TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 297/2021/TLST – HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 106/2022/QĐST- HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Lê Thị Cẩm B, sinh năm 1995 (Vắng mặt).
Địa chỉ: ấp A, xã L, huyện D, tỉnh Bến Tre.
Chị B có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 18/3/2022.
- Bị đơn: Võ VĂn H, sinh năm 1995 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp N, xã H, huyện D, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 28/10/2021, bản tự khai ngày 27/01/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Cẩm B trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị B và anh H cưới nhau vào năm 2014 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Châu Hưng vào năm 2014. Thời gian đầu có hạnh phúc nhưng từ tháng 8 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng cờ bạc, vô tâm, bất đồng quan điểm thường xuyên cự cãi nhau và đã ly thân từ tháng 8 năm 2019 đến nay, trong thời gian ly thân chủ yếu gặp nhau để thăm con chứ không nói chuyện cũng không hàn gắn được.
Nay chị xác định không còn tình cảm với anh H nên yêu cầu được ly hôn.
- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Võ Lê Ngọc H, sinh ngày 23/10/2014, đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: không có.
* Đối với anh Võ VĂn H là bị đơn, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng anh đều vắng mặt, mặc dù anh vẫn còn sinh sống tại địa phương, nên không thu thập được lời khai của anh.
* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt là phù hợp quy định pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa là không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị B đối với anh H. Về con chung: Đề nghị giao cháu Võ Lê Ngọc H, sinh ngày 23/10/2014 cho chị B nuôi dưỡng. Ghi nhận chị B không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1]. Nguyên đơn chị Lê Thị Cẩm B có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 18 tháng 3 năm 2022, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị B là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 228; điểm a khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Võ VĂn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị B và anh H cưới nhau vào năm 2014 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Châu Hưng vào năm 2014 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh H được công nhận hợp pháp.
Nay chị B yêu cầu ly hôn, anh H vắng mặt nên không có lời khai. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị B đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng cờ bạc, vô tâm, bất đồng quan điểm thường xuyên cự cãi và đã ly thân từ tháng 8 năm 2019 đến nay, trong thời gian ly thân chủ yếu gặp nhau để thăm con chứ không nói chuyện cũng không hàn gắn được.
Hơn nữa, Toà án đã tiến hành mời chị B và anh H để hoà giải, nhằm cho các bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh H đã không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này.
Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị B và anh H đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị B là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị B và anh H có 01 con chung tên Võ Lê Ngọc H, sinh ngày 23/10/2014. Hiện đang sống với chị B. Khi ly hôn chị B yêu cầu nuôi con.
Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Hân, xét thấy từ trước đến nay cháu Hân sống với chị B, việc chị nuôi con chung vẫn phát triển bình thường. Mặt khác, tại thời điểm giải quyết ly hôn giữa chị B và anh H thì cháu đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống với chị B; nên để nhằm ổn định về tinh thần của con chung anh và chị và phù hợp với nguyện vọng của cháu Hân, cần để cháu Hân cho chị B nuôi dưỡng cũng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị B.
[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị B nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.
[5]. Về tài sản chung: Chị B khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.
[6]. Về nợ chung: Chị B khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.
[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại về quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Chị Lê Thị Cẩm B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228; điểm a khoản 1 Điều 238; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Cẩm B đối với anh Võ VĂn H.
Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Cẩm B và anh Võ VĂn H.
Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Cẩm B và anh Võ VĂn H chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung Võ Lê Ngọc H, sinh ngày 23/10/2014 cho chị Lê Thị Cẩm B trực tiếp nuôi dưỡng.
2.2. Ghi nhận sự tự nguyện chị Lê Thị Cẩm B nuôi con chung không yêu cầu anh Võ Văn H cấp dưỡng nuôi con.
Anh Võ VĂn H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Chị Lê Thị Cẩm B trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Võ VĂn H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Chị B khai không có, nên không xét đến.
4. Về nợ chung: Chị B khai không có, nên không xét đến.
5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Chị Lê Thị Cẩm B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị B đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003468 ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Như vậy, chị Lê Thị Cẩm B đã nộp đủ án phí.
Chị Lê Thị Cẩm B, anh Võ VĂn H vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
File gốc của Bản án về tranh chấp ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST – Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại – Bến Tre đang được cập nhật.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST – Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại – Bến Tre
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre |
Số hiệu | 37/2022/HNGĐ-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2022-05-25 |
Ngày hiệu lực | 2022-05-25 |
Lĩnh vực | Hôn Nhân Gia Đình |
Tình trạng | Còn hiệu lực |