VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 256/VKSTC-V14 | Hà Nội, ngày 25 tháng 01 năm 2022 |
Kính gửi: | - Viện trưởng VKS quân sự trung ương; |
Năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSND tối cao) nhận được các ý kiến phản ánh của các đơn vị, Viện kiểm sát cấp dưới (sau đây viết tắt là đơn vị, VKS) về những khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nêu tại Phụ lục kèm theo Công văn số 397/VP-TMTH ngày 08/12/2021 của Văn phòng VKSND tối cao (Công văn số 397). Để thống nhất nhận thức các quy định trong ngành KSND, tạo thuận lợi trong việc áp dụng, nâng cao hiệu quả công tác, VKSND tối cao có ý kiến như sau:
1. VKSND tối cao phối hợp với TAND tối cao sớm có văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn, giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để tránh tình trạng mâu thuẫn về quan điểm, đường lối giải quyết giữa hai ngành đối với các vấn đề pháp luật còn chưa điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràngII. Trong công tác hướng dẫn thi hành pháp luật
1. Về những khó khăn, vướng mắc
1.1. Hướng dẫn nêu tại Công văn số 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của VKSND tối cao mâu thuẫn với quy định tại tiểu mục 6.2 Mục 6 và tiểu mục 7.3 Mục 7 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP (Thông tư liên tịch số 17) hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 khi quy định “Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù 02 năm đến 07 năm”. Như vậy, bất kể người nào đủ năng lực trách nhiệm hình sự có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đều là chủ thể của tội phạm, không loại trừ trường hợp đó là người nghiện ma túytiểu mục 6.2 Mục 6 và tiểu mục 7.3 Mục 7 Thông tư liên tịch số 17. Do đó, VKSND tối cao không có cơ sở để giải đáp khó khăn, vướng mắc này. Bên cạnh đó, căn cứ các quy định tại Điều 25, khoản 4 Điều 154, khoản 2 Điều 172 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì Thông tư liên tịch số 17 và Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17 là hướng dẫn quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) không có giá trị hướng dẫn đối với quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hướng dẫn tại Công văn số 5442/VKSTC-V14 nêu trên dựa trên quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đồng thời, có tham khảo hướng dẫn của TAND tối cao tại Công văn số 89/TAND-PC ngày 30/6/2020.
1.2. VKSND tỉnh Đắk Nông gặp khó khăn khi thực hiện Công văn số 5887/VKSTC-V14, ngày 05/12/2019 của VKSND tối cao hướng dẫn thực hiện khoản 4 Điều 163 BLTTHS về nội dung “cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can có thẩm quyền điều tra hành vi của bị can xảy ra tại địa bàn huyện khác hoặc tỉnh khác” dẫn đến bị VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh kháng nghị giám đốc thẩm vì vi phạm khoản 4 Điều 163 BLTTHS (Quyết định kháng nghị số 191/QB/VC3-V1, ngày 22/7/2021 kháng nghị bản án số 21/2020HS-ST ngày 24/6/2020 của TAND tỉnh Đắk Nông (bị can Phạm Tuấn Huỳnh phạm tội ở tỉnh Đắk Nông và tỉnh Bình Dương)Khoản 4 Điều 163 BLTTHS năm 2015 quy định: “Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt”, theo đó, Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau. Do đó, nội dung hướng dẫn tại công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05/12/2019 là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 163 BLTTHS năm 2015 nêu trên.
1.3. Công văn số 5887/VKSTC-V14 của VKSND tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật mâu thuẫn với Thông báo rút kinh nghiệm của VKSND cấp cao tại Hà Nội về áp dụng quy định “Phạm tội 2 lần trở lên” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với trường hợp bắt quả tang, người phạm tội khai tàng trữ nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời và quá trình điều tra xác định trước khi bị bắt quả tang người phạm tội đã có hành vi bán trái phép chất ma túymục 4 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ- HBTP, ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn về hành vi đánh bạc (Nghị quyết số 01) khi xử lý Hành vi đánh đề của một người trong 1 lần, 1 ngày với tổng số tiền đánh là 5 triệu đồng nhưng chia đều theo kết quả xổ số của đài miền Bắc, miền Nam Hoặc miền Trung2. Về những kiến nghị, đề xuất
2.1. Tăng cường khảo sát tình hình thực tiễn thi hành pháp luật trong Ngành để tổng kết những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật TL. VIỆN TRƯỞNG File gốc của Công văn 256/VKSTC-V14 năm 2022 giải đáp khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị của các đơn vị, Viện kiểm sát cấp dưới do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành đang được cập nhật.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Đ/c Viện trưởng VKSTC (để b/cáo);
- Các Đ/c PVT VKSTC (để b/cáo);
- Các Kiểm sát viên VKSTC;
- Lưu: VT, V14.
VỤ TRƯỞNG
VỤ PHÁP CHẾ VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC
Hoàng Thị Quỳnh Chi
Công văn 256/VKSTC-V14 năm 2022 giải đáp khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị của các đơn vị, Viện kiểm sát cấp dưới do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Viện kiểm sát nhân dân tối cao |
Số hiệu | 256/VKSTC-V14 |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Hoàng Thị Quỳnh Chi |
Ngày ban hành | 2022-01-25 |
Ngày hiệu lực | 2022-01-25 |
Lĩnh vực | Thủ tục Tố tụng |
Tình trạng | Còn hiệu lực |