HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
V/v một số vấn đề cần lưu ý trước, trong và sau ngày bầu cử | Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2016 |
Kính gửi: Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về bầu cử; Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri thuộc khu vực bỏ phiếu biết về ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng các hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin đại chúng khác của địa phương.
- Trong quá trình bỏ phiếu và kiểm phiếu bầu cử, các Tổ bầu cử có trách nhiệm quản lý chặt chẽ số phiếu bầu cử và thực hiện việc kiểm kê, kiểm tra, phân loại phiếu bầu như sau:
+ Đối với số phiếu bầu sau khi đã được kiểm thì tiến hành niêm phong mỗi loại phiếu bầu vào bao hoặc phong bì riêng (có chữ ký của Tổ trưởng và Thư ký Tổ bầu cử) và chuyển cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý theo hướng dẫn tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 13 của Thông tư số 02/2016/TT-BNV ngày 01/2/2016 của Bộ Nội vụ.
+ Các Tổ bầu cử, Ban bầu cử và Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã bàn giao các con dấu của tổ chức mình cho Ủy ban nhân dân cấp huyện (qua Phòng Nội vụ) để lưu giữ và quản lý; có biên bản giao nhận các con dấu bầu cử;
+ Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban bầu cử cấp tỉnh bàn giao con dấu của tổ chức mình cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (qua Sở Nội vụ) để lưu giữ và quản lý; có biên bản giao nhận các con dấu bầu cử.
1. Về danh sách cử tri
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 của Luật bầu cử thì “người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri”.
- Có địa phương đề nghị hướng dẫn việc thực hiện quyền bầu cử của người đi công tác (cán bộ, công chức cấp huyện được tăng cường về các xã, phường, thị trấn để chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử trước và trong ngày bầu cử), du lịch, thăm người thân hoặc đi chữa bệnh,… trong ngày bầu cử.
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 29 của Luật bầu cử). Trường hợp cử tri đi công tác, du lịch, thăm người thân hoặc đi chữa bệnh,... mà không thể về bỏ phiếu ở nơi mình đã có tên trong danh sách cử tri thì cần xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã lập danh sách cử tri để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 34 của Luật bầu cử.
Khác với trước đây, Luật bầu cử không quy định về việc bổ sung cử tri vãng lai vào danh sách cử tri ngay tại phòng bỏ phiếu trong ngày bầu cử. Về nguyên tắc, những thay đổi liên quan đến cử tri (như từ nước ngoài trở về Việt Nam, thay đổi nơi thường trú, được trả tự do,...) sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết phải được thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, trừ trường hợp bị xóa tên trong danh sách cử tri thì tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu (Khoản 5 Điều 30).
Điều 34 của Luật bầu cử thì “từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có tên trong danh sách cử tri để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi mình có thể tham gia bỏ phiếu”. Việc bổ sung tên vào danh sách cử tri trong trường hợp này được tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu. Do đó, sau thời điểm bắt đầu bỏ phiếu thì Ủy ban nhân dân cấp xã không thực hiện việc bổ sung danh sách cử tri nữa. Trong các biên bản, tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu được cập nhật đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu theo hướng dẫn tại mẫu số 20/BCĐBQH và 25/BCĐBHĐND kèm theo Công văn số 128/HĐBCQG-PL ngày 09/4/2016 của Hội đồng bầu cử quốc gia.
- Có địa phương đề nghị hướng dẫn bổ sung một số nội dung về nghiệp vụ bầu cử gồm: thể lệ bầu cử, mẫu diễn văn khai mạc cuộc bầu cử, phù hiệu của các thành viên thuộc tổ chức phụ trách bầu cử, tỷ lệ số phiếu bầu dự phòng.
Về mẫu diễn văn khai mạc và phù hiệu của thành viên thuộc các tổ chức phụ trách bầu cử, Hội đồng bầu cử quốc gia không ban hành mẫu chung về vấn đề này, đề nghị địa phương căn cứ vào Điều kiện, tình hình thực tế của mình mà quyết định cho phù hợp. Đối với bài diễn văn khai mạc, cần được chuẩn bị trang trọng, ngắn gọn, súc tích, nêu được Mục đích, ý nghĩa của việc bầu cử.
- Có địa phương đề nghị hướng dẫn về việc tuyên bố kết thúc cuộc bầu cử và tiến hành kiểm phiếu khi đã có 100% người trong danh sách cử tri đi bầu cử.
Điều 71 của Luật bầu cử quy định: “Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá chín giờ tối cùng ngày”. Như vậy, mặc dù đã có 100% người trong danh sách cử tri đi bầu cử nhưng Tổ bầu cử cũng không được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu và tiến hành kiểm phiếu trước thời điểm bảy giờ tối cùng ngày.
- Một số địa phương đề nghị hướng dẫn việc xác định phiếu bầu hợp lệ và phiếu bầu không hợp lệ; cách thức gạch tên người không được tín nhiệm trong phiếu bầu cử.
Điều 74 của Luật bầu cử quy định những phiếu bầu sau đây là phiếu bầu không hợp lệ:
+ Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
+ Phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử;
Điểm b Khoản 4 Điều 10 của Thông tư số 02/2016/TT-BNV ngày 01/02/2016 của Bộ Nội vụ đã xác định trách nhiệm của Tổ bầu cử phải hướng dẫn cụ thể cử tri cách thức bỏ phiếu. Theo đó, nếu cử tri không tín nhiệm người ứng cử nào thì gạch ngang giữa cả họ và tên người ứng cử đó (gạch đè lên hàng họ và tên người ứng cử); không khoanh tròn, gạch chéo, gạch dưới, gạch trên hàng họ và tên người ứng cử; không được đánh dấu trên phiếu bầu; không được viết thêm, không được ghi tên người ngoài danh sách ứng cử vào phiếu bầu; không được bầu quá số đại biểu được ấn định trong phiếu bầu; không được để nguyên phiếu bầu đối với phiếu bầu có số dư người ứng cử (không gạch tên người ứng cử nào) hoặc gạch tất cả người ứng cử trong phiếu bầu. Tuy nhiên, trường hợp có phiếu gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang nhưng gạch hết họ và tên của người ứng cử thì vẫn được tính là phiếu hợp lệ.
Tương tự như vậy, trường hợp bên cạnh họ và tên của người ứng cử có cả ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn () do có sự giống nhau cả họ, tên và tên đệm, nếu cử tri không tín nhiệm người này, thì cần gạch hết cả họ và tên và ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn. Tuy nhiên, nếu cử tri chỉ gạch họ và tên mà không gạch ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn thì phiếu bầu đó vẫn được tính là hợp lệ.
4. Quy định về chứng kiến việc kiểm phiếu
Điều 73 của Luật bầu cử.
a) Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm, phóng viên báo chí quy định tại Điều 73 của Luật bầu cử được hiểu như sau:
- “Đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử” là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử chỉ định, phân công bằng văn bản tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu bầu cử tại khu vực bỏ phiếu nơi có người ứng cử là người do cơ quan, tổ chức, đơn vị mình giới thiệu.
- “Phóng viên báo chí” là người có thẻ nhà báo còn hiệu lực, được cơ quan báo chí phân công, giới thiệu đến để chứng kiến việc kiểm phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
- Người ứng cử xuất trình giấy Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân hoặc giấy tờ tùy thân hợp pháp khác với Tổ trưởng Tổ bầu cử.
- Phóng viên báo chí xuất trình thẻ nhà báo còn hiệu lực và văn bản phân công hoặc giấy giới thiệu của cơ quan báo chí với Tổ trưởng Tổ bầu cử.
Điều 75 của Luật bầu cử.
Ủy ban bầu cử tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp nhận đề nghị và danh sách phóng viên báo chí của các cơ quan báo chí ở địa phương được cử tham gia chứng kiến việc kiểm phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trên địa bàn (theo Công văn số 467/TBVBPLTT-PL ngày 18/5/2016 của Tiểu ban văn bản pháp luật và thông tin, tuyên truyền của Hội đồng bầu cử quốc gia) và chỉ đạo các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương tạo Điều kiện cho phóng viên báo chí tác nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.
Phóng viên báo chí nước ngoài có nhu cầu tham dự, đưa tin về hoạt động trong ngày bầu cử tại Việt Nam thì thực hiện theo quy định tại Nghị định số 88/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ về hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
5. Về lập biên bản bầu cử và báo cáo về tình hình bầu cử
Về vấn đề này, Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia đã báo cáo Hội đồng bầu cử quốc gia và có Công văn số 346/VPHĐBCQG-TT ngày 13/5/2016 hướng dẫn cụ thể về chế độ báo cáo trong ngày bầu cử và nộp biên bản kết quả bầu cử. Đề nghị các địa phương thực hiện nghiêm túc để bảo đảm phục vụ kịp thời công tác chỉ đạo, tổ chức và tổng kết cuộc bầu cử.
Để bảo đảm tính thống nhất trong các biểu mẫu, biên bản phục vụ công tác bầu cử, tỷ lệ phần trăm (%) trong các văn bản nói trên được xác định đến số ở hàng thập phân thứ hai (chữ số thứ hai sau dấu thập phân) và được làm tròn số để bảo đảm tổng tỷ lệ phần trăm của các tiêu chí, thành phần là 100%. Theo đó, nếu chữ số thứ ba sau dấu thập phân là từ 5 trở lên thì được làm tròn lên thêm 1 đơn vị vào chữ số ở hàng thập phân thứ hai. Ví dụ: 22,556% thì được làm tròn thành 22,56%.
- Một số địa phương đề nghị hướng dẫn về thời hạn gửi biên bản xác định kết quả bầu cử tại Điều 83 cũng như mốc tính thời hạn quy định tại Điều 83 và Điều 86 của Luật bầu cử trong trường hợp có bầu cử thêm, bầu cử lại.
Trường hợp Hội đồng bầu cử quốc gia quyết định bầu cử thêm, bầu cử lại ở đơn vị bầu cử, thì thời hạn để gửi Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (theo Mẫu số 22/BCĐBQH của Hội đồng bầu cử quốc gia) đến các cơ quan, tổ chức hữu quan và thời hạn công bố kết quả bầu cử (tại Điều 86 của Luật bầu cử) vẫn thực hiện theo quy định tương ứng của Luật nhưng mốc tính thời hạn là kể từ ngày hoàn thành việc bỏ phiếu trên địa bàn đơn vị hành chính cấp tỉnh (tức ngày bầu cử lại, ngày bầu cử thêm nếu có).
Tại mẫu số 29C ban hành kèm theo Công văn số 128/HĐBCQG-PL của Hội đồng bầu cử quốc gia, Hội đồng bầu cử quốc gia đã giải thích đơn vị bầu thiếu là đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội có số người trúng cử chưa đủ số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ấn định cho đơn vị bầu cử đó hoặc đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có số người trúng cử chưa đủ 2/3 số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ấn định cho đơn vị bầu cử đó. Do đó, thống kê về số đơn vị bầu cử thiếu trong mẫu số 29C là tổng số các đơn vị bầu cử mà sau khi đã tổ chức bầu cử thêm vẫn không bầu đủ số đại biểu so với số lượng đại biểu được bầu theo danh sách đã công bố của Hội đồng bầu cử quốc gia (đối với đại biểu Quốc hội) hoặc của Ủy ban bầu cử (đối với đại biểu Hội đồng nhân dân) - đây là số liệu tổng kết cuối cùng sau khi đã kết thúc hoàn toàn việc bầu cử. Như vậy, ngoài việc thống kê số đơn vị bầu cử phải tổ chức bầu cử thêm, số đơn vị bầu cử phải tổ chức bầu cử lại, Ủy ban bầu cử cần thống kê cả số các đơn vị bầu cử thiếu đại biểu trên địa bàn mà mình phụ trách.
*
* *
Xin trân trọng cảm ơn.
- Như trên;
- Chủ tịch, các Phó Chủ tịch HĐBCQG (để b/c);
- Trưởng, Phó trưởng các Tiểu ban của HĐBCQG (để b/c);
- Ban thường trực Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQVN (để phối hợp chỉ đạo);
- Bộ Nội vụ (để phối hợp);
- Thường trực HĐND, UBND, UBMTTQVN, Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Lưu: HC, PL, VPHĐBCQG.
Epas:
CHÁNH VĂN PHÒNG
Nguyễn Hạnh Phúc
File gốc của Công văn 358/VPHĐBCQG-PL năm 2016 về vấn đề cần lưu ý trước, trong và sau ngày bầu cử do Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành đang được cập nhật.
Công văn 358/VPHĐBCQG-PL năm 2016 về vấn đề cần lưu ý trước, trong và sau ngày bầu cử do Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Hội đồng bầu cử quốc gia |
Số hiệu | 358/VPHĐBCQG-PL |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Nguyễn Hạnh Phúc |
Ngày ban hành | 2016-05-18 |
Ngày hiệu lực | 2016-05-18 |
Lĩnh vực | Hành chính |
Tình trạng | Còn hiệu lực |