BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
V/v trả lời kiến nghị của Hiệp hội Dệt may Việt Nam | Hà Nội, ngày 09 tháng 02 năm 2018 |
Kính gửi: Văn phòng Chính phủ
1. Kiến nghị số 11 về tiền lương tối thiểu vùng
Điều 91 của Bộ luật Lao động thì mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh căn cứ vào nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ; điều kiện kinh tế - xã hội và mức tiền lương trên thị trường lao động. Căn cứ quy định trên, hằng năm Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với vai trò là thành viên của Hội đồng tiền lương quốc gia tham gia đã phân tích, đánh giá thực tế, thương lượng, thống nhất phương án điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng và khuyến nghị với Chính phủ công bố mức điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Đối với kiến nghị của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ghi nhận và sẽ phối hợp với các thành viên trong Hội đồng tiền lương quốc gia để thảo luận, phân tích và đề xuất với Chính phủ xem xét, quyết định cho phù hợp.
Thẩm quyền sửa đổi Bộ luật Lao động là của Quốc hội. Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang nghiên cứu, xây dựng Bộ luật Lao động (sửa đổi) để trình Chính phủ trình Quốc hội vào năm 2019. Kiến nghị này của Hiệp hội Dệt may Việt Nam sẽ được cơ quan soạn thảo nghiên cứu tiếp thu trong quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động sắp tới.
3. Kiến nghị số 11, 13 về Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm
Nhận định của Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho rằng tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cao là chưa khách quan. Việc so sánh tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội giữa các nước cần được đánh giá trong mối quan hệ với quyền lợi và tỷ lệ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động và thân nhân người lao động. Cụ thể:
+ Nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ bảo hiểm xã hội mà cho rằng chi phí bảo hiểm xã hội cao, dẫn đến tăng chi phí doanh nghiệp là chưa chính xác, bởi chi phí cao hay thấp được quyết định bởi mức đóng được xác định bằng tỷ lệ đóng BHXH và nền tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Thực tế ở Việt Nam nền tiền lương đóng chủ yếu dựa trên mức lương cơ bản và có khoảng cách khá xa với mức tiền lương và thu nhập thực tế của người lao động. Tỷ lệ đóng cao nhưng nền đóng thấp thì mức đóng cũng không cao.
Như vậy, từ những so sánh nêu trên cho thấy rất khó để đánh giá mức đóng BHXH của Việt Nam là cao hay thấp so với các quốc gia khác. Việc đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cần được xem xét trong việc xác định mô hình bảo hiểm xã hội tại mỗi nước; mối quan hệ giữa mức đóng với quyền lợi hưởng các chế độ, các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị trường lao động, chi phí lao động.
Một trong những mục tiêu đặt ra khi sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 là cần có những điều chỉnh về chính sách để bảo đảm cân đối quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn.Việc tăng tỷ lệ đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đã được điều chỉnh trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và khó có thể tăng thêm. Do vậy, để bảo đảm khả năng cân đối của quỹ BHXH cần xem xét điều chỉnh tỷ lệ hưởng lương hưu cho phù hợp với nguyên tắc đóng - hưởng. Tuy nhiên, việc điều chỉnh giảm tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa từ 75% xuống là khó có thể thực hiện. Vì vậy, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 được Quốc hội thông qua theo hướng vẫn duy trì tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%, tuy nhiên cần kéo dài thời gian đóng góp để đạt được tỷ lệ này thêm 5 năm đối với cả nam và nữ.
khoản 2 Điều 56 và khoản 2 Điều 74 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì: Từ năm 2018, số năm đóng BHXH để đạt được tỷ lệ hưởng lương hưu 75% của lao động nam là 31 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2018; 32 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2019; 33 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2020; 34 năm đối với người nghỉ hưu trong năm 2021; 35 năm đối với người nghỉ hưu từ năm 2022 trở đi. Riêng đối với lao động nữ thì từ năm 2018 trở đi, thời gian đóng BHXH để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 30 năm.
+ Việc quy định điều chỉnh công thức tính lương hưu trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có ưu điểm là bảo đảm tốt hơn nguyên tắc đóng - hưởng, tăng khả năng cân đối của quỹ hưu trí và tử tuất, công bằng hơn giữa các đối tượng tham gia BHXH (tỷ lệ hưởng lương hưu tính thêm cho mỗi năm đóng BHXH sau năm thứ 20 của nam và sau năm thứ 15 của nữ cùng là 2% so với quy định 2% đối với nam và 3% đối với nữ tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006).
Ngày 01 tháng 11 năm 2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có báo cáo Chính phủ về xử lý chênh lệch giữa mức lương hưu đối với người nghỉ hưu trước và sau thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2018 theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 (Báo cáo số 117/BC-LĐTBXH). Tiếp theo đó, ngày 21/11/2017, Bộ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Báo cáo số 584/BC-CP báo cáo Quốc hội về vấn đề trên.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 thì NLĐ có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được hưởng lương hưu với mức thấp hơn, theo đó NLĐ được nghỉ hưu trước 10 tuổi so với đối tượng khác và tỷ lệ giảm trừ là 1% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Với quy định trên của pháp luật, một số người lao động đã thực hiện giám định khả năng lao động để về hưu trước tuổi. Theo số liệu thống kê thì trong tổng số những người nghỉ việc hưởng lương hưu thì có khoảng 60% người nghỉ hưu trước tuổi; tuy nhiên, sau khi nghỉ việc số lao động trên vẫn tiếp tục làm việc.
Theo đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% và tăng độ tuổi nghỉ hưu trước tuổi so với Luật BHXH năm 2006, quy định trên của Luật BHXH năm 2014 đã đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng, đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, đảm bảo công bằng giữa các nhóm đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội.
3.4. Kiến nghị số 13 về trợ cấp thất nghiệp
- Đa số các quốc gia đều áp dụng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 90 ngày (3 tháng);
- Tại Điều 48 Bộ luật Lao động quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên khi chấm dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các trường hợp theo quy định, mỗi năm làm việc được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương (50% mức tiền lương); Tại Điều 49 Bộ luật lao động quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm trong các trường hợp theo quy định, mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương (100% mức tiền lương) nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).
Trên đây là ý kiến của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đề nghị quý Văn phòng Chính phủ tổng hợp, trình Thủ tướng./.
- Như trên;
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Lưu: VT, PC.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Doãn Mậu Diệp
File gốc của Công văn 582/LĐTBXH-PC năm 2018 về trả lời kiến nghị của Hiệp hội Dệt may Việt Nam do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành đang được cập nhật.
Công văn 582/LĐTBXH-PC năm 2018 về trả lời kiến nghị của Hiệp hội Dệt may Việt Nam do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội |
Số hiệu | 582/LĐTBXH-PC |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Doãn Mậu Diệp |
Ngày ban hành | 2018-02-09 |
Ngày hiệu lực | 2018-02-09 |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng | Còn hiệu lực |