếu\r\nquy định như dự thảo BLHS thì dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
\r\n\r\nb) Các biện pháp\r\nthay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
\r\n\r\nBLHS hiện hành không quy định\r\ncác biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội mà\r\nchỉ quy định miễn TNHS đối với người\r\nchưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn,\r\ncó nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ quan, tổ chức nhận giám sát,\r\ngiáo dục (khoản 2 Điều 69).
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi) đã bổ sung các\r\nbiện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cụ thể\r\nlà Khiển trách (Điều 91), Hòa giải tại cộng đồng (Điều 92), Giám sát, giáo dục\r\ntại gia đình hoặc giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức (Điều 93).
\r\n\r\nVề vấn đề này có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, việc bổ sung quy định về biện pháp\r\nthay thế xử lý hình sự như trong dự thảo BLHS (sửa đổi) là cần thiết để tiếp tục thực hiện chủ trương nhân đạo hóa,\r\ntăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự theo\r\ntinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là người chưa thành niên\r\ntheo hướng hạn chế khả năng đưa người chưa thành niên vào vòng quay tố tụng. Việc bổ sung các quy định này nhằm khắc phục bất cập của quy định hiện\r\nhành, góp phần nâng cao hiệu quả giáo\r\ndục tại cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\ngiữ nguyên như quy định hiện hành (tại khoản 2 Điều 69), đồng thời cụ thể hóa\r\ncác điều kiện để được miễn trách nhiệm\r\nhình sự đối với người chưa thành niên, giúp các cơ quan tố tụng có cơ sở pháp\r\nlý đầy đủ, rõ ràng để áp dụng trên thực tế.
\r\n\r\n\r\n\r\na) Về\r\nbỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm
\r\n\r\nBLHS hiện hành quy định hình phạt tử\r\nhình đối với 22 tội danh.
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đối) dự kiến bỏ\r\nhình phạt tử hình đối với 07 tội danh, cụ thể là các tội: cướp tài sản; phá huỷ\r\ncông trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chống mệnh lệnh; đầu\r\nhàng địch; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; chống loài người, tội\r\nphạm chiến tranh (các Điều 164, 314, 404, 410, 433, 434 và Điều 435), đồng thời,\r\ndự kiến bỏ hình phạt tử hình đối với hành vi phạm tội vận chuyển, tàng trữ trái\r\nphép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại Điều 194 của BLHS hiện hành.
\r\n\r\nVề vấn đề này hiện có hai loại ý kiến:\r\n
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất tán\r\nthành phương án bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh cũng như như hành vi\r\nphạm tội vận chuyển, tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong dự thảo\r\nBLHS (sửa đổi) và đề nghị nếu có quy định hình phạt chung\r\nthân không giảm án thì nên rà soát để bỏ thêm hình phạt tử hình đối với một số\r\ntội phạm nữa, vì:
\r\n\r\nThứ nhất,\r\nđiều này là nhằm tiếp tục thực hiện\r\nchủ trương giảm áp dụng hình phạt tử hình theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ\r\nChính trị về cải cách tư pháp.
\r\n\r\nThứ hai,\r\nđối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều\r\n231 BLHS hiện hành): từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999, tội phạm này đã có sự\r\nchuyển đổi về khách thể xâm hại từ an ninh quốc gia sang trật tự, an toàn xã hội,\r\nvà do vậy, tầm quan trọng và yêu cầu bảo vệ khách thể đối với tội này cũng đã\r\ncó sự thay đổi không còn ở mức cao như trước đây. Hơn nữa, đối tượng xâm hại của\r\ntội này là tài sản dưới dạng các công trình, phương tiện có tầm quan trọng về\r\nan ninh quốc gia, trước đây đều thuộc sở hữu Nhà nước nên có chính sách xử lý\r\nnghiêm khắc hơn, nhưng nay thuộc nhiều sở hữu của các thành phần kinh tế khác\r\nnhau mà về nguyên tắc, phải được bảo vệ như nhau theo tinh thần của Hiến pháp\r\nnăm 2013. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc.\r\nNgoài ra, thực tiễn cũng cho thấy, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các Tòa án\r\nkhông áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội này. Mặt khác, việc\r\nbỏ tử hình đối với tội danh này không bó tay chúng ta trong việc xử lý tội phạm,\r\nbởi lẽ, trong một số trường hợp nhất định, người thực hiện hành vi phá hủy công\r\ntrình, phương tiện có tầm quan trọng về an ninh quốc gia có thể bị xử lý về các\r\ntội phạm tương ứng trong BLHS, ví dụ: tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của\r\nnước CHXHCN Việt Nam (Điều 85); tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân\r\n(Điều 84) hoặc tội khủng bố (Điều 230a) là những tội có quy định hình phạt tử\r\nhình.
\r\n\r\nThứ ba, đối\r\nvới tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341 BLHS hiện hành),\r\ntội chống loài người (Điều 342 BLHS hiện hành) và tội phạm chiến tranh (Điều\r\n343 BLHS hiện hành): Thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, tuy các tội danh này có\r\nquy định hình phạt tử hình nhưng trên thực tế từ năm 1985 đến nay chưa có trường\r\nhợp nào phạm các tội này và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là những tội\r\nchủ yếu mang tính phòng ngừa. Hơn nữa, xu hướng quốc tế cũng đã bỏ hình phạt tử\r\nhình đối với các tội phạm này. Liên bang Nga cũng chỉ giữ lại hình phạt tử hình\r\nđối với tội diệt chủng - một trong số tám tội danh thuộc nhóm\r\ncác tội phá hoại hòa bình và an ninh loài người. Trong điều\r\nkiện chúng ta đang thực hiện chủ trương của Đảng về giảm hình phạt tử hình thì\r\nviệc bỏ hình phạt tử hình đối với các tội danh này là cần thiết. Trường hợp cần\r\nthiết có thể xử lý về một số tội danh khác có quy định hình phạt tử hình, ví dụ\r\nnhư: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội giết người, ... Do vậy, việc bỏ\r\nhình phạt tử hình đối với 03 tội này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn đấu\r\ntranh phòng, chống tội phạm mà lại góp phần làm giảm bớt số lượng tội danh có\r\nquy định hình phạt tử hình trong BLHS.
\r\n\r\nThứ tư, đối\r\nvới tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS hiện hành): Bản chất của tội này là tước đoạt\r\nquyền sở hữu của người khác bằng vũ lực hoặc bằng các hành động khác tấn công nạn\r\nnhân làm cho họ không thể chống cự được. Vì vậy, trong khi thực hiện hành vi cướp\r\ntài sản, người phạm tội có thể gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nạn\r\nnhân. Tuy nhiên, mục đích của người phạm tội này là chiếm đoạt tài sản của người\r\nkhác chứ không phải là xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Việc gây thương tích hoặc\r\nlàm chết người khi thực hiện hành vi cướp không nằm trong ý định chủ quan của\r\nngười phạm tội cướp. Hơn nữa, không phải mọi trường hợp phạm tội cướp tài sản đều\r\ngây chết người, do vậy, việc áp dụng hình phạt tù chung thân đối với tội phạm\r\nnày là đủ nghiêm khắc cũng tương tự như trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến\r\nchết nhiều người quy định tại khoản 4 Điều 104 của BLHS. Nếu chứng minh được\r\nngười phạm tội còn có ý định tước đoạt sinh mạng của nạn nhân thì có thể xử lý\r\nvề tội giết người mà hình phạt cao nhất là tử hình.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai không đồng\r\ntình với việc bỏ hình phạt tử hình đối với các tội: phá huỷ công trình, phương\r\ntiện quan trọng về an ninh quốc gia; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược;\r\nchống loài người; tội phạm chiến tranh; cướp tài sản, vận\r\nchuyển trái phép chất ma túy. Việc duy trì hình phạt tử hình đối với các tội\r\nnày là để bảo đảm sự răn đe, phòng ngừa chung.
\r\n\r\nb) Về quy định\r\nkhông thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về một số tội phạm, nhưng sau khi bị kết án\r\nđã khắc phục về cơ bản hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, tích cực hợp tác với\r\ncác cơ quan chức năng trong việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc lập công lớn (Điểm\r\nc khoản 3 Điều 39 dự thảo)
\r\n\r\nBLHS hiện hành không quy định vấn đề\r\nnày.
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung quy định\r\nkhông thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình\r\nvề các tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội\r\ntham ô tài sản mà sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội\r\nphạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện,\r\nđiều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
\r\n\r\nVề vấn đề này có\r\nhai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến\r\nthứ nhất tán thành với quy định này vì:
\r\n\r\nThứ nhất, đây là quy định nhằm hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế, góp phần\r\nthực hiện chủ trương của Nghị quyết 49 về giảm hình phạt tử hình.
\r\n\r\nThứ hai, mục đích chính của quy định này là nhằm tạo cho người bị kết án tử\r\nhình cơ hội cuối cùng để được sống nhưng phải có sự nỗ lực,\r\ntích cực bằng những hành động cụ thể để khắc phục cơ bản hậu\r\nquả do hành vi phạm tội gây ra, hợp tác tích cực trong việc phát hiện, khám phá\r\ntội phạm hoặc có sự lập công lớn. Người được áp dụng quy định này vẫn phải chịu\r\nán tù chung thân.
\r\n\r\nThứ ba, quy định này không chỉ cho phép người bị kết án có cơ hội giữ lại mạng\r\nsống mà còn giúp các cơ quan chức năng thu hồi lại được các tài sản bị chiếm đoạt,\r\nbị thất thoát, lãng phí (đây là vấn đề nhức nhối hiện nay).
\r\n\r\nThứ tư, diện đối tượng áp dụng quy định này cũng rất hẹp, chủ yếu tập trung vào\r\nđối tượng bị kết án tử hình về một số tội mang tính kinh tế, như: sản xuất,\r\nbuôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, tham ô. Quy định không áp dụng đối với\r\ncác tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người và xâm phạm trật\r\ntự, an toàn công cộng (ví dụ: các tội ma túy, khủng bố) thì không áp dụng quy định\r\nnày.
\r\n\r\nThứ năm, đây cũng là kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm đấu tranh có hiệu quả đối\r\nvới tội phạm tham nhũng.
\r\n\r\n- Loại ý kiến\r\nthứ hai không đồng tình với quy định này vì cho rằng, điều\r\nnày ở khía cạnh nào đó sẽ dễ dẫn đến cách hiểu là dùng tiền\r\nđể thoát án tử hình.
\r\n\r\nc) Về vấn đề\r\ngiảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm (khoản 3 Điều 63)
\r\n\r\nBLHS hiện hành\r\nkhông quy định chế định này.
\r\n\r\nKhoản 3 Điều 63 của\r\ndự thảo BLHS (sửa đổi) quy định:
\r\n\r\nPA 1. Không áp\r\ndụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này đối với trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm.
\r\n\r\nPA 2. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc\r\nngười bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 39 Bộ\r\nluật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 20\r\nnăm và phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 25 năm.
\r\n\r\nVề vấn đề này hiện có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất tán\r\nthành với phương án 1 quy định tại khoản 3 Điều 63 của dự thảo BLHS (sửa đổi),\r\nvì cho rằng, xét từ góc độ quyền sống của con người được quy định lần đầu tiên\r\ntrong Hiến pháp 2013 thì việc áp dụng tù chung thân không giảm án là giải pháp\r\ncó ý nghĩa lớn vì đã tạo cho người đã bị kết án tử hình một cơ hội để tiếp tục\r\nđược sống, được lao động, gặp gỡ người thân, đồng thời cũng tạo cơ hội để khắc\r\nphục sai lầm có thể xảy ra trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với\r\nngười bị kết án tử hình. Những điều này sẽ không thực hiện được nếu án tử hình\r\nđược thi hành. Quy định này cũng góp phần giảm hình phạt tử hình trên thực tế,\r\nđồng thời, đây là một bước quá độ để tiến tới việc loại bỏ hoàn toàn hình phạt\r\ntử hình.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đồng\r\ntình với phương án 2 của khoản 3 Điều 63 dự thảo BLHS (sửa đổi)và đề nghị bổ\r\nsung quy định đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết\r\nán tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 39 Bộ luật này thì\r\nthời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 20 năm và phải bảo\r\nđảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 25 năm.
\r\n\r\nd) Về quy định không áp dụng và\r\nkhông thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ 75 tuổi trở lên
\r\n\r\nBLHS hiện hành không quy định vấn đề\r\nnày.
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung quy định\r\nkhông áp dụng và không thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ 75 tuổi\r\ntrở lên (Khoản 2, điểm b Khoản 3 Điều 39)
\r\n\r\nVề vấn đề này có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất đồng\r\ntình với quy định này vì cho rằng, đây là một hướng góp phần giảm hình phạt tử\r\nhình trên thực tế, đồng thời nó mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, là một đặc ân của\r\nNhà nước đối với đối tượng người bị kết án đã đến tuổi thượng thọ, được hướng\r\nchế độ ưu đãi của Nhà nước.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\nkhông nên bổ sung quy định này vì thực tế tuổi thọ trung bình nước ta đã được\r\nnâng cao hơn trước. Mặt khác, người 75 tuổi vẫn có thể là người chỉ huy các\r\nbăng nhóm tội phạm.
\r\n\r\n\r\n\r\nBLHS hiện hành không quy định chế định\r\nnày.
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi) quy định về cơ\r\nchế chuyển đổi hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù, cụ thể\r\nnhư sau:
\r\n\r\n- Về chuyển đổi hình phạt tiền thành\r\nhình phạt tù có thời hạn, khoản 4 Điều 35 dự thảo quy định:
\r\n\r\n“PA 1. Khi\r\ntuyên hình phạt tiền là hình phạt chính, Tòa án tuyên nếu trong thời hạn 06\r\ntháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án không chấp hành\r\nthì hình phạt tiền được chuyển đổi thành hình phạt tù, đồng thời ấn định mức\r\nphạt tù mà người đó phải chấp hành theo nguyên tắc sau:
\r\n\r\na) Nếu khung hình phạt áp dụng không\r\ncó quy định hình phạt tù thì mức phạt tù cao nhất không quá 03 năm tù;
\r\n\r\nb) Nếu khung hình phạt được áp dụng\r\ncó quy định hình phạt tù lựa chọn với phạt tiền thì mức phạt tù cao nhất không\r\nquá mức cao nhất của hình phạt tù tại khung hình phạt tương ứng;
\r\n\r\nc) Trường hợp người bị kết án đã chấp\r\nhành một phần hình phạt tiền thì căn cứ vào phần hình phạt còn lại phải chấp\r\nhành, Tòa án quyết định chuyển đổi thành mức hình phạt tù tương ứng.
\r\n\r\nKhông áp dụng quy định tại khoản này\r\nđối với pháp nhân, người bị kết án là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc\r\nđang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người khuyết tật nặng.
\r\n\r\nPA 2.\r\nKhông quy định khoản này”.
\r\n\r\n- Về chuyển hình phạt cải tạo không\r\ngiam giữ thành hình phạt tù có thời hạn, Khoản 5 Điều 36 dự thảo quy định:
\r\n\r\n“5. Khi tuyên hình phạt cải tạo\r\nkhông giam giữ, Tòa án tuyên trong bản án trường hợp người bị kết án không thực\r\nhiện các nghĩa vụ thì hình phạt này được chuyển thành hình phạt tù theo nguyên\r\ntắc 03 ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù.
\r\n\r\nKhông áp dụng quy định này đối với\r\nngười bị kết án là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới\r\n36 tháng tuổi, người già yếu, người khuyết tật nặng.”
\r\n\r\nVề vấn đề này có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất tán\r\nthành việc bổ sung cơ chế chuyển đối từ\r\nhình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ sang hình phạt tù có thời\r\nhạn, vì:
\r\n\r\nThứ nhất, một trong những định hướng lớn\r\nsửa đổi BLHS lần này là giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình\r\nphạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm theo tinh thần Nghị quyết\r\n49 của Đảng về cải cách tư pháp. Theo đó, dự thảo đã bổ sung hình phạt tiền, cải\r\ntạo không giam giữ vào nhiều điều luật. Tuy nhiên, kết quả tổng kết thực tiễn\r\nhơn 14 năm thi hành BLHS cho thấy, hình phạt tiền và hình phạt cải tạo không\r\ngiam giữ tính khả thi không cao, hiệu quả kém, vì thế đã phần nào làm giảm tính\r\nnghiêm minh của pháp luật. Do đó, cần thiết bổ sung cơ chế chuyển phạt tiền,\r\nhình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp\r\nngười bị kết án không chấp hành án để bảo đảm tăng tính răn đe,\r\nphòng ngừa của hình phạt này. Nếu để xử lý về tội không chấp hành án thì quá\r\nlâu và còn làm nặng thêm tình trạng của người bị kết án (đồng thời phải chấp\r\nhành hai bản án) Việc chuyển đổi này cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế\r\ngiới.
\r\n\r\nThứ hai,\r\nviệc quy định chuyển đổi hình phạt là nhằm bảo đảm tính khả thi của hình phạt tiền\r\nvà hình phạt cải tạo không giam giữ trên thực tế. Khi chuyển đổi thì người bị kết án phạt tiền, cải\r\ntạo không giam giữ chỉ phải chấp hành hình phạt tù (hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ được quy đổi). Nếu không quy định\r\ntrường hợp này, người bị kết án không chịu chấp hành án có thể bị truy tố về tội\r\nkhông chấp hành án. Điều này xảy ra tình trạng cùng một\r\nlúc người bị kết án phải đồng thời chấp hành hai loại hình phạt chính khác nhau.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai không\r\ntán thành với quy định việc chuyển hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ\r\nthành hình phạt tù vì cho rằng, không nên cùng một lúc áp dụng hai loại hình phạt\r\nkhác nhau. Nếu người bị kết án không chấp hành hình phạt sẽ bị truy tố về tội\r\nkhông chấp hành án; việc chuyển đổi này sẽ làm xấu hơn tình trạng của bị cáo\r\n(là đang từ không tước tự do là phạt tiền và cải tạo không giam giữ bị chuyển\r\nthành hình phạt tù).
\r\n\r\n\r\n\r\nBộ\r\nluật hình sự hiện hành quy định hình phạt Trục xuất vừa là hình phạt chính, vừa\r\nlà hình phạt bổ sung (Điều 28 và Điều 32 BLHS 1999). Dự thảo BLHS (Điều\r\n32) quy định hình phạt này áp dụng theo hai phương án: Phương án thứ nhất: giữ\r\nnguyên như BLHS hiện hành (vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ\r\nsung); Phương án hai chỉ là hình phạt bổ sung.
\r\n\r\nVề vấn đề này hiện có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng,\r\nnên giữ như quy định hiện hành, theo đó, hình phạt trục xuất vừa có thể áp dụng\r\nlà hình phạt chính, có thể là hình phạt bổ sung để bảo đảm sự linh hoạt cho Tòa\r\nán trong việc cân nhắc áp dụng hình phạt trục xuất trong từng trường hợp phạm tội\r\ncụ thể và từng đối tượng phạm tội cụ thể.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\nchỉ nên áp dụng hình phạt này với tư cách là hình phạt bổ sung vì cho rằng, người\r\nphạm tội (dù là công dân Việt Nam hay người nước ngoài) khi bị đưa ra xét xử tại\r\nTòa án Việt Nam theo pháp luật hình sự Việt Nam thì cần phải bình đẳng, trong\r\nđó bao hàm cả sự bình đẳng về việc áp dụng loại, mức hình phạt và nghĩa vụ chấp\r\nhành hình phạt. Sẽ bất công nếu công dân Việt Nam phạm một tội cụ thể trên lãnh\r\nthổ Việt Nam thì phải chịu cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung và các\r\nnghĩa vụ dân sự khác, trong khi đó, nếu đối tượng phạm tội là người nước ngoài\r\n(cũng phạm tội đó) lại có thể chỉ bị áp dụng hình phạt trục xuất (với ý nghĩa\r\nlà hình phạt chính) mà không phải chịu thêm một nghĩa vụ nào khác. Trong khi\r\nđó, thực tiễn cho thấy, khi công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài thì thông\r\nthường phải chấp hành xong hình phạt và các nghĩa vụ thì mới bị trục xuất.
\r\n\r\n\r\n\r\nBLHS hiện hành quy định tội cố ý làm\r\ntrái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều\r\n165).
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến cụ thể\r\nhóa hành vi phạm tội có tính chất cố ý làm trái trong các lĩnh vực kinh tế và\r\nquy định thành các tội danh cụ thể trong từng lĩnh vực để thay thế cho tội danh\r\nnày.
\r\n\r\nVề vấn đề này có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất đồng tình\r\nvới đề xuất như trong dự thảo BLHS (sửa đổi) vì:
\r\n\r\nThứ nhất, để tăng cường tính minh bạch của BLHS, nhất là trong khi Việt Nam đang\r\ntrong quá trình chuyển đối cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ\r\nchế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nhiều chính sách kinh\r\ntế vừa làm vừa thử nghiệm thì việc duy trì một tội phạm với dấu hiệu cấu thành\r\nlà “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả\r\nnghiêm trọng” được coi như là một “trở ngại”, làm nản lòng các nhà đầu tư,\r\nnhà quản lý. Do đó, dự thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến chuyển dấu hiệu tội phạm của\r\ntội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm\r\ntrọng (từ cấu thành tội phạm chung) bằng cách rà soát, quy định trong các cấu\r\nthành tội phạm cụ thể.
\r\n\r\nThứ hai,\r\ndự thảo BLHS (sửa đổi) không đặt vấn đề bãi bỏ tội cố ý làm trái các quy định của\r\nNhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng mà chỉ cụ thể hóa hành vi\r\nphạm tội này thành các tội danh cụ thể trong từng lĩnh vực để bảo đảm tính công khai, minh bạch của BLHS, tránh sự tùy tiện trong\r\nviệc áp dụng BLHS để xử lý tội phạm, qua đó góp phần bảo vệ quyền con người,\r\nquyền công dân theo tinh thần Hiến pháp mới năm 2013. Theo đó, tội cố ý\r\nlàm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng\r\nđược cụ thể hóa trong 45 tội danh xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc 3 nhóm\r\nlĩnh vực: 1) sản xuất, kinh doanh, thương mại; 2) thuế, tài chính, ngân hàng,\r\nchứng khoán, bảo hiểm; 3) lĩnh vực kinh tế khác. Bên cạnh đó, BLHS cũng có một\r\nsố điều khoản mang tính chất ”cố ý làm trái” trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.\r\nNgoài ra, trong chương các tội phạm về chức vụ cũng đã quy định một số tội danh\r\nliên quan đến hành vi “cố ý làm trái” của người có chức vụ, quyền hạn như: tội\r\nlợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi\r\nthi hành công vụ.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\ncân nhắc chưa nên bỏ tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế\r\ngây hậu quả nghiêm trọng, vì nếu chúng ta không lường hết được các trường hợp xảy\r\nra, thì có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm.
\r\n\r\n\r\n\r\nBLHS hiện hành quy định trường hợp trộm\r\ncắp tài sản dưới 2 triệu đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi\r\nphạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản\r\nchưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị xử lý hình sự.
\r\n\r\nNgoài 03 trường hợp trên, dự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung thêm trường hợp thứ\r\ntư là tuy tài sản\r\nbị chiếm đoạt có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng đó lại là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại\r\nvà gia đình họ hoặc có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại\r\nvà gia đình họ” thì vẫn bị xử lý hình sự (Điểm d khoản 1\r\nĐiều 172).
\r\n\r\nVề vấn đề này có hai loại ý kiến:
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ nhất nhất\r\ntrí với việc bổ sung quy định này để giải quyết những bức xúc của người dân\r\ntrong thời gian vừa qua đối với những trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị\r\nkhông đến 2 triệu đồng nhưng gây ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội, ảnh\r\nhưởng nghiêm trọng đến đời sống mưu sinh hàng ngày của người dân.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\ngiữ nguyên như quy định hiện hành.
\r\n\r\n8. Về việc bãi bỏ\r\nmột số tội phạm và bổ sung một số tội phạm mới
\r\n\r\nTrên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn\r\nthi hành BLHS và ý kiến đề xuất của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan, dự\r\nthảo BLHS (sửa đổi) dự kiến bãi bỏ một số tội danh và bổ sung một số tội danh mới,\r\ncụ thể như sau:
\r\n\r\na) Các tội danh dự kiến bãi bỏ:
\r\n\r\nDự thảo BLHS (sửa đổi)\r\ndự kiến bãi bỏ 05 tội danh sau đây:
\r\n\r\n- Tội hoạt động phỉ (Điều 83\r\nBLHS hiện hành);
\r\n\r\n-\r\nTội tảo hôn (Điều 147 BLHS hiện\r\nhành);
\r\n\r\n-\r\nTội kinh doanh trái phép (Điều 159 BLHS hiện hành);
\r\n\r\n- Tội báo cáo sai\r\ntrong quản lý kinh tế (Điều 167 BLHS hiện hành);
\r\n\r\n- Tội không chấp\r\nhành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa\r\nvào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quy chế hành chính (Điều 269\r\nBLHS hiện hành).
\r\n\r\nVề vấn đề này, cơ bản các ý kiến đều\r\nthống nhất. Tuy nhiên còn một vài tội còn có hai loại ý kiến khác nhau:
\r\n\r\n- Loại ý kiến\r\nthứ nhất đồng tình với việc bỏ các tội danh này, vì\r\ncho rằng, đây là những tội danh không còn phù hợp với tình\r\nhình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Hơn nữa, trên thực tế hầu như các\r\nTòa án chưa xét xử hoặc xét xử rất ít về các tội phạm này.
\r\n\r\n- Loại ý kiến thứ hai đề nghị\r\ncân nhắc việc bỏ tội kinh doanh trái phép, tội hoạt động phỉ vì có nguy cơ bỏ lọt\r\ntội phạm và việc giữ lại các tội này còn có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa tội phạm.
\r\n\r\nb) Về\r\nviệc bổ sung các tội danh mới
\r\n\r\nNhằm bảo đảm phù\r\nhợp với Hiến pháp, đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ\r\nquyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo\r\nvệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường\r\nđịnh hướng XHCN, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành\r\nmạnh; đồng bộ với các luật, bộ luật đã được ban hành cũng như các luật, dự luật\r\nđang được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới như Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi),\r\ncác luật về quyền con người, quyền công dân; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; đồng\r\nthời thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, dự thảo BLHS (sửa đổi) dự kiến bổ sung 37 tội danh mới sau đây:
\r\n\r\n- Tội khiêu dâm\r\ntrẻ em (Điều 146); tội mua bán, chiếm đoạt mô, tạng, các bộ phận cơ thể người\r\n(Điều 153);
\r\n\r\n- Tội đăng ký con\r\nnuôi, nhận cha, mẹ, con trái pháp luật (Điều 184); tội đăng ký hộ tịch trái\r\npháp luật (Điều 185); tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều\r\n189);
\r\n\r\n- Tội vi phạm quy\r\nđịnh về sử dụng điện (Điều 201); tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán,\r\nniêm yết chứng khoán (Điều 216); tội trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm (Điều\r\n217); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 218);
\r\n\r\n- Tội gian lận bảo\r\nhiểm y tế (Điều 219); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất\r\nnghiệp cho người lao động (Điều 220); tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều\r\n221); tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 222); tội vi\r\nphạm quy định về an toàn vận hành công trình thủy lợi, hồ chứa, liên hồ chứa,\r\nđê điều và công trình phòng, chống thiên tai (Điều 234); tội vi phạm quy định về\r\nbảo vệ bờ, bãi sông, các công trình về tài nguyên nước (Điều 235);
\r\n\r\n- Tội tàng trữ\r\ntrái phép cây giống cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các loại\r\ncây khác có chứa chất ma túy (Điều 245); tội vận chuyển trái phép cây giống cây\r\nthuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các loại cây khác có chứa chất\r\nma túy (Điều 246); tội mua bán trái phép cây giống cây thuốc phiện, cây côca,\r\ncây cần sa hoặc cây giống các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247); tội\r\nchiếm đoạt cây giống cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc cây giống các\r\nloại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 248);
\r\n\r\n- Tội rải đinh hoặc\r\nvật sắc, nhọn trên đường bộ (Điều 270); tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng\r\ncho công cụ, thiết bị, phần mềm đùng để tấn công mạng máy tính, mạng viễn\r\nthông, phương tiện điện tử (Điều 294); tội truy cập trái phép tài khoản ngân\r\nhàng của tổ chức, cá nhân chiếm đoạt tài sản (Điều 300); tội cố ý xâm phạm, tấn\r\ncông vào trạm trung chuyển Internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền\r\nvà hệ thống máy chủ tên miền quốc gia (Điều 301); tội sử dụng trái phép tần số\r\nvô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,\r\nquốc phòng, an ninh (Điều 302); tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 303); tội thu\r\nthập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa về tài khoản ngân hàng (Điều\r\n304); tội sản xuất mua bán, tàng trữ, lưu hành thẻ ngân hàng giải để thực hiện\r\nhành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 305); tội thiết lập, quản trị, điều hành\r\nwebsite để kinh doanh trái phép tiền điện tử, dịch vụ, hàng hóa trên mạng máy\r\ntính (Điều 306); tội cưỡng bức lao động (Điều 309); tội bắt cóc con tin (Điều\r\n314); tội cướp biển (Điều 315);
\r\n\r\n- Tội vi phạm quy\r\nđịnh về giam giữ (Điều 401); tội không tôn trọng tòa án (Điều 404); tội ra mệnh\r\nlệnh trái pháp luật (Điều 406);
\r\n\r\n- Tội thiếu trách\r\nnhiệm trong thực hiện nhiệm vụ công tác quân sự gây hậu quả nghiêm trọng (Điều\r\n409); tội vắng mặt trái phép (Điều 416); tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của\r\ntử sỹ (Điều 433).
\r\n\r\nLoại ý kiến thứ nhất đồng tình với việc bổ sung các tội danh này và cho rằng, việc bổ sung\r\nnày là tương đối bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện chủ\r\ntrương cải cách tư pháp của Đảng, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công\r\ndân, nhất là quyền về an sinh xã hội, quyền sống trong môi trường an toàn, lành\r\nmạnh và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
\r\n\r\nLoại ý kiến thứ hai đề nghị\r\ncân nhắc kỹ việc bổ sung một số tội danh, ví dụ như: tội rải đinh hoặc vật sắc, nhọn trên đường bộ; tội trục lợi\r\ntrong kinh doanh bảo hiểm.
\r\n\r\n\r\n\r\n\r\n\r\n
ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐÓNG GÓP Ý KIẾN\r\nCỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI DỰ THẢO BỘ LUẬT HÌNH SỰ (SỬA ĐỔI)
\r\n\r\nA. NỘI DUNG\r\nCHÍNH CỦA BÁO CÁO
\r\n\r\nBáo cáo kết quả lấy ý kiến của Nhân\r\ndân về dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) gồm các nội dung chính được trình bày\r\ntheo bố cục sau:
\r\n\r\nI. Quá trình tổ chức lấy ý kiến đối\r\nvới dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
\r\n\r\n- Công tác tổ chức lấy ý kiến;
\r\n\r\n- Các hình thức tổ chức lấy ý kiến;
\r\n\r\n- Số lượt người tham gia ý kiến.
\r\n\r\nII. Đánh giá chung đối với dự thảo\r\nBộ luật Hình sự (sửa đổi)
\r\n\r\nNhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm\r\ncủa toàn bộ dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), gồm:
\r\n\r\n- Sự phù hợp của dự thảo Bộ luật Hình\r\nsự với các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng;
\r\n\r\n- Sự phù hợp của dự thảo Bộ luật Hình\r\nsự với Hiến pháp;
\r\n\r\n- Việc giải quyết những vấn đề bất cập,\r\ntồn tại của thực tiễn đặt ra trong quá trình tổng kết việc thi hành Bộ luật\r\nHình sự;
\r\n\r\n- Phù hợp các điều ước quốc tế mà Việt\r\nNam là thành viên;
\r\n\r\n- Về tính dự báo và ổn định lâu dài của\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
\r\n\r\nIII. Ý kiến cụ thể về nội dung của\r\ndự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi)
\r\n\r\nTham gia ý kiến vào toàn bộ dự thảo Bộ\r\nluật Hình sự (sửa đổi), bao gồm:
\r\n\r\n1. Những sửa đổi, bổ sung của dự thảo\r\nBộ luật Hình sự (sửa đổi) thuộc phần chung (ý kiến cụ thể về nội dung cụ thể cần\r\nsửa đổi, đề xuất phương án sửa đổi và lý do của việc sửa đổi);
\r\n\r\n2. Những sửa đổi, bổ sung của dự thảo\r\nBộ luật Hình sự (sửa đổi) thuộc phần các tội phạm cụ thể (ý kiến cụ thể về nội\r\ndung cụ thể cần sửa đổi, đề xuất phương án sửa đổi và lý do của việc sửa đổi);
\r\n\r\n3. Những sửa đổi, bổ sung về bố cục\r\nvà kết cấu, vị trí của các chương, điều, khoản của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa\r\nđổi) (nêu ý kiến cụ thể và đề xuất phương án sửa đổi);
\r\n\r\n4. Về ngôn ngữ diễn đạt và kỹ thuật\r\nxây dựng của các quy định của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
\r\n\r\nIV. THAM GIA GÓP Ý KIẾN VỀ NHỮNG VẤN\r\nĐỀ TRỌNG TÂM ĐƯỢC XÁC ĐỊNH TẠI PHỤ LỤC I CỦA KẾ HOẠCH NÀY (Trong đó tổng hợp cụ thể số người tán thành, không tán thành đối với từng\r\nphương án cụ thể; lý do của việc tán thành hay không tán thành) (nếu có)
\r\n\r\n1. Vấn đề trách nhiệm hình sự của\r\npháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự.
\r\n\r\n2. Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự\r\ncủa người chưa thành niên và các biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với\r\nngười chưa thành niên phạm tội.
\r\n\r\n3. Về hình phạt trục xuất.
\r\n\r\n4. Việc bỏ hình phạt tử hình ở một số\r\ntội; quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình trong\r\nmột số trường hợp; quy định không giảm án đối với người bị kết án tử hình nhưng\r\nđược ân giảm xuống tù chung thân.
\r\n\r\n5. Về chuyển đổi hình phạt tiền, hình\r\nphạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn.
\r\n\r\n6. Về việc thay thế dấu hiệu tội phạm\r\ncủa tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả\r\nnghiêm trọng trong cấu thành của các tội phạm cụ thể.
\r\n\r\n7. Về việc xử lý hình sự đối với trường\r\nhợp trộm cắp tài sản duoci71 2 triệu đồng.
\r\n\r\n8. Về việc bãi bỏ một số tội phạm và\r\nbổ sung một số tội phạm mới nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ,\r\nthúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chủ\r\ntrương hội nhập quốc tế.
\r\n\r\nB. YÊU CẦU TRÌNH\r\nBÀY ĐỐI VỚI NỘI DUNG BÁO CÁO
\r\n\r\n- Báo cáo phải tập hợp và phản ánh đầy\r\nđủ, khách quan, trung thực các ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá\r\nnhân.
\r\n\r\n- Đối với mỗi nội dung của dự thảo được\r\ngóp ý thì cần chú thích cụ thể từng đối tượng góp ý, như là ý kiến của chuyên\r\ngia, nhà khoa học, ý kiến của cử tri, ý kiến của cơ quan chuyên môn...
\r\n\r\nTừ khóa: Kế hoạch 2658/KH-GDĐT-PC, Kế hoạch số 2658/KH-GDĐT-PC, Kế hoạch 2658/KH-GDĐT-PC của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, Kế hoạch số 2658/KH-GDĐT-PC của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, Kế hoạch 2658 KH GDĐT PC của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, 2658/KH-GDĐT-PC
File gốc của Kế hoạch 2658/KH-GDĐT-PC năm 2015 về tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh do Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh ban hành đang được cập nhật.
Kế hoạch 2658/KH-GDĐT-PC năm 2015 về tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh do Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh |
Số hiệu | 2658/KH-GDĐT-PC |
Loại văn bản | Kế hoạch |
Người ký | Bùi Thị Diễm Thu |
Ngày ban hành | 2015-08-26 |
Ngày hiệu lực | 2015-08-26 |
Lĩnh vực | Trách nhiệm hình sự |
Tình trạng | Không còn phù hợp |