BỘ Y TẾ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 4544/BYT-VPB1 | Hà Nội, ngày 06 tháng 8 năm 2024 |
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương
Bộ Y tế nhận được Công văn số 499/BDN ngày 14/6/2024 của Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới trước kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, trong đó có một số kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương.
Bộ Y tế xin trả lời đối với từng kiến nghị liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế, cụ thể như sau:
1. Hiện nay, tình trạng mua bán thuốc, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm chưa được quản lý, kiểm soát chặt chẽ, dễ dẫn đến tình trạng người tiêu dùng mua thuốc, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm giả, kém chất lượng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Do đó, cử tri kiến nghị Bộ Y tế cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan để có giải pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ hơn trong thời gian tới.
1.1 Thực trạng quản lý đối với sản phẩm thuốc và mỹ phẩm:
Thuốc là loại hàng hóa đặc biệt, phục vụ cho công tác phòng bệnh, chữa bệnh, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người sử dụng. Thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển ngành Dược là đảm bảo cung cấp đủ thuốc có chất lượng, an toàn, hiệu quả và giá cả hợp lý, Bộ Y tế đã ban hành các quy định để kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất, nhập khẩu, phân phối đến tận tay người sử dụng bao gồm việc tiền kiểm đối với sản xuất/nhập khẩu, bảo quản và hậu kiểm trong quá trình phân phối.
Đối với cơ sở sản xuất thuốc: Theo quy định tại Luật Đầu tư, kinh doanh thuốc là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Cơ quan, tổ chức, cá nhân kinh doanh thuốc phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc. Tất cả các cơ sở sản xuất thuốc (kể cả trong nước và nước ngoài) muốn hoạt động tại Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định. Ngành Dược là ngành tiêu chuẩn hóa, quy chuẩn hóa và hội nhập quốc tế cao. Các hoạt động từ sản xuất, kiểm nghiệm, tồn trữ, phân phối, bán buôn, bán lẻ phải đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt” (GPs). Trước khi cấp phép hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực Dược các cơ sở sản xuất kinh doanh phải được kiểm tra, đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chuẩn GPs Năm 2018 2019 2020 2021 2022 2023 Số mẫu được lấy 38.182 38.328 38.656 34323 34532 37303 Tỷ lệ mẫu thuốc không đạt chất lượng 1,32% 1,34% 0,8% 0,83% 0,56% 0,7% Tỷ lệ thuốc giả 0,04% 0,06% 0,03% 0,06% 0,05% 0,04% Bảng 2. Số liệu về mỹ phẩm
Năm | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 |
Số mẫu được lấy | 1919 | 2130 | 2464 | 2538 | 2963 | 3309 |
Tỷ lệ mẫu mỹ phẩm không đạt chất lượng | 3,0% | 3,8% | 1,7% | 2,1% | 1,8% | 1,51% |
1.3. Một số giải pháp trong thời gian sắp tới
Mặc dù các cơ quan chức năng đã tích cực phối hợp trong việc ngăn chặn thuốc, mỹ phẩm giả, kém chất lượng, đạt được những kết quả đáng khả quan, được các tổ chức quốc tế ghi nhận, tuy nhiên, trong thời gian sắp tới cần tiếp tục áp dụng các biện pháp để ngăn chặn tình trạng sản xuất, kinh doanh các sản phẩm giả, kém chất lượng, cụ thể: (1) Bộ Y tế đang xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dược 2016, trong đó, có sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến công tác quản lý chất lượng thuốc theo hướng minh bạch, chặt chẽ hơn; (2) Bộ Y tế sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực dược theo đúng quy định của pháp luật, nhằm ngăn chặn việc sản xuất và đưa ra lưu thông thuốc giả, thuốc kém chất lượng; (3) Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan truyền thông, đăng công khai thông tin các thuốc vi phạm chất lượng phải thu hồi trên phạm vi toàn quốc; thông tin về thuốc giả, thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ (trong đó có liệt kê đầy đủ dấu hiệu phân biệt giữa thuốc được phép lưu hành tại Việt Nam với thuốc giả, thuốc không rõ nguồn gốc, xuất xứ); (4) Bộ Y tế sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng như Ban chỉ đạo 389 các cấp; công an, quản lý thị trường, Sở Y tế các địa phương trong công tác đấu tranh đối với thuốc kém chất lượng; thuốc giả, thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ.
2. Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nội dung “Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng BHXH”. Tuy nhiên, cử tri phản ánh trong tháng, nhiều trường hợp người lao động nghỉ thai sản 10 ngày do sẩy thai (theo Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội), 3 ngày phép bệnh (theo Điều 49, 50 dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội) và 2 ngày phép thường không hưởng lương sẽ không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Đồng thời, thẻ bảo hiểm y tế của người lao động sẽ bị báo giảm trong tháng đó, gây nhiều khó khăn cho người lao động khi sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong khám bệnh, chữa bệnh. Do đó, cử tri kiến nghị đối với các trường hợp người lao động nữ đang hưởng chế độ thai sản nghỉ việc 10 ngày theo quy định trên và có tổng số ngày nghỉ phép trong tháng trên 14 ngày được ưu tiên tham gia bảo hiểm y tế trong thời gian trên nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo quy định.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên, người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, cũng như cán bộ, công chức, viên chức đều thuộc nhóm đối tượng do người lao động và người sử dụng lao động đóng bảo hiểm y tế.
Cụ thể, đối với người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ đóng bảo hiểm y tế theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế. Đối với trường hợp người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày trở lên trong tháng, theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, người lao động không phải đóng bảo hiểm y tế nhưng vẫn được đảm bảo hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế, theo điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP.
Về các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động khi nghỉ thai sản, nghỉ phép thường, nghỉ phép bệnh đã được quy định chi tiết tại Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ Luật Lao động. Bộ Y tế trân trọng Đoàn Đại biểu Quốc hội có ý kiến phản ánh với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để được trả lời theo thẩm quyền.
Trên đây là nội dung trả lời đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương liên quan đến lĩnh vực Y tế, Bộ Y tế trân trọng kính gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương để biết, thông tin tới cử tri.
Xin trân trọng cảm ơn./.
| BỘ TRƯỞNG |
File gốc của Công văn 4544/BYT-VPB1 năm 2024 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương trước Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành đang được cập nhật.
Công văn 4544/BYT-VPB1 năm 2024 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương trước Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Y tế |
Số hiệu | 4544/BYT-VPB1 |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Đào Hồng Lan |
Ngày ban hành | 2024-08-06 |
Ngày hiệu lực | 2024-08-06 |
Lĩnh vực | Hành chính |
Tình trạng | Còn hiệu lực |