Logo trang chủ
  • Văn bản
  • Tin tức
  • Chính sách
  • Biểu mẫu
Logo trang chủ
  • Trang chủ
  • Văn bản
  • Pháp luật
ĐĂNG NHẬP
Quên mật khẩu?
Google Facebook

Bạn chưa có tài khoản? Hãy Đăng ký

Đăng ký tài khoản
Google Facebook

Bạn đã có tài khoản? Hãy Đăng nhập

Thêm ghi chú
Trang chủ » Văn bản » Hình sự

Bản án về tội đánh bạc số 105/2022/HS-PT - Tòa án nhân dân Bình Dương

Value copied successfully!
Số hiệu105/2022/HS-PT
Loại văn bảnBản án
Cơ quanTòa án nhân dân Bình Dương
Ngày ban hành23/05/2022
Người kýĐã xác định
Ngày hiệu lực 23/05/2022
Tình trạng Còn hiệu lực
  • Mục lục

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 105/2022/HS-PT NGÀY 23/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 5 năm 2022 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 59/2022/TLPT-HS ngày 10 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Lương Thị Thùy T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 221/2021/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo kháng cáo:

Lương Thị Thùy T, sinh năm: 1992, tại tỉnh Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu Thờng trú: ấp H, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang; chỗ ở hiện nay: số 12/64, tổ 36, khu phố 5, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Đắc T1 và bà Nguyễn Thị H; chưa có chồng, con; tiền án; tiền sự, nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 28/12/2020 đến ngày 29/01/2021 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh; có mặt.

Ngoài ra, có 06 bị cáo và 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Thị Trúc Ng và Đỗ Thị Kim H1 hẹn nhau đến nhà Lê Văn S (địa chỉ tại số 293/51/10 tổ 55, khu phố 6, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương) để đánh bài thắng thua bằng tiền vào khoảng 13 giờ ngày 28/12/2021. Sau đó, H1 rủ Đỗ Thị Anh Th cùng tham gia đánh bài thì Th đồng ý. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Ng, H1 và Th đến nhà S thì gặp Đặng Thị C cũng đến nhà S để tìm gặp bà Nguyễn Thị Nương (vợ S) nhưng không gặp được bà Nương. Cắc nghe nhóm của Ng nói chuyện chuẩn bị đánh bài nên Cắc ở lại cùng tham gia. Khi cả nhóm chuẩn bị vào trong nhà S chơi đánh bài, thì có Lương Thị Thùy T và Phan Thị Cẩm Q nhìn thấy và đoán biết nhóm của Ng chuẩn bị đánh bài thắng thua bằng tiền nên Q và T đi vào nhà S cùng tham gia đánh bài. Lúc này, S đang nằm trên ghế bố đặt ở cạnh cửa ra vào, H1 đi đến hỏi S cho cả nhóm vào trong nhà S để chơi đánh bài cào thắng thua bằng tiền, sau khi chơi xong thì mỗi người cho S số tiền 50.000 đồng để mua thuốc, thì S đồng ý.

Khi cả nhóm vào trong nhà S chơi đánh bạc thì nhìn thấy có trải sẵn 01 (một) tấm mền màu trắng-nâu trên nền nhà và 03 (ba) bộ bài tây nên cả nhóm lấy 01 (một) bộ bài tây để chơi đánh bài cào 06 (sáu) lá thắng thua bằng tiền. Về hình thức đánh bạc được tiến hành như sau: Các bị cáo làm “cái” xoay vòng, riêng bị cáo Cắc không làm “cái”. Ng là người làm “cái” trước, chia bộ bài Tây loại 52 (năm mươi hai) lá thành các tụ bài tương ứng với các con bạc tham gia đặt cược và mỗi tụ bài có 06 (sáu) lá bài; sau khi Ng chia bài xong thì các con bạc sẽ đặt tiền cược cho tụ bài của mình với số tiền quy định từ 500.000 (năm trăm nghìn) đồng đến 1.000.000 (một triệu) đồng; tiếp đó, Ng và những con bạc mở tụ bài của mình lên và tiến hành sắp xếp tụ bài thành 02 (hai) chi, mỗi chi có 03 (ba) lá bài, sắp xếp làm sao cho mỗi chi khi cộng số của các lá bài lại để được số “nút” cao nhất; số “nút” được tính từ 0 (bù) đến 09 (chín) và cao nhất là 03 (ba) lá bài hình người J, Q, K được gọi là 03 (ba) Tây; sau khi xếp bài xong thì lần lượt các tụ sẽ so số “nút” 02 (hai) chi bài của mình với số “nút” của 02 (hai) chi bài của nhà “cái”, nếu số “nút” của 02 (hai) chi bài bên nào lớn hơn thì bên đó thắng và ngược lại thì sẽ thua, tỉ lệ thắng - thua là 1:1.

Đến khoảng 15 giờ 20 phút ngày 28/12/2020, Công an kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Thị Trúc Ng, Phan Thị Cẩm Q, Lương Thị Thùy T, Đặng Thị C, Đỗ Thị Kim H1 và Đỗ Thị Anh Th và thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) bộ bài tây đã qua sử dụng và 02 (hai) bộ bài tây chưa qua sử dụng; 01 (một) cái mền màu trắng-nâu; thu giữ tổng số tiền dùng để đánh bạc là 236.000.000đ (hai trăm ba mươi sáu triệu đồng).

Số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc được xác định như sau: Đỗ Thị Trúc Ng:14.000.000đ (mười bốn triệu đồng); Đỗ Thị Kim H1: 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); Đặng Thị C:10.000.000đ (mười triệu đồng); Lương Thị Thùy T: 74.000.000 (bảy mươi bốn triệu đồng); Đỗ Thị Anh Th: 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và Phan Thị Cẩm Q: 28.000.000đ (hai mươi tám triệu đồng);

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 221/2021/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Tuyên bố: các bị cáo Lương Thị Thuỳ T, Đỗ Thị Anh Th, Đỗ Thị Kim H1, Phan Thị Cẩm Q, Đỗ Thị Trúc Ng, Đặng Thị C phạm tội “Đánh bạc”. Bị cáo Lê Văn S phạm tội “Gá bạc”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Thị Thùy T 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được khấu trừ vào thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2020 đến ngày 29/01/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo Đỗ Thị Anh Th 03 (ba) năm tù, Đỗ Thị Kim H1 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, phạt bổ sung mỗi bị cáo số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng); xử phạt các bị cáo Đỗ Thị Trúc Ng 03 (ba) năm tù, Phan Thị Cẩm Q 03 (ba) năm tù, Đặng Thị C 03 (ba) năm tù, bị cáo Lê Văn S 01(một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo; quyết định về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10 tháng 01 năm 2022, bị cáo Lương Thị Thùy T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Vì lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi mẹ già, cha bị bệnh ung thư thanh quản. Ngày 09/3/2022 và tại phiên tòa, bị cáo bổ sung lý do kháng cáo bị cáo khai và cung cấp tài liệu chứng minh chú ruột của bị cáo tên Lương Đắc Trình là liệt sĩ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:

Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định, được quy định tại Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp chứng cứ thể hiện chú bị cáo tên Lương Đắc Tr là liệt sĩ, được Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công hạng Ba và các giấy tờ thể hiện cha của bị cáo tên Lương Đắc T1 bị bệnh ung thư. Xét, bị cáo không chung sống chung với chú của bị cáo nên không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên không có căn cứ chấp nhận. Vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc lớn 74.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với mức hình phạt 03 (ba) năm 03 (ba) tháng là phù hợp, không nặng, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo tự bào chữa: không.

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Lương Thị Thùy T được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lương Thị Thùy T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã xác định. Lời thừa nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở xác định: khoảng từ 13 giờ đến 15 giờ 20 phút ngày 28/12/2020, tại nhà bị cáo Lê Văn S (số 293/51/10 tổ 55, khu phố 6, phường Phú Lợi, thành phố T, tỉnh Bình Dương), bị cáo Lương Thị Thùy T cùng các bị cáo khác là Đỗ Thị Trúc Ng, Phan Thị Cẩm Q, Đặng Thị C, Đỗ Thị Kim H1, Đỗ Thị Anh Th thực hiện hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài cào 06 (sáu) lá với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 236.000.000 (hai trăm ba mươi sáu triệu) đồng. Bị cáo T sử dụng số tiền 74.000.000 (bảy mươi bốn triệu) đồng để đánh bạc.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương xét xử bị cáo T về tội “Đánh bạc” với tình tiết định khung “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo T là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Bị cáo T sử dụng số tiền để đánh bạc nhiều nhất (74.000.000 đồng). Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi, hậu quả của tội phạm, xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự), cũng như nhân thân, hoàn cảnh của bị cáo và đã xử phạt bị cáo T mức án 3 năm 3 tháng tù là phù hợp. Trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai và cung cấp tài liệu chứng minh chú ruột bị cáo tên Lương Đắc Trình hy sinh năm 1986 và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba; cha ruột của bị cáo là Lương Đắc T1 bị ung thư thanh quản. Các tình tiết này không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để áp dụng cho bị cáo, vì bị cáo sinh ra và lớn lên tại Bình Dương, chú bị cáo hi sinh trước khi bị cáo được sinh ra, không có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, cha bị cáo bị bệnh nhưng bị cáo không phải là người chăm sóc duy nhất mà còn có mẹ và em gái chăm sóc cho cha bị cáo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, lao động chính trong gia đình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự) là không chính xác. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[5] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[6] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[7] Án phí phúc thẩm: bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Thị Thùy T.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 221/2021/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương như sau: Tuyên bố bị cáo Lương Thị Thùy T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Thị Thùy T 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được khấu trừ vào thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2020 đến ngày 29/01/2021.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lương Thị Thùy T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Từ khóa:105/2022/HS-PTBản án 105/2022/HS-PTBản án số 105/2022/HS-PTBản án 105/2022/HS-PT của Tòa án nhân dân Bình DươngBản án số 105/2022/HS-PT của Tòa án nhân dân Bình DươngBản án 105 2022 HS PT của Tòa án nhân dân Bình Dương

Nội dung đang được cập nhật.
Văn bản gốc đang được cập nhật.

Được hướng dẫn () Xem thêmẨn bớt

    Bị hủy bỏ () Xem thêmẨn bớt

      Được bổ sung () Xem thêmẨn bớt

        Đình chỉ () Xem thêmẨn bớt

          Bị đình chỉ () Xem thêmẨn bớt

            Bị đinh chỉ 1 phần () Xem thêmẨn bớt

              Bị quy định hết hiệu lực () Xem thêmẨn bớt

                Bị bãi bỏ () Xem thêmẨn bớt

                  Được sửa đổi () Xem thêmẨn bớt

                    Được đính chính () Xem thêmẨn bớt

                      Bị thay thế () Xem thêmẨn bớt

                        Được điều chỉnh () Xem thêmẨn bớt

                          Được dẫn chiếu () Xem thêmẨn bớt

                            Văn bản hiện tại

                            Số hiệu105/2022/HS-PT
                            Loại văn bảnBản án
                            Cơ quanTòa án nhân dân Bình Dương
                            Ngày ban hành23/05/2022
                            Người kýĐã xác định
                            Ngày hiệu lực 23/05/2022
                            Tình trạng Còn hiệu lực

                            Hướng dẫn () Xem thêmẨn bớt

                              Hủy bỏ () Xem thêmẨn bớt

                                Bổ sung () Xem thêmẨn bớt

                                  Đình chỉ 1 phần () Xem thêmẨn bớt

                                    Quy định hết hiệu lực () Xem thêmẨn bớt

                                      Bãi bỏ () Xem thêmẨn bớt

                                        Sửa đổi () Xem thêmẨn bớt

                                          Đính chính () Xem thêmẨn bớt

                                            Thay thế () Xem thêmẨn bớt

                                              Điều chỉnh () Xem thêmẨn bớt

                                                Dẫn chiếu () Xem thêmẨn bớt

                                                  Văn bản gốc đang được cập nhật

                                                  Văn bản Tiếng Việt đang được cập nhật

                                                  Tin liên quan

                                                  • Thuê trọ nhưng không đăng ký tạm trú, sinh viên bị xử phạt như thế nào?
                                                  • Thu nhập từ lãi gửi tiền ở các tổ chức tín dụng có phải nộp thuế thu nhập cá nhân hay không?
                                                  • Hành vi lấn chiếm vỉa hè sẽ bị xử phạt như thế nào?
                                                  • Đi xem phim và quay lén lại đăng lên mạng xã hội có bị xử phạt không

                                                  Bản án liên quan

                                                  • Thuê trọ nhưng không đăng ký tạm trú, sinh viên bị xử phạt như thế nào?
                                                  • Thu nhập từ lãi gửi tiền ở các tổ chức tín dụng có phải nộp thuế thu nhập cá nhân hay không?
                                                  • Hành vi lấn chiếm vỉa hè sẽ bị xử phạt như thế nào?
                                                  • Đi xem phim và quay lén lại đăng lên mạng xã hội có bị xử phạt không

                                                  Mục lục

                                                    CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ VINASECO

                                                    Trụ sở: Số 19 ngõ 174 Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội - Hotline: 088 66 55 213 - Email: [email protected]

                                                    ĐKKD: 0109181523 do Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà Nội cấp ngày 14/05/2020

                                                    Sơ đồ WebSite

                                                    Hướng dẫn

                                                    Xem văn bản Sửa đổi

                                                    Điểm này được sửa đổi bởi Điểm a Khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017

                                                    Xem văn bản Sửa đổi