BỘ NỘI VỤ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3628/BC-BNV | Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2007 |
Thực hiện Chỉ thị 42/CT ngày 06/10/1998 của Ban Chấp hành Trung ương về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý hội để thay thế Nghị định số 258/TTg ngày 20/6/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật số 102SL/004 ngày 20/5/1957 về quyền lập hội.
Thực hiện công văn số 5642/VPCP-KG ngày 15/10/2004 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về việc giao Bộ Nội vụ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sau đây gọi chung là Nghị định số 88/2003/NĐ-CP) và thông báo số 104/TB-VPTW ngày 09/7/2007 của Văn phòng Trung ương Đảng về kết luận của đồng chí Trương Tấn Sang, ủy viên Bộ Chính trị, thường trực Ban Bí thư tại buổi làm việc với Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức tổng kết Nghị định 88/2003/NĐ-CP.
I. KẾT QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 88/2003/NĐ-CP
- Để sớm đưa Nghị định vào thực hiện, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 01/2004/TT-BNV ngày 15/01/2004 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 88/2003/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
- Bộ Nội Vụ tiến hành khảo sát, đánh giá về tổ chức, hoạt động và quản lý hội trong thời kỳ đổi mới. Đây là dịp tốt để phổ biến, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị định ở các cấp chính quyền và các hội trong cả nước.
Có thể nói rằng trong gần 5 năm, việc triển khai Nghị định đã tiến hành khá đồng bộ cả TW, địa phương và các hội. Qua việc triển khai thực hiện Nghị định đã nâng cao được nhận thức trong cán bộ, nhân dân, hội, các hội viên về pháp luật về hội cũng như vai trò của hội trong giai đoạn mới của đất nước.
a) Về thành lập hội:
Số lượng hội thành lập ngày càng nhiều, đáp ứng yêu cầu lập hội của nhân dân và xu thế hội nhập. Điều này phản ánh đúng với tình hình phát triển của đất nước. Chính vì vậy, khi được hỏi ý kiến đánh giá về việc thành lập hội từ năm 2003 đến nay cho thấy: 79% cán bộ được hỏi ý kiến cho rằng gần 5 năm qua số hội đã tăng lên một cách rõ rệt, gần 80% cho rằng việc tăng số hội thời gian qua do tác động của 2 yếu tố chính đó là: sự ra đời của Nghị định 88 và do xu thế thời đại.
- Về xây dựng cơ cấu tổ chức hội
b) Về biên chế và kinh phí hoạt động
Ở địa phương, còn duy trì 635 hội được cấp kinh phí hoạt động và biên chế khoảng 3172 người. Song số biên chế giảm, nhiều tỉnh chuyển từ việc giao biên chế sang chế độ khoán hoặc giao chỉ tiêu chuyên trách để các hội tự thuê hợp đồng làm việc.
c) Về trụ sở hội
a) Tham gia tích cực chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao, từ thiện nhân đạo, các hội đã tập trung vào các hoạt động sau:
- Lập các cơ sở đào tạo nâng cao trình độ cho hội viên và xã hội tạo nên phong trào học tập tin học, ngoại ngữ hoặc thành lập trung tâm giáo dục cộng đồng ở các xã, xây dựng phong trào “xã hội học tập”.
- Thông qua báo, tạp chí của hội tuyên truyền nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho hội viên của hội và xã hội. Cho đến nay hầu hết các hội ở trung ương đều có tạp chí, một số hội đã được xuất bản tờ báo có uy tín như: Thời báo kinh tế, báo dân trí, báo nhân đạo có tác dụng có tác dụng tuyên truyền giáo dục hội viên và xã hội.
Để thực hiện công tác này nhiều hội đã lập ra các tổ chức: khoa học công nghệ, bảo trợ xã hội, quỹ, trợ giúp pháp lý. Để triển khai việc cung ứng dịch vụ cho hội viên và cho xã hội. Theo thống kê hiện có khoảng hơn 600 tổ chức khoa học công nghệ (trong đó Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam thành lập 190 tổ chức) hàng trăm quỹ, các cơ sở bảo trợ xã hội, hàng ngàn trung tâm giáo dục cộng đồng…
+ Tham gia xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, các hội lập ra nhiều tổ chức dịch vụ, triển khai các công nghệ mới vào sản xuất, tham gia cùng Nhà nước trong chương trình xóa đói giảm nghèo, phòng chống bệnh tật và tệ nạn xã hội, chống kỳ thị người nhiễm HIV/AIDS.
Công tác bảo vệ hội viên đã được các hội chú ý hơn, các hội đã xác định đây là trách nhiệm của hội, nhiều hội lên tiếng bảo vệ hội viên mình trước pháp luật. Nhiều hội đã lập ban hội viên để theo dõi, giúp đỡ hội viên. Đặc biệt các hiệp hội của các tổ chức kinh tế trong những năm qua đã làm tốt công tác bảo vệ hội viên của mình trong tranh chấp thương mại quốc tế. Các hiệp hội một mặt thay mặt hội viên bảo vệ quyền lợi hội viên trước các vụ kiện như cá, tôm, xe đạp, may mặc… Mặt khác, Hiệp hội làm tốt công tác xúc tiến thương mại, tư vấn cho thành viên của mình sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp pháp luật quốc tế và tiêu chuẩn kỹ thuật để vượt qua hàng rào kỹ thuật do các nước đặt ra. Nhiều hội đã thành lập ban pháp luật hay trung tâm pháp lý giúp các hội viên của mình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
- Tích cực tham gia vào công việc cải cách hành chính của Chính phủ thông qua việc tích cực đóng góp cho việc xây dựng các văn bản pháp quy mở đường cho kinh tế phát triển, đơn giản hóa các thủ tục hành chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra đời và phát triển. Một số hội đã được Nhà nước tin tưởng và giao cho nghiên cứu, đề xuất và trình các dự án luật như: Hội Luật gia được giao xây dựng Luật về chưng cầu dân ý, Hội người cao tuổi với Luật người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ với Luật chữ thập đỏ.
- Công tác tư vấn, phản biện, giám định xã hội đã được các hội chủ động tham gia góp ý với cơ quan nhà nước trong việc xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển, các công trình lớn cấp quốc gia, những ý kiến của hội được cơ quan nhà nước tiếp thu chỉnh sửa văn bản cho phù hợp.
- Chủ động đề xuất hoặc tham gia cùng Nhà nước xây dựng các phong trào lớn: rèn luyện sức khỏe, thể thao, xây dựng xã hội học tập, phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật.
- Đây là hoạt động khá nổi bật của các hội trong thời gian qua, đặc biệt các hội chuyên làm từ thiện nhân đạo như: Hội Chữ thập đỏ, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi… Nhiều phong trào của các hội trở thành phong trào của quốc gia như: người người làm việc thiện, nhà nhà làm việc thiện. Các hội tích cực giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, người bất hạnh…
- Việc cứu trợ thiên tai được các hội tham gia tích cực.
đ) Hoạt động đối ngoại
+ Theo báo cáo hiện có 193 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, có quan hệ với các tổ chức quốc tế chiếm tỷ lệ hơn 60% và 64 hội có dự án với tổ chức phi chính phủ nước ngoài chiếm 24%. Các hội địa phương có dự án với tổ chức phi chính phủ nước ngoài ít hơn chiếm 16%.
4. Về công tác quản lý nhà nước về hội
a) Tập trung kiểm tra, uốn nắn đưa hoạt động hội theo đúng pháp luật:
- Rà soát lại các hội được thành lập trước đây chưa đúng quy định nhà nước hướng dẫn các hội làm thủ tục thành lập lại.
+ Các hội được thành lập đúng pháp luật, hầu hết các hội đều có điều lệ riêng và được cấp chính quyền phê duyệt.
+ Công tác thanh tra kiểm tra tiến hành thường xuyên có tác dụng nhắc nhở hội hoạt động đúng quy định. Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã đưa các hoạt động hội vào nề nếp đúng hướng theo quy định pháp luật. Hàng năm các hội đều thực hiện báo cáo về tổ chức, hoạt động của hội, qua đó các cơ quan nhà nước có thông tin về hoạt động của hội.
b) Các bộ, ngành đã tích cực hỗ trợ hội:
- Một số bộ, ngành mạnh dạn giao đề tài nghiên cứu khoa học cho hội như Bộ Khoa học công nghệ hàng năm giao cho Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật nhiều đề tài, tổng giá trị trên 20 tỷ đồng/năm.
- Tiến hành thanh tra, kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ đối với hội hoạt động trong lĩnh vực do bộ quản lý và phân công bộ phận tham mưu giúp bộ quản lý nhà nước đối với hội.
- Nhiều bộ ngành tạo điều kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, cán bộ cho hội hoạt động, đặc biệt là các sở ngành địa phương đã tạo điều kiện cho các hội hoạt động trong lĩnh vực do sở quản lý về trụ sở, cán bộ…
Đã ban hành nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho hội hoạt động như: Quyết định số 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 về ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước và Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/4/2001 về ban hành quy chế quản lý và sử dụng viện trợ Phi Chính phủ nước ngoài, đặc biệt gần đây Chính phủ ban hành Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25/05/2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích, phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập và các văn bản hướng dẫn. Đây là văn bản rất quan trọng tạo điều kiện cho các hội hoạt động có hiệu quả, thông qua hệ thống chính sách: thuế, đất, kinh phí thực hiện các đề án nhà nước.
Một là, về mặt được, Nghị định 88/2003/NĐ-CP ra đời đã có tác động sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của hội trong gần 5 năm qua, đó là: số hội tăng nhanh chủ yếu là các hội nghề nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế nhằm phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Các hội đã được củng cố về tổ chức và hoạt động theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa. Các hội cũng đã quan tâm hơn công việc củng cố tổ chức hội: xây dựng quy chế tổ chức hoạt động của ban chấp hành, ban thường vụ, quản lý đơn vị trực thuộc; Một số hội đã xây dựng quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp của hội. Các hội đã chủ động tìm kiếm nguồn kinh phí để hoạt động, tiến tới tự chủ mạnh hơn. Hội chủ động triển khai chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, từ thiện nhân đạo, đã chủ động hơn trong cung ứng dịch vụ cho hội viên và cho xã hội góp phần cùng Nhà nước khắc phục những khiếm khuyết của việc phát triển nền kinh tế thị trường như xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, từ thiện nhân đạo, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc… Các hội quan tâm nhiều hơn phục vụ cơ sở, phát triển cộng đồng và quan tâm đến hoạt động bảo vệ hội viên. Trong công tác từ thiện nhân đạo, hợp tác quốc tế đã có nhiều tiến bộ đạt kết quả cao.
Hai là, tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực trong tổ chức, hoạt động và quản lý hội bộc lộ hạn chế:
- Hoạt động của hội còn thiếu tính bền vững. Một số hội có biểu hiện lợi dụng hoạt động hội kiếm lời. Một số hội chưa tìm được nội dung và phương thức hoạt động phù hợp do đó hoạt động không có hiệu quả.
- Công tác phân công quản lý hội chưa cụ thể giữa các cơ quan dẫn đến chồng chéo, đùn đẩy nhau, khiến cho việc quản lý hội thiếu thống nhất, chặt chẽ.
II. ĐÁNH GIÁ VỀ NỘI DUNG NGHỊ ĐỊNH 88/2003/NĐ-CP
Để thấy rõ kết quả của việc thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP và những vấn đề quy định trong Nghị định như thủ tục, điều kiện thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của hội, phân công quản lý hội, quản lý nhà nước hội đặc biệt là quản lý bộ ngành đối với hội có phù hợp không; Bộ Nội vụ đã hướng dẫn UBND các tỉnh tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị định và phối hợp với Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức điều tra xã hội học về các vấn đề quy định của Nghị định 88/2003/NĐ-CP. Qua việc khảo sát, tổng kết và điều tra xã hội học, cho thấy những nguyên nhân đạt kết quả và hạn chế khi thực hiện Nghị định như sau:
2. Việc triển khai sâu rộng Nghị định 88/2003/NĐ-CP đã thể hiện sự quan tâm của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đã triển khai tập huấn Nghị định khá sâu rộng từ trung ương đến địa phương; Khảo sát đánh giá về tổ chức, hoạt động hội, qua đó đã nâng cao nhận thức của cán bộ Đảng, Nhà nước, cán bộ hội, hội viên về vai trò của hội trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Do đó công tác củng cố xây dựng hội, quản lý hội đã được chú ý làm cho hội hoạt động đúng hướng và có hiệu quả, các hội đã chủ động tham gia cùng Nhà nước xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc góp phần xây dựng đất nước. Hoạt động của hội góp phần ổn định xã hội và được đánh giá cao;
4. Các quy định trong Nghị định 88/2003/NĐ-CP nhìn chung là phù hợp với điều kiện thực tế, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Điều này đã được phản ánh trong điều tra xã hội học và tổng kết của các UBND tỉnh (xem phụ lục);
5. Tuy nhiên, trong quá trình thu thập ý kiến, khảo sát, tổng kết của các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Bộ Nội vụ thấy có một số vấn đề cần nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách hành chính hiện nay, nhất là khi chúng ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - WTO, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước nhằm tạo điều kện cho hội củng cố tổ chức và nâng cao hơn hiệu quả hoạt động của hội, đó là:
- Về thủ tục thành lập ban vận động cần quy định cho phù hợp xu thế CCHC là một cửa, đơn giản hóa thủ tục để các hội khi muốn thành lập không phải liên hệ với nhiều cơ quan. Mặt khác, cần tăng cường trách nhiệm cho cơ quan có thẩm quyền cho vấn đề cho phép lập hội. Để ban vận động hoạt động đúng hướng, có hiệu quả, vai trò của trưởng ban vận động hội là quan trọng, do đó cần quy định về tiêu chuẩn của người đứng đầu ban vận động.
Hai, hiện nay theo báo cáo địa phương thì các hội cấp xã, huyện được phát triển nhanh trong thời gian gần đây. Xu thế phát triển các hội cấp huyện, xã sẽ ngày càng phát triển vì hoạt động của hội chủ yếu là hướng tới cơ sở, cộng đồng, do đó cần nghiên cứu phân cấp cho hợp lý đảm bảo:
- Chính quyền địa phương quản lý sát hơn;
Chính vì vậy, khi được hỏi ý kiến có nên phân cấp cho cấp huyện quản lý hội, thì có tới 81,7% cán bộ quản lý ở cấp tỉnh đều đề nghị nên cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho UBND cấp huyện cho phép thành lập hội; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể và phê duyệt điều lệ hội có phạm vi hoạt động trong xã.
Bốn, trong những năm qua, nhờ sự quan tâm tạo điều kiện của các bộ ngành, các hội đã có điều kiện hoạt động có hiệu quả. Song cần nghiên cứu quy định cho rõ trách nhiệm của bộ ngành, tránh tình trạng hội hiểu lầm bộ là cơ quan chủ quản của hội, do đó ỷ lại, hoặc đòi hỏi bộ ngành về kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất, đồng thời tránh quan niệm của một số bộ ngành coi hội như là cơ quan cấp dưới, do đó can thiệp sâu vào tổ chức cán bộ và hoạt động của hội.
III. KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 88/2003/NĐ-CP
Thực hiện ý kiến của Đảng và Chính phủ, Bộ Nội vụ đã phối hợp với Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tiến hành điều tra xã hội học về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Bộ Nội vụ đã đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổng kết việc thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP. Qua điều tra xã hội học khi được hỏi nên sửa đổi Nghị định 88/2003/NĐ-CP như thế nào, thì 87% ý kiến được hỏi đề nghị sửa một số điều nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hội ra đời, phát triển song phải tăng cường công tác quản lý nhà nước.
a) Phải bảo đảm quyền lập hội của công dân và thực hiện đơn giản hóa thủ tục thành lập hội theo tinh thần cải cách hành chính.
c) Công tác quản lý phải chặt chẽ, có sự phân công phù hợp giữa các cơ quan nhà nước.
Việc sửa đổi, bổ sung cần tập trung sửa đổi một số điều thật sự cần thiết nhằm tạo điều kiện cho hội ra đời và phát triển, hoạt động có hiệu quả, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước về hội nhằm đáp ứng yêu cầu lập hội của công dân, tổ chức Việt Nam phù hợp với chương trình cải cách hành chính và hội nhập kinh tế quốc tế tạo nên sức mạnh cộng đồng góp phần vào công cuộc phát triển đất nước.
a) Bổ sung, sửa đổi về thủ tục thành lập hội
Điều 7 quy định tiêu chuẩn người đứng đầu Ban vận động thành lập hội. Trong thực tế vai trò của người đứng đầu ban vận động thành lập hội rất lớn, đa số người đứng đầu ban vận động thành lập hội sau này được đại hội bầu giữ vai trò người đứng đầu hội. Để ban vận động hoạt động đúng hướng, có hiệu quả và phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay, do đó, cần bổ sung một khoản vào Điều 7 để quy định tiêu chuẩn của người đứng đầu ban vận động như sau:
khoản 2 Điều 13 Nghị định 88/2003/NĐ-CP quy định về tiêu chuẩn người đứng đầu hội.
Khoản 6 Điều 8 Nghị định 88/2003/NĐ-CP về hồ sơ xin phép thành lập hội quy định: “Các văn bản xác nhận trụ sở và tài sản hội”. Tuy nhiên, đây là quá trình đang xin phép thành lập, do đó để đơn giản hóa thủ tục nên quy định rõ hơn điều này để tránh hiểu lầm, vì vậy sửa đổi như sau: “Các văn bản xác nhận trụ sở và bản kê khai tài sản mà các sáng lập viên tự nguyện đóng góp”.
Tổng kết việc thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP vừa qua cho thấy ở nơi nào kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật, văn hóa phát triển thì nhu cầu lập hội tăng đặc biệt và các hội có phạm vi hoạt động ở xã, phường. Do đó, để tạo điều kiện cho việc quản lý hội tốt hơn, chính quyền cấp huyện có điều kiện tiếp cận quản lý hội, đề nghị Chính phủ cho phép Chủ tịch UBND cấp tỉnh ở một số tỉnh có nhu cầu lập hội lớn, UBND cấp huyện có năng lực quản lý có thể ủy quyền cho Chủ tịch UBND cấp huyện đảm nhận thẩm quyền này. Do đó, bổ sung khoản 2 Điều 15 dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 88/2003/NĐ-CP theo hướng: “Căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, chủ tịch UBND cấp tỉnh ủy quyền để Chủ tịch UBND cấp huyện công nhận ban vận động thành lập hội; cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể và phê duyệt điều lệ hội có phạm vi hoạt động trong xã”.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 22 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho hội được tham gia cung ứng dịch vụ công và cấp chứng chỉ hành nghề khi hội có đủ tiêu chí do nhà nước ban hành:
khoản 7 Điều 22: Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội. Hội được tham gia cung ứng dịch vụ công và cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
“Hội được gia nhập làm hội viên của các tổ chức quốc tế tương ứng, được tham gia ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế với các tổ chức quốc tế theo quy định của pháp luật”.
a) Tăng cường công tác phổ biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ công chức, cán bộ hội, hội viên về vai trò, vị trí của hội trong phát triển đất nước, qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Hướng dẫn các hội hoạt động hiệu quả và hướng về cơ sở. Các hội cần chủ động tham gia cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra. Nhà nước cần có chương trình nâng cao nhận thức về vai trò của hội, tổ chức phi chính phủ trong giai đoạn mới.
- Tạo điều kiện tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Tạo cơ chế bình đẳng cho các hội với các thành phần kinh tế khác có thể tham gia trong việc đấu thầu cung ứng dịch vụ công, nghiên cứu khoa học…
- Hoàn thiện cơ chế chính sách về việc ngân sách nhà nước hỗ trợ các hội có hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước.
d) Các cơ quan nhà nước cần nghiên cứu tổng thể về hội Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển, sớm hoàn thiện Luật về hội để trình Quốc hội.
- Hỗ trợ khuyến khích các hội có đề án tốt gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
e) Cần có sự phân công phối hợp về trách nhiệm quản lý nhà nước về hội giữa cơ quan nhà nước đối với các ban của Đảng đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước chặt chẽ đối với tổ chức, hoạt động hội.
h) Đề nghị Ban Bí thư sớm tổng kết Chỉ thị 42/CT-TW ngày 6 tháng 10 năm 1998 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với hội quần chúng trên cơ sở đó xem xét cho phép kết nạp hội viên là doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài làm hội viên của hiệp hội các tổ chức kinh tế Việt Nam.
Nơi nhận: | BỘ TRƯỞNG |
Từ khóa: Báo cáo 3628/BC-BNV, Báo cáo số 3628/BC-BNV, Báo cáo 3628/BC-BNV của Bộ Nội vụ, Báo cáo số 3628/BC-BNV của Bộ Nội vụ, Báo cáo 3628 BC BNV của Bộ Nội vụ, 3628/BC-BNV
File gốc của Báo cáo số 3628/BC-BNV về việc tổng kết tình hình thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP, ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và phương hướng bổ sung, sửa đổi nghị định do Bộ Nội vụ ban hành đang được cập nhật.
Báo cáo số 3628/BC-BNV về việc tổng kết tình hình thực hiện Nghị định 88/2003/NĐ-CP, ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và phương hướng bổ sung, sửa đổi nghị định do Bộ Nội vụ ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Nội vụ |
Số hiệu | 3628/BC-BNV |
Loại văn bản | Báo cáo |
Người ký | Trần Văn Tuấn |
Ngày ban hành | 2007-12-17 |
Ngày hiệu lực | 2007-12-17 |
Lĩnh vực | Hành chính |
Tình trạng | Còn hiệu lực |