CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 29 NGÀY 12 THÁNG 3 NĂM 1947
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ
Chiểu Nghị định số 1 ngày 1 tháng 10 năm 1945 sửa đổi bởi Nghị định số 5 ngày 23 tháng 11 năm 1945 của Bộ trưởng Bộ Lao động về thời hạn báo trước khi thải hồi công nhân;
Chiểu Sắc lệnh số 55 ngày 20 tháng 4 năm 1945 về việc cho các công nhân được nghỉ mà được ăn lương ngày lễ lao động mùng 1 tháng 5;
Sau khi các nguyên tắc đã được Quốc hội thông qua;
RA SẮC LỆNH:
Mục đích Sắc lệnh này là để qui định trong toàn cõi Việt Nam những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ nhân, người Việt Nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt Nam làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do.
Công việc cưỡng bách là những công việc người ta không thuận làm mà bị ép phải làm.
Cấm hẳn những sự mộ nhân công theo cách thức dụ dỗ hoặc cưỡng bách.
"Công nhân" là người làm thuê với một người chủ để lấy tiền và thuộc quyền điều khiển của người chủ.
"Gia nhân" là những người mà chủ thuê để giúp việc trong nhà.
"Người làm công" là những người không làm việc thủ công mà chủ mượn để giúp mình về công việc thương mại, kỹ nghệ, nông lâm hay nghề tự do.
"Phu" là người làm việc bằng tay mà không chuyên một nghề rõ rệt.
"Nhà tiểu công nghệ" (hay thủ công nghệ) là người dùng thủ Công làm lấy cho mình, hay làm thuê cho người khác hoặc làm ở nhà mình, hoặc làm ở nơi khác, bất cứ dùng máy hay không, có cửa hàng, biển hiệu hay không, chuyên bán những hoá phẩm tự mình làm ra, hoặc làm một mình, hoặc có vợ con, thợ bạn hay thợ học nghề giúp việc.
Tính cách "thợ học nghề" định bởi:
2- Sự thuận nhận của chủ cho học nghề.
Không được dùng trẻ con dưới 12 tuổi (tính theo dương lịch) làm thợ học nghề. Đến 18 tuổi phải kể là thợ chính thức, trừ những trường hợp nói ở Điều thứ 14 dưới đây.
Những thợ học nghề từ 16 đến 18 tuổi không có khế ước, hay có khế ước mà không ấn định học nghề, nếu tự xét mình đã lành nghề mà chủ không chịu công nhận như vậy, có thể xin Ty Lao động địa phương đưa ra một hội đồng chuyển nên khảo xét. Nếu được hội đồng công nhận đã đủ tư cách, thì chủ phải nhận là đã thành thợ.
Nếu hội đồng xét quả thật chưa lành nghề, thì những người ấy chưa được coi là thợ.
Những người quá 18 tuổi, muốn học nghề và được chủ thuận nhận, cũng phải xin phép hội đồng khảo xét nói trên. Hội đồng này sẽ cấp giấy phép nếu xét không có sự gian lậu.
Trừ các xưởng tiểu công nghệ, Số thợ học nghề trong xí nghiệp không được quá một phần tư tổng số thợ kể cả thợ học nghề.
Bắt buộc các hãng kỹ nghệ, hầm mỏ hay thương điếm nào dùng từ 30 người thợ chuyên nghiệp trở lên phải dậy một số thợ học nghề bằng 1 phần 10 số thợ chuyên nghiệp.
Chương trình những lớp học này sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục ấn định.
Khế ước làm công phải theo dân luật. Chủ và công nhân có thể giao kết bằng miệng, hoặc ký kết trên mặt giấy. Khi viết thành giấy, thì được miễn tem và thuế trước bạ. Khế ước có thể lặp theo tục lệ địa phương. Nếu chỉ giao kết bằng miệng thì như chủ với công nhân đã theo những điều khoản ấn định trong Sắc lệnh này và những tục lệ riêng của nơi sở tại.
Chủ chỉ có thể thuê công nhân trong một thời hạn, hay để làm một việc gì nhất định.
Nếu như không có ước định trước, thời hạn làm việc sẽ theo tục lệ nơi sở tại.
Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ và thương điếm dùng quá 25 công nhân phải lập một bản nội quy.
Nội qui đã duyệt y phải niêm yết bằng tiếng Việt Nam tại nơi làm việc, cửa hàng, nơi trả tiền công và nơi tuyển người làm.
Đối với việc làm công không định hạn thì chủ và thợ, bất cứ lúc nào, cũng có thể tự mình thôi được. Nhưng phải báo trước trong thời hạn và trường hợp do Bộ trưởng Bộ Lao động ấn định.
Bên nào tự ý bãi khế ước có thể phải bồi thường cho bên kia.
Khi có sự thay đổi về phương diện pháp luật của xí nghiệp, nhất là khi có sự kế thừa, bán chác, hợp vốn, cải cách hình thức, v.v... thì chủ mới phải thi hành cho xong khế ước của chủ cũ.
Chủ hãng nào thôi không kinh doanh nữa, vẫn phải tuân lệ báo trước.
Chủ và thợ, không được cam kết trước sẽ không đòi những tiền bồi thường nói trong Điều thứ 24. Về phương diện pháp luật, những tiền bồi thường ấy, đối với công nhân, được coi như tiền lương. Những chủ nợ, kể cả chủ người công nhân bị thải, chỉ được trừ nợ theo như dân luật.
1- Khi xét đích là người chủ mới có can dự vào sự thôi việc
3- Khi người chủ mới cứ mượn người công nhân mặc dầu biết khế ước của người này với chủ cũ chưa hết hạn.
Giấy chứng nói trên được miễn tem và trước bạ.
Khi chủ hay một công nhân bị gọi ra chịu huấn luyện quân sự, hay làm phận sự binh bị trong một thời hạn, thì khế ước làm công không được vì lẽ ấy mà bãi bỏ.
Nếu vì một duyên cớ chính đáng mà muốn bãi khế ước thì thời gian chịu huấn luyện quân sự hay làm phận sự binh bị không được tính vào thời hạn báo trước.
Công nhân đàn bà phải báo trước cho chủ biết duyên cớ mình nghỉ việc: chủ có thể nhờ thầy thuốc xét xem có đích thực không.
(Nói về cai khoán)
"Cai khoán" là người thầu lại với người thầu khoán chính, người chủ công nghệ, v.v..., để cung cấp công nhân, vật liệu hay để làm một công tác đã định.
a) Lương tối thiểu hiện thi hành trong miền đó,
Nếu những nơi làm việc nói trên không thuộc của chủ chính thì người cai khoán, ngoài 2 điều nói trên, phải yết thêm tên và chỗ ở của người chủ chính. Người cai khoán phải nộp cho người chủ chính một tờ nhận thực đã thi hành các khoản trên. Người chủ chính phải gửi một bản sao lại cho ty Lao động địa phương.
Người chủ chính phải thế người cai khoán trả cho công nhân tiền lương, các khoản phụ cấp, tiền bồi thường mà họ được hưởng theo SSắc lệnh này, nếu người cai khoán không thể trả được.
Nếu có công nhân nào khiếu nại người cai khoán, thì người chủ chính phải báo cho Ty Lao động địa phương biết.
Những xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và những công trường nào dùng cai khoán đều phải có bản danh sách và địa chỉ những người ấy để trình cho nhân viên kiểm soát của Ty Lao động.
Cấm hẳn chế độ ăn công làm khoán. Theo chế độ này người công nhân bắt buộc phải làm xong một công việc đã định nới được cả số lương hàng ngày.
Tập hợp khế ước là những khế ước lập ra để ấn định những quy tắc làm việc và tiền lương chung cho từng nghề, từng xí nghiệp hay từng địa phương, do sự thoả thuận của chủ hay đại biểu chủ và công nhân hay đại biểu công nhân.
Đại biểu công đoàn không cần có giấy uỷ quyền riêng của đoàn viên cũng có thể thay mặt họ mà ký tập hợp khế ước.
Phòng lục sự sẽ phát biên lai. Hai mươi bốn giờ sau ngày phòng lục sự đã nhận được bản chính, tập hợp khế ước sẽ có hiệu lực.
Trong những tập hợp khế ước ký kết giữa đại biểu chủ và công nhân nhiều xí nghiệp phải định rõ phạm vi thi hành của bản giao kèo ấy. Bằng không, tập hợp khế ước sẽ thi hành trong khu vực thẩm quyền của toà án mà phòng lục sự đã nhận được một bản chính.
1- Để thi hành trong một thời hạn mà hai bên đã định rõ. Thời hạn này không bao giờ được quá 3 năm.
Nếu không có định rõ thời hạn thi hành thì lúc nào cũng có thể xin huỷ bỏ tập hợp khế ước. Nhưng bên muốn xin huỷ tập hợp khế ước phải cho bên cùng ký khế ước và phòng lục sự đã nhận tập hợp khế ước, biết trước một tháng. Tập hợp khế ước nào đã hết hạn mà chủ và công nhân chưa thủ tiêu, hay sửa chữa, thì vẫn tiếp tục thi hành sáu tháng sau. Hết hạn này, tập hợp kế ước sẽ coi như là một tập hợp khế ước không có định hạn.
Đối với tập hợp khế ước không định hạn, mà lại không định rõ cách thức sửa đổi, thì bất cứ lúc nào chủ hoặc thợ đều có thể yêu cầu Ty Lao động cho triệu tập hai bên để sửa đổi.
Giấy khai này cũng phải nộp cho Ty Lao động.
Tập hợp khế ước có hiệu lực đối với:
Những đoàn viên nào không có xin ra khỏi công đoàn và nếu ra khỏi công đoàn mà không có báo cho phòng lục sự biết trong năm ngày sau ngày nộp tập hợp khế ước tại Phòng Lục sự, cũng phải thi hành tập hợp khế ước.
3- Tất cả những người đã gia nhập sau vào công đoàn mà đại biểu đã ký tập hợp khế ước.
5- Những chủ lấy tư cách cá nhân đã ký kết.
Những người hay đoàn có tư cách pháp nhân bị thiệt hại có thể kiện những người hay đoàn có những hành vi tổn hại nói trên để đòi bồi thương. Những đoàn có thể kiện đòi bồi thường những đoàn viên nào của mình có những hành vi ấy.
Công đoàn có tư cách pháp nhân có thể thay mặt một đoàn viên bị thiệt hại để kiện đòi bồi thường mà không cần phải có giấy uỷ quyền. Chỉ phải báo trước và được sự ưng thuận của người ấy. Người này vẫn có quyền tham dự vào việc kiện.
Khi có những việc kiện tụng nói ở 2 Điều trên những đoàn có tư cách pháp nhân cùng thuộc phạm vi thi hành tập hợp khế ước với người hoặc đoàn đứng kiện hay bị kiện đều có thể tham dự vào những việc kiện ấy.
Trong tập hợp khế ước có thể định sẽ để cho trọng tài xét xử những sự xích mích xẩy ra do việc thi hành khế ước. Cách thức chọn trọng tài do hai bên thoả thuận định lấy, nhưng trọng tài phải có quốc tịch Việt Nam.
Nếu có người xin, những phòng lục sự toà án có nhiệm vụ cho xem những tập hợp khế ước cùng những tờ khai đã nộp nơi phòng ấy. Những phòng này có thể cấp những bản sao y bản chính.
Nếu xét ra cần Bộ trưởng Bộ Lao động có thể định rõ chi tiết việc thi hành những điều khoản trong tiết này.
TIỀN KÝ QUỸ ĐỂ BẢO ĐẢM CHO CHỦ TRONG NHỮNG VIỆC THÂU XUẤT TIỀN BẠC
Trong nghề nào mà công nhân phải ký quỹ tiền thì số tiền đó phải nộp thẳng vào quỹ tạm ký của Công khố Quốc gia. Người gửi tiền phải nói rõ ký quỹ cho chủ hay xí nghiệp nào. Quỹ nhận tiền sẽ cấp giấy biên lai đề rõ số tiền gửi, người gửi và ký quỹ cho ai, hay cho xí nghiệp nào.
Nếu công khố có cấp lãi cho số tiền gửi thì công nhân được hưởng món lãi đó.
Chủ được hưởng "ưu tiên quyền" về số tiền ký quỹ. Nếu có sự bất đồng ý giữa chủ và công nhân về tiền ký quỹ, thì phải khiếu nại tại Toà án.
Nếu xét ra cần, Bộ trưởng Bộ Lao động có thể định rõ chi tiết việc thi hành những điều khoản nói trong tiết này.
Tiền công nói trong tiết này là tiền lương chính không kể các khoản phụ cấp, mà chủ đã hứa trả hay đã ghi trong khế ước.
Những phụ cấp hay tiền thưởng đặc biệt như phụ cấp làm được nhiều việc và tiền chia lãi, sẽ trả ngoài số lương chính.
Công nhân đàn bà hay trẻ con mà làm một công việc công nhân đàn ông đều được lĩnh tiền công bằng số tiền công đàn ông.
Tiền công tối thiểu là số tiền công do chính phủ ấn định theo giá sinh hoạt, để một công nhân không chuyên nghiệp sinh sống một mình, trong một ngày, ở một khu vực nhất định.
Tiền công tối thiểu cốt để cho các chủ lấy đó làm định lương cho các hạng công nhân. Bất luận trường hợp nào không được trả lương công nhân ít hơn lương tối thiểu này sẽ định riêng cho người nhớn và trẻ con dưới 15 tuổi hình thức nói ở điều sau.
Bộ Lao động sẽ hỏi ý kiến Uỷ ban hành chính kỳ về đề nghị của những Hội đồng nói trên trước khi ra nghị định ấn định lương tối thiểu.
Nếu làm khoán từng kiện, bất luận là làm ở xưởng hay ở nhà, tiền công từng kiện phải tính thế nào cho một người thợ trung bình làm trong một ngày, theo số giờ định trong luật, có thể kiếm ít ra bằng số tiền công tối thiểu định ở các Điều trên.
Tiền công tối thiểu phải niêm yết luôn bằng tiếng Việt Nam tại các nơi làm việc, các phòng trả lương và tuyển người làm.
Các bản điều lệ cho đấu giá các công tác công chính hoặc cho đấu giá việc cung cấp vật liệu cho Chính phủ phải có những khoản bắt buộc người thầu khoán định rõ sự thi hành tập hợp khế ước và lương tối thiểu cho công nhân.
Nếu xét ra cần, Bộ trưởng Bộ Lao động có thể định rõ chi tiết việc thi hành những điều khoản nói trong tiết này.
Tuy nhiên, nếu được công nhân ưng thuận, chủ có thể trả một phần tiền công bằng gạo hay hoá phẩm cần thiết khác, theo giá của Chính phủ đã định. Nếu như không có giá của Chính phủ định, thì phải theo giá hiện hành ở thị trường nơi sở tại.
Tiền công tháng phải trả mỗi tháng 2 kỳ, cách nhau 15 ngày.
Nếu vô cớ mà chủ chậm trả tiền công, thì Thanh tra Lao động sẽ can thiệp bắt chủ phải trả trong một thời hạn nhất định. Nếu hết hạn mà vẫn chưa trả thì thanh tra lao động lập biên bản, không phải lệ phí, đưa trình thẩm phán sơ cấp hoặc đệ nhị cấp tuỳ theo số tiền công nhận trả. Thẩm phán sẽ xét theo thủ tục cấp thẩm. Khi nào cấp bách đặc biệt, Thẩm phán đệ nhị cấp có thể ra lệnh thi hành mọi phương pháp bảo thủ quyền lợi cho công nhân và có thể cử một người tạm quản lý công việc thay chủ.
Cấm phạt vào tiền công.
Chủ cho công nhân vay tiền, hoặc ứng tiền để cung cấp vật dụng cho công nhân, mỗi lần trừ không được quá một phần mười (1/10) số lương tháng.
Tất cả công nhân đều được phụ cấp gia đình.
Những con ruột hay con nuôi đã được công nhận hợp pháp, chưa tự kiếm ăn được, mà cha mẹ có phận sự phải nuôi, đều được hưởng phụ cấp này.
Tiền phụ cấp này sẽ do Sắc lệnh Chính phủ định sau.
Phụ cấp gia đình sẽ trả cho người cha hay mẹ đang phải nuôi con.
Nếu người cha mất đi, thất nghiệp, hay coi như mất tích, thì người mẹ sẽ được lĩnh phụ cấp.
Để trả khoản phụ cấp gia đình, chủ phải đóng vào một quỹ do Sắc lệnh Chính phủ định sau, một số tiền tỷ lệ đối với số tiền lương tổng cộng phải trả cho tất cả công nhân làm trong xí nghiệp.
Tiền phụ cấp gia đình phải trả đủ cho công nhân không được vì một lẽ gì mà phạm đến món tiền ấy.
Công nhân Việt Nam, phải được chủ trả phụ cấp thâm niên khi bị thải hồi, trừ những trường hợp sau đây:
2- Bị thải vì đã phạm một trọng tội về hình luật.
Những công nhân đã làm được 15 năm trở lên mà xin thôi để dưỡng lão và những công nhân vì sức yếu không thể làm việc được nữa mà phải xin thôi cũng được hưởng phụ cấp nói trên.
Nếu có sự kháng cáo về giấy chứng nhận ấy thì sẽ đem ra một Hội đồng thầy thuốc định đoạt. Hội đồng này sẽ đặt dưới quyền Chủ tịch của một thầy thuốc khác của Chính phủ và có hai thầy thuốc do chủ và công nhân viện ra làm hội viên. Công nhân nào không có thầy thuốc, sẽ xin Chính phủ cử ra một người.
Đối với công nhân quá cố tiền phụ cấp thâm niên sẽ trả cho các con người ấy. Nếu không có con thì người chồng hay vợ còn sống được quyền hưởng.
Các thợ học việc không được hưởng phụ cấp thâm niên. Những khi lành nghề mà vẫn làm với chủ, thì thời gian tập việc cũng tính vào hạn thâm niên.
Tiền phụ cấp thâm niên tính như sau;
Phụ cấp thâm niên phải trả riêng không lẵn với tiền bồi thường khi thải hồi mà không báo trước.
Những điều khoản nói trên có cả hiệu lực đối với dĩ vãng nếu công nhân bị thải, xin thôi hay quá cố, sau ngày ban hành Sắc lệnh này.
Tuy nhiên đối với thời hạn của công nhân làm việc trước ngày ban hành Sắc lệnh này, chủ chỉ phải trả cho công nhân lúc xin thôi, bị thải hay quá cố một món phụ cấp không quá 10 năm thâm niên.
Những giao kèo, nội lệ, hay quỹ trữ phòng của xí nghiệp nào đã đảm bảo cho công nhân khi xin thôi hay bị sa thải một số tiền bằng hay nhiều hơn tiền phụ cấp thâm niên đã định ở những điều khoản trên, thì vẫn thi hành. Xí nghiệp ấy không phải trả phụ cấp thâm niên nữa.
Nay bãi bỏ 2 nghị định về phụ cấp thâm niên số 2 ngày 1 tháng 10 và số 4 ngày 12 tháng 10 năm 1945, của Bộ trưởng Bộ Lao động.
Để khuyến khích công nhân trong các ngành kỹ nghệ và thương mại,có thể định cho công nhân tham gia vào việc chia lãi hàng năm.
Chủ một xí nghiệp hoặc người thay quyền, nếu muốn lập một kho tiếp tế riêng cho các công nhân thuộc xí nghiệp của mình thì phải theo những điều kiện nói sau đây:
2- Thực phẩm hoặc hoá phẩm bán cho công nhân phải tính theo giá vốn (giá mua cộng với các khoản tiền phí tổn).
4- Việc bán hàng không phải là một nguồn lợi cho chủ hay người quản lý.
6- Kế toán của kho tiếp tế phải hoàn toàn tự trị không thuộc vào việc kế toán của xí nghiệp.
Cấm những cai thầu không được trực tiếp hoặc gián tiếp lập những kho tiếp tế.
Giá những thực phẩm và hoá phẩm phải niêm yết rõ ràng bằng tiếng Việt Nam ở nơi bán các phẩm vật ấy.
Các nhân viên kiểm soát của Ty Lao động đều có quyền khám những kho tiếp tế. Nếu xét thấy trái với các điều nói trên thì các nhân viên này có thể xin Bộ trưởng Bộ Lao động đình chỉ việc hoạt động của kho tiếp tế.
VIỆC MỘ CÔNG NHÂN VÀ SỰ THIẾT LẬP CÁC PHÒNG TÌM VIỆC CHO CÔNG NHÂN
Thể lệ việc mộ công nhân sẽ do một Sắc lệnh ấn định sau.
Tại những đô thị nào xét ra cần, thì các Uỷ ban hành chính kỳ có thể ban bố nghị định thiết lập những phòng tìm việc giùm cho công nhân. Những Nghị định này trước khi thi hành phải được Bộ trưởng Bộ Lao động duyệt y.
KHAI TRÌNH VỀ VIỆC DÙNG NHÂN CÔNG TRONG CÁC XƯỞNG KỸ NGHỆ, HẦM MỎ HAY THƯƠNG ĐIẾM
Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ hay thương điếm, các xưởng gia đình, tiểu công nghệ dùng quá 10 công nhân đều phải khai cho Ty Lao động địa phương biết, trong hạn 15 ngày sau khi thành lập.
1- Xí nghiệp nào đã thôi kinh doanh quá 6 tháng, nay lại tiếp tục,
3- Xí nghiệp nào đang làm mà dọn đi nơi khác hoặc sửa đổi, hoặc khuếch trương khiến cho việc kỹ nghệ hay thương mại đó thay đổi khác trước,
5- Xí nghiệp nào trước chưa dùng máy mà nay lại dùng đến.
Các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ và thương điếm không được mượn trẻ con dưới 12 tuổi dương lịch.
Các Ty Lao động có thể yêu cầu 1 viên thầy thuốc nhà nước xét xem trẻ con hay thiếu niên từ 12 tuổi đến 18 tuổi dùng trong các xí nghiệp đã nói trên có đủ sức làm các công việc của chủ giao cho không.
Thời hạn làm việc của công nhân, đàn ông hay đàn bàm bất kỳ tuổi nào, không được quá 48 giờ một tuần lễ.
Về những công việc làm dưới hầm mỏ hoặc trong những xưởng kỹ nghệ có hại có sức khoẻ, thì giờ công nhân phải có mặt ở nơi làm việc không được quá 45 giờ một tuần lễ.
Thì giờ công nhân có mặt ở các hầm mỏ tính như sau này:
b) Trong các mỏ xuống bằng đường hầm thì tính từ lúc vào đường hầm cho đến lúc ra khỏi mặt đất.
Sau khi thoả thuận với công nhân, chủ có thể xin Ty Lao động cho phép làm thêm giờ, để bù vào những giờ mất đi vì:
2- Công việc trong sở bị đình trệ do những duyên cớ bất thường, nhất là vì thời tiết không thuận hay vì những ngày lễ, hội hè, cùng là những việc khác xảy ra trong miền. Tuy vậy, những giờ làm phụ đó mỗi năm, mỗi người làm, không được quá 100 giờ.
Những giờ được phép làm thêm nói ở Điều 103 phải trả theo lương phụ cấp.
Trong thời kỳ chiến tranh, hay vì sự khẩn cấp chung của quốc gia, thì giờ làm việc có thể tăng quá hạn định ở những điều trên; biến lệ này sẽ do sắc lệnh của Chính phủ ấn định.
Con trai chưa đến 18 tuổi, đàn bà, con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi, làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm đều không được làm đêm. Phàm công việc nào làm trong khoảng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng đều là công việc làm đêm.
Thì giờ nghỉ đêm của công nhân con trai dưới 18 tuổi và của đàn bà, con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi, ít ra phải được 11 giờ liền. Tuy nhiên, gặp các trường hợp nói ở hai điều sau đây có thể rút xuống còn 10 giờ:
Đối với những xí nghiệp dùng các nguyên liệu hay những chất đang biến hoá, không thể để lâu được thì Bộ trưởng Bộ Lao động sẽ ra nghị định cho những nhà kỹ nghệ đó được tạm thời dùng thì giờ làm đêm dễ dàng hơn thể lệ nói trên.
Gặp công việc khẩn cấp phải làm ngay để ngăn ngừa tại nạn sắp đến hoặc để tổ chức việc cứu vãn hay sửa chữa các khí cụ, vật liệu, nhà cửa bị tai nạn làm hư hỏng, thì hạn làm việc của công nhân con trai dưới 18 tuổi và đàn bà con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi, có thể tăng quá giới hạn đã định ở Điều 107.
Trong những trường hợp nói trên phải trả phụ cấp cho những giờ làm đêm.
Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Lao động, sau khi hỏi ý kiến các cơ quan chuyên môn, có thể ra nghị định cho phép dùng đàn bà, trẻ con dưới 18 tuổi làm đêm theo những điều kiện của nghị định ấy.
Mỗi tuần lễ công nhân phải được nghỉ 24 giờ liền.
Tất cả công nhân đều được nghỉ việc và được hưởng lương như ngày làm việc trong những lễ chính thức kể sau đây:
2- ????
4- Ngày mồng 1 tháng giêng dương lịch,
6- Ngày Thiên chúa giáng sinh.
Khi công việc sở hay xí nghiệp nào không thể tạm ngừng lại được thì những công nhân phụ trách thường trực trong những ngày nghỉ nói ở điều trên được lĩnh gấp đôi lương.
Những công nhân ăn lương tháng mà phải đi thường trực thì tiền phụ cấp về những ngày nghỉ ấy sẽ tính là 1/25 số lương tháng.
Khi một ngày hay nhiều ngày lễ chính thức nói trên nhằm vào ngày nghỉ hàng tuần thì công nhân chỉ được lương nếu hợp đồng hay nội quy của sở hay xí nghiệp có cho ăn lương cả ngày nghỉ hàng tuần. Những công nhân đi thường trực sẽ được lương thường nếu nội quy hay hợp đồng của sở hay xí nghiệp không cho lương ngày nghỉ hàng tuần. Họ sẽ lĩnh gấp đôi nếu họ được lương ngày nghỉ hàng tuần.
Những công nhân làm khoán, tính kiện ăn công thì số lương những ngày nghỉ ấy sẽ tính theo số lương trung bình đã lĩnh hàng ngày trong 7 hôm trước ngày lễ chính thức.
LỆ NGHỈ CỦA ĐÀN BÀ ĐẺ VÀ ĐÀN BÀ CHO CON BÚ
Đàn bà nghỉ về thai sản được lĩnh trong thời hạn 8 tuần lễ nói ở Điều 31 nửa số tiền công kể cả phụ cấp.
Các giờ nghỉ cho con bú không được trừ vào hạn nghỉ thường lệ do Sắc lệnh này.
Nơi nào dùng 100 công nhân đàn bà phải lập một nhà để giữ trẻ con cần cho bú.
Công nhân hay thợ học nghề làm được một năm thì được nghỉ hàng năm ít nhất 10 ngày liền được cả lương và phụ cấp. Trong 10 ngày ấy, phải 8 ngày không là chủ nhật hay ngày lễ chính thức. Công nhân nào làm được 6 tháng được nghỉ ít nhất 5 ngày lĩnh cả lương và phụ cấp, mà 4 ngày không phải là chủ nhật hay ngày lễ chính thức.
Trước khi nghỉ hàng năm, công nhân được lĩnh trước số tiền công và cả mọi khoản phụ cấp đã nói trong điều trên, tính theo tiền công hàng ngày của họ.
Khế ước nào định rằng công nhân tình nguyện không hưởng lệ nghỉ hàng năm, đều kể là vô hiệu, dù chủ có cấp cho một số tiền bù vào cũng vậy.
LỆ NGHỈ CỦA CÔNG NHÂN KHI ỐM ĐAU
Công nhân khi ốm đau muốn xin nghỉ ăn lương phải có giấy chứng nhận của bác sĩ hoặc thầy thuốc.
Nếu bệnh không do một tai nạn lao động gây ra thì công nhân có quyền được nghỉ bệnh mà vẫn có lương, nhiều nhất là 20 ngày trong một năm.
Xí nghiệp nào đưa công nhân ốm đến bệnh viện tư hay công và chịu hết phí tổn như đã nói trên cũng không phải trả lương.
CÁC ĐIỀU KHOẢN RIÊNG CÔNG VIỆC LÀM DƯỚI HẦM MỎ
Đàn bà, con gái bất kỳ bao nhiêu tuổi và con trai dưới 15 tuổi không được dùng làm việc dưới hầm mỏ và trong những xưởng kỹ nghệ có hại cho sức khoẻ hay nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ Lao động ấn định.
Cấm không được dùng trẻ con chưa đến 15 tuổi tính theo dương lịch, để làm ả đào và vũ nữ.
VIỆC DÙNG NHÂN CÔNG NGOẠI QUỐC
Những người không có quốc tịch Việt Nam muốn làm ăn trên đất Việt Nam phải được Chính phủ Việt Nam cấp cho giấy phép trước. Những chủ muốn dùng công nhân ngoại quốc phải xin phép bộ trưởng Bộ Lao động.
Tỷ số nhân công ngoại quốc không được quá một tỷ số sẽ ấn định sau.
VỆ SINH VÀ BẢO AN CHO NGƯỜI LÀM
Các điều khoản ở chương này thi hành cho tất cả công nhân các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm bất luận tư hay công.
Các máy móc và dụng cụ phải xếp đặt và giữ gìn thế nào cho hợp sự bảo an.
Công nhân hay thợ học nghề làm trong các giếng mỏ, các ống dẫn hơi, các ống khói, các chuồng tiêu, các thùng máy chứa chất độc, v.v. .. đều phải có những dụng cụ thích hợp để bảo vệ sinh mệnh và tránh tại nạn.
Các động cơ phải đặt riêng biệt và có rào chắn. Các giàn cất để làm việc trên cao đều phải có tay vịn vững chắc. Các bộ phận máy đương chạy đều phải che chở hay đặt xa tầm tay thợ làm cho khỏi nguy hiểm. Các dây truyền điện đặt trong xưởng không cao quá 2 thước 50 cũng đều phải che chở như thế.
Nếu Bộ Lao động bác đơn khiếu nại thì thời hạn phải thi hành bắt đầu tính từ ngày chủ nhận được giấy thông đạt sự bác bỏ đó. Nếu hết kỳ hạn mà các phương pháp về vệ sinh và bảo an vẫn chưa thi hành thì lập biên bản lần thứ hai. Biên bản này sẽ đệ trình ông Thẩm phán đệ nhị cấp xử theo thủ tục cấp thẩm không mất lệ phí. Vị này sẽ ra lệnh thi hành những phương pháp cần thiết.
Nếu công nhân tự tìm được chỗ ở gần nơi làm thì chủ không phải trù liệu chỗ ở cho họ.
Gặp một vài trường hợp đặc biệt, nhất là trong những khi có bệnh dịch tả, chủ cũng có thể bị bắt buộc phải tạm trù liệu nhà cho công nhân ở.
Từ 2.000 trở lên phải có bệnh viện.
Những xí nghiệp nào bị bắt buộc có bệnh viện mà dùng nhiều công nhân đàn bà thì phải có phòng hộ sinh.
1- Những công việc coi là nguy hiểm, quá sức, đối với đàn bà trẻ con để cấm họ không được làm;
Thể lệ riêng về việc bảo vệ sức khoẻ và sinh mệnh cho công nhân các hầm mỏ sẽ do Bộ trưởng Bộ Lao động ấn định sau khi hỏi ý kiến các cơ quan chuyên môn.
Tại nạn lao động là những tai nạn xảy ra cho công nhân bỏ công việc làm hay công nhân khi làm công việc.
1- Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố nơi công đoàn đặt hội sở;
3- Ty Lao động tỉnh.
Sẽ nộp những giấy tờ nói trên cho Chủ tịch Uỷ ban hành chính và vị này có nhiệm vụ phát biên lai.
1- Có quốc tịch Việt Nam,
3- Phải có đủ quyền về dân luật.
Đàn bà có quyền vào công đoàn và có quyền tham dự vào ban quản trị.
B- PHÁP NHÂN TƯ CÁCH CỦA CÔNG ĐOÀN
Công đoàn có pháp nhân tư cách, có thể đối tụng trước toà án hay đứng nguyên đơn mỗi khi có việc gì xảy ra làm tổn hại gián tiếp hay trực tiếp đến quyền lợi chung của nghề nghiệp mà công đoàn đứng thay mặt.
Công đoàn có quyền thay mặt công nhân trong đoàn mình trước Toà án.
Công đoàn có thể mua hay nhận không cần xin phép, các động sản và bất động sản.
Công đoàn được tự do sáng lập và quản trị những phòng tìm việc và cung cấp nhân công. Công đoàn được tự do sáng lập, quản trị hay giúp đỡ những công cuộc có tính cách nghề nghiệp, như quỹ tương tế, phòng thí nghiệm, trường dạy về khoa học, canh nông, xã hội, hay lớp dạy nghề.
Công đoàn ??? do bác sỹ hay y sỹ của công đoàn điều khiển và cho giấy chứng nhận bệnh tật của đoàn viên.
Công đoàn có thể sáng lập hay giúp đỡ những hợp tác xã tiêu thụ sản xuất.
Các cơ quan của Chính phủ có thể hỏi ý kiến công đoàn về việc định giá sinh hoạt, định giá nhân công và mọi vấn đề có liên can đến nghề nghiệp mà công đoàn đứng thay mặt.
Những hội viên xin ra công đoàn vẫn có thể là những hội viên của các hội tương tế, mà họ đã đóng góp.
Trong điều lệ mỗi liên đoàn phải định rõ danh hiệu và hội sở của liên đoàn và cách thức bầu cử ban quản trị của liên đoàn.
Sau khi thành lập, liên đoàn hay tổng liên đoàn cũng được hưởng quyền hạn định trong những Điều từ 159 đến 16 ? trên đây.
Nếu tái phạm, Toà án sẽ phạt tù.
Nếu công đoàn hành động trái với điều lệ công đoàn, trái với những điều khoản trong chương này, hay có những hành vi tổn hại đến nền Dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam thì Biện lý nơi hội sở có quyền xin toà giải tán công đoàn hay liên đoàn và tịch thu của cải của những hội ấy để cấp cho một cơ quan cứu tế do Bộ Lao động ấn định.
Ở các ngành kỹ nghệ của quốc gia hay thuộc quyền quốc gia kiểm soát, công nhân có thể lập các uỷ ban công sở để trực tiếp giao thiệp với những cơ quan của Chính phủ.
QUYỀN TỰ DO KẾT HỢP VÀ BÃI CÔNG
Công nhân có quyền tự do kết hợp và bãi công.
Hễ phạm vào một trong các điều sau này thì phải phạt bạc từ 10đ đến 50đ và tái phạm thì phạt từ 51đ đến 100đ.
Điều thứ 15 và 16 về thể lệ hạn tuổi thợ học nghề và số thợ học nghề trong các xí nghiệp.
Điều thứ 33 về lệ niêm yết nói trong điều này.
Điều thứ 36 cấm chế độ ăn công làm khoán.
Điều thứ 62 về việc niêm yết số lương tối thiểu.
Điều thứ 72 cấm phạt vào tiền công.
Điều thứ 91, 92 và 93 về việc cấm cai thầu làm kho tiếp tế và bắt buộc yết thị giá thực phẩm bán tại các kho tiếp tế.
Điều 101 và 102 không tuân hạn giờ làm việc đã định.
Điều 112 không tuân hạn nghỉ hàng tuần.
Điều 124 và 126 không tuân hạn nghỉ hàng năm ăn lương,
Điều 146 về những việc nguy hiểm hay quá sức cho đàn bà, trẻ con.
Nếu phạm vào những điều sau này sẽ bị phạt bạc từ 101đ đến 200đ và tái phạm từ 201đ đến 1.000đ.
Điều 12 cấm dùng trẻ con dưới 12 tuổi làm thợ học nghề.
Điều 123 không trù liệu nơi cho công nhân đàn bà cho con bú.
Điều 131 cấm dùng trẻ con dưới 15 tuổi làm nghề ả đào hay vũ nữ.
Điều 133 và 134 không trù liệu những phương pháp về bảo an và vệ sinh.
Điều 143 không trù liệu nước ăn đủ vệ sinh cho công nhân.
Điều 145 không trù liệu thuốc men đề phòng và chữa bệnh sốt rét rừng.
Khi phạm vào luật lệ lao động mà không có những điều khoản riêng định trừng phạt thì sẽ bị phạt bạc từ 10đ đến 50 đ và nếu tái phạm từ 51đ đến 100đ.
Những chủ nào không chịu nộp tiền góp về phụ cấp gia đình cho công nhân sẽ phải phạt một số tiền gấp đôi số tiền phải góp.
Tuy nhiên, lần đầu mà phạm pháp như thế, thì tổng cộng số tiền phạt không được quá 500đ.
Ai làm ngăn trở các Bộ trưởng, Thanh tra, Kiểm soát hay Uỷ viên lao động, trong khi thi hành công vụ thì sẽ bị phạt bạc từ 100đ đến 1.000đ và nếu tái phạm thì bị phạt từ 1.000đ đến 10.000đ.
Để kiểm soát việc thi hành luật lệ lao động, một sắc lệnh sẽ lập những ngạch Thanh tra và Kiểm soát lao động cùng định rõ nhiệm vụ và quyền hành của những viên chức này.
Các Luật lệ, Nghị định, Thông tư trái với điều khoản đạo Sắc lệnh này đều bãi bỏ.
Hồ Chí Minh
(Đã ký)
File gốc của Sắc lệnh số 29/SL về việc quy định những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ nhân người Việt nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt nam làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành đang được cập nhật.
Sắc lệnh số 29/SL về việc quy định những sự giao dịch về việc làm công, giữa các chủ nhân người Việt nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt nam làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | |
Số hiệu | 29/SL |
Loại văn bản | Sắc lệnh |
Người ký | |
Ngày ban hành | 1947-03-12 |
Ngày hiệu lực | |
Lĩnh vực | Lao động |
Tình trạng | Đã hủy |