BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
V/v bảo đảm an ninh, an toàn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài | Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2018 |
Kính gửi: Đ/c Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương
1. Tập trung phổ biến, tuyên truyền và giải thích cho cán bộ, nhân dân, doanh nghiệp và người lao động tại địa phương hiểu đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về Dự án luật nêu trên (tham khảo Báo cáo phục vụ tiếp xúc cử tri gửi kèm theo).
3. Tổ chức triển khai các biện pháp hữu hiệu và kịp thời để thực hiện các cam kết nêu trên, nhằm ổn định sản xuất và an toàn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn.
Trân trọng cám ơn sự hợp tác của Quý Ủy ban./.
- Như trên (gửi kèm theo Báo cáo);
- Thủ tướng Chính phủ;
- PTT Thường trực Trương Hòa Bình (để b/c);
- Ban Tuyên giáo Trung ương;
- Văn phòng Chính phủ;
- SKH&ĐT các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- BQL các KCN, KCX, KKT, KCNC tại các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Vụ QLKKT;
- Lưu: VT, Cục ĐTNN.
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Chí Dũng
VỀ CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ DỰ ÁN LUẬT ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
(Tài liệu phục vụ tiếp xúc cử tri sau kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV)
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Văn kiện Đại hội Đảng
(2) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được Đại hội XI thông qua năm 2011 yêu cầu: “... lựa chọn một số địa bàn có lợi thế vượt trội, nhất là ở ven biển để xây dựng một số khu kinh tế làm đầu tàu phát triển…”.
Nghị quyết của Trung ương
(2) Kết luận số 74-KL/TW ngày 17/10/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ghi rõ “Sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai thực hiện một số đề án thành lập khu hành chính - kinh tế đặc biệt".
(4) Nghị quyết số 11-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (tháng 6/2017) nêu rõ: “Xây dựng một số đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị”.
- Bộ Chính trị đã có nhiều thông báo, kết luận để chỉ đạo triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về nghiên cứu, thành lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trong đó, tại Thông báo Kết luận số 21-TB/TW ngày 22/3/2017, Bộ Chính trị “Đồng ý cho thành lập ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt: Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang)”.
Hiến pháp và Luật
khoản 8 Điều 84).
Điều 110). Khoản 9 Điều 70 và khoản 1 Điều 110 của Hiến pháp quy định đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quyết định thành lập; khoản 2 Điều 111 Hiến pháp quy định “cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Điều 14), Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (Điều 2, Điều 74 đến Điều 77), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Điều 4, Điều 29).
- Dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt được Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, chuẩn bị từ giữa năm 2013 sau khi được bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII theo Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội. Sau khi được Bộ Chính trị đồng ý cho thành lập ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt tại Kết luận số 21-TB/TW ngày 22/3/2017, cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã khẩn trương hoàn chỉnh dự án Luật để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10/2017).
- Trong quá trình xây dựng dự án Luật, Chính phủ đã thực hiện: (1) tổng kết, đánh giá hoạt động và tổng hợp chính sách hiện đang áp dụng đối với các mô hình Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu kinh tế, Khu công nghệ cao ở nước ta trong 25 năm qua; (2) nghiên cứu, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về các mô hình đặc khu kinh tế (ĐKKT) của 13 quốc gia, vùng lãnh thổ; (3) khảo sát, đánh giá tiềm năng, lợi thế và nghiên cứu đề xuất chính sách đặc thù của từng đặc khu; (4) tổ chức lấy ý kiến góp ý của 26 cơ quan, tổ chức có liên quan, tham vấn ý kiến của các tổ chức tư vấn quốc tế có uy tín và lấy ý kiến nhân dân trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Quốc hội; (5) tổ chức nghiên cứu đánh giá tác động của các cơ chế, chính sách quy định tại Luật về mặt kinh tế, xã hội, bình đẳng giới, thủ tục hành chính và hệ thống pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Quá trình thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật
- Ngay sau kỳ họp thứ 4, UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp chặt chẽ với Cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu ý kiến các vị ĐBQH, chỉnh lý dự thảo Luật; đồng thời, tổ chức các cuộc làm việc với đại diện các Ủy ban của Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương có liên quan, tổ chức một số hội thảo, tọa đàm với các chuyên gia, nhà khoa học, viện nghiên cứu; xin ý kiến tại Hội nghị ĐBQH chuyên trách; gửi dự thảo Luật đã được chỉnh lý để xin ý kiến Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, 63 Đoàn ĐBQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Ủy ban nhân dân 03 tỉnh Quảng Ninh, Khánh Hòa và Kiên Giang. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đã tổ chức Hội nghị phản biện xã hội đối với dự thảo Luật.
So với dự thảo Luật trình tại kỳ họp thứ 4, dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 đã được tiếp thu, chỉnh sửa, hoàn thiện hơn về nhiều nội dung về: quy hoạch; các cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức bộ máy chính quyền địa phương; các nội dung về phân cấp, phân quyền cho chính quyền đặc khu, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương cấp tỉnh và nhiều nội dung khác nhất là thu hút công nghệ cao, chống biến đổi khí hậu, công nghiệp sáng tạo, tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm đáp ứng yêu cầu tạo lập mô hình phát triển mới có tính đột phá cho đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt nhưng phải tăng giám sát, kiểm tra. Các quy định trong dự thảo Luật được tiếp thu trên cơ sở nguyên tắc phải bảo đảm tính vượt trội, đủ sức cạnh tranh quốc tế, có thể khác với các luật hiện hành nhưng phải trong khuôn khổ Hiến pháp đặc biệt là phải đáp ứng yêu cầu về chủ quyền quốc phòng, an ninh quốc gia, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.
Tuy nhiên, đây là dự án Luật mới, phức tạp, chưa có tiền lệ; nhiều quy định về cơ chế, chính sách trong dự thảo Luật mang tính đổi mới, đột phá cả về tổ chức bộ máy và định hướng phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc khoa học công nghệ 4.0 đang phát triển; sau phiên thảo luận tại Hội trường có ý kiến đóng góp của một số đại biểu Quốc hội, các cán bộ lão thành, chuyên gia, nhà khoa học và cử tri về một số nội dung của dự án Luật còn khác nhau.
4. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật
4.1. Về quy hoạch
4.2. Về chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã và đang tiếp thu chỉnh sửa theo hướng
Thứ hai, xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh công khai, minh bạch, cạnh tranh thuận lợi thông qua thu hẹp các ngành, nghề cần thiết phù hợp về đầu tư kinh doanh có điều kiện gắn với yêu cầu thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà đầu tư; cho phép lựa chọn áp dụng các quy định theo tập quán quốc tế đối với hợp đồng dân sự, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài; cho phép nhà đầu tư được lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh tại đặc khu, trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài tại Tòa án nước ngoài đồng thời có quy định chặt chẽ việc áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế và việc công nhận, cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được gây phương hại đến quốc phòng, an ninh chủ quyền quốc gia, truyền thống văn hóa lịch sử, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật và không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam. Đơn giản hóa thủ tục đầu tư kinh doanh tại đặc khu, phân quyền mạnh cho Chủ tịch UBND đặc khu nhưng kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong việc xem xét, chấp thuận dự án đầu tư, rút ngắn thời gian cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nhưng có cơ chế giám sát chặt chẽ;
Thứ tư, xây dựng chính sách huy động mọi nguồn lực xã hội, trong đó ưu tiên nguồn lực từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước và hỗ trợ có điều kiện từ ngân sách nhà nước và chỉ là "vốn mồi" do Quốc hội xem xét, quyết định để đầu tư xây dựng một số ít công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công nghệ cao, bền vững, hạ tầng xã hội cấp thiết và giữ gìn môi trường quan trọng của đặc khu;
Thứ sáu, chính sách phát triển các ngành dịch vụ, du lịch thông qua cho phép bán hàng miễn thuế; thực hiện miễn thị thực có thời hạn và cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài như đang thí điểm; cho phép các hãng hàng không quốc tế được phép vận chuyển hàng không quốc tế kết hợp nhiều điểm, trong đó có ít nhất một điểm đến hoặc một điểm đi tại đặc khu;
Thứ tám, chú trọng các chính sách về lao động, an sinh xã hội; quản lý chặt chẽ lao động nước ngoài, nhất là lao động phổ thông.
Chương IV dự thảo Luật quy định về tổ chức chính quyền địa phương và cơ quan khác của Nhà nước ở đặc khu. Theo đó, chính quyền địa phương; ở đặc khu gồm HĐND và UBND được tổ chức tinh gọn, được phân quyền thực hiện nhiều thẩm quyền của các cơ quan nhà nước cấp trên nhằm bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các yêu cầu của người dân, nhà đầu tư; thẩm quyền quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội được tập trung cho Chủ tịch UBND đặc khu, gắn với trách nhiệm cá nhân.
II. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN NỘI DUNG CỦA DỰ THẢO LUẬT ĐƯỢC CỬ TRI QUAN TÂM
Gần đây, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới vẫn tiếp tục thành lập thêm các đặc khu hoặc hoàn thiện các thể chế, chính sách áp dụng cho các đặc khu hiện có như Trung Quốc (thành lập ĐKKT Tiền Hải (2013); Hùng An (2017) và bổ sung chính sách ĐKKT Hải Nam (tháng 5/2018)); Thái Lan (2015); Myanmar (2015); Nhật Bản (2015), Thành phố Quốc tế tự do Jeju Hàn Quốc (2011). Ấn Độ hiện có 221 ĐKKT (đến tháng 9/2017). Vẫn có nhiều nước trên thế giới đang tiếp tục xây dựng các đặc khu kinh tế để phát triển thí điểm thể chế,
2. Lý do lựa chọn xây dựng 3 đặc khu
Tuy nhiên, để bảo đảm chủ quyền, quyền và lợi ích của phía Việt Nam, dự thảo Luật quy định chặt chẽ việc áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế và việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật và không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam và đặc biệt là chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Các quy định tại Luật đã được nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý đảm bảo chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc phòng của đặc khu và của quốc gia. Đồng thời một số nội dung của Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý chặt chẽ hơn như:
- Về quy định sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài: Để đảm bảo thận trọng, ngoài việc phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành của Luật Nhà ở năm 2014, dự thảo Luật quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài không được sở hữu nhà ở tại khu vực an ninh, quốc phòng theo quy hoạch đặc khu; thu hẹp đối tượng cá nhân người nước ngoài được quyền sở hữu (chỉ bao gồm: nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia giỏi của thế giới) và sẽ quy định giới hạn tỷ lệ số lượng nhà ở mà tổ chức, cá nhân nước ngoài có cùng một quốc tịch được sở hữu tại một chung cư, một khu vực hoặc tuyến phố để đảm bảo không hình thành những khu phố tập trung người nước ngoài có cùng quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống (Điều 34).
- Về xây dựng các Đề án bảo đảm quốc phòng, an ninh: Thực hiện kết luận của Bộ Chính trị, từ đầu năm 2017 Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao và chỉ đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an xây dựng các Đề án bảo đảm quốc phòng; an ninh và trật tự, an toàn xã hội trong các đặc khu. Sau khi Luật được ban hành, Thủ tướng Chính phủ sẽ phê duyệt các Đề án này để đáp ứng yêu cầu triển khai thi hành Luật nhằm đảm bảo vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
- Việc xây dựng các đặc khu tại Việt Nam là để thí điểm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đổi mới phát triển kinh tế nhanh, bền vững kinh tế xanh, kinh tế tri thức, công nghiệp sáng tạo, là một cực ứng phó biến đổi khí hậu; cải cách thủ tục hành chính đơn giản cho doanh nghiệp và người dân; quản lý xã hội chặt chẽ, phương pháp quản lý hiện đại, khoa học, tiên tiến, tư pháp chặt chẽ đảm bảo chủ quyền.
File gốc của Công văn 4424/BKHĐT-ĐTNN năm 2018 về bảo đảm an ninh, an toàn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành đang được cập nhật.
Công văn 4424/BKHĐT-ĐTNN năm 2018 về bảo đảm an ninh, an toàn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Kế hoạch và Đầu tư |
Số hiệu | 4424/BKHĐT-ĐTNN |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Nguyễn Chí Dũng |
Ngày ban hành | 2018-06-28 |
Ngày hiệu lực | 2018-06-28 |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng | Còn hiệu lực |