TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 137/2022/DS-PT NGÀY 07/06/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Vào ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 60/2022/TLPT-DS ngày 18 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 14a/2022/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1626/2022/QĐ-PT ngày 18 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế H, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ dân phố 2 M, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thu H1, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 353 đường T, phường N1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Phan Văn H2, sinh năm 1960 và bà Cao Thị T, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ dân phố 7, phường N1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Ông H2, có mặt. Bà T, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Dương Thị Thúy H1 – Văn 1 phòng Luật sư M. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tr – Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
+ Ủy ban nhân dân phường N1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Ông Tưởng Văn B1-Chủ tịch UBND làm đại diện. Vắng.
+ Ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L; địa chỉ: Nhà số 8, đường H2, phường Đ2, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng.
+ Bà Nguyễn Thị H3; địa chỉ: Tổ dân phố 1, M, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng.
+ Bà Phạm Thị Mỹ H4; địa chỉ: Lộc Ninh, Đ, Quảng Bình. Vắng.
Người kháng cáo: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Thế H và người đại diệp theo ủy quyền là bà Nguyễn Thu H1 trình bày:
Năm 1994, ông Nguyễn Thế H được UBND xã N2, Đ, Quảng Bình cấp một thửa đất tại xã N2, nay thuộc thửa đất số 46 tờ bản đồ số 41, cạnh chiều ngang 10m, cạnh chiều dọc 22m ,có tứ cạnh giáp như sau: Phía Bắc giáp đất ông Lê Tấn L1; Phía Nam giáp đất khu da liễu; Phía Đông giáp đất bà G, anh K; Phía Tây giáp đường vào xóm cơ điện. Từ khi được cấp đất, gia đình anh H cho bà con hàng xóm xung quanh canh tác trồng rau màu trên đất; cùng thời điểm, UBND xã N2 cấp cho 02 hộ ông Lê Tấn L1, bà Nguyễn Thị H3 (liền kề đất anh H) và hộ ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L (liền kề đất ông L1, bà H3) cùng diện tích, cùng chiều ngang và chiều dọc như hộ anh H; 3 thửa đất liền kề kế tiếp nhau, mỗi hộ có diện tích 220m2 như nhau.
Năm 2004, gia đình anh H xây móng giữ đất thì ông Phan Văn H2, bà Cao Thị T ra ngăn cản và xảy ra tranh chấp; qua tìm hiểu thì biết gia đình ông H2, bà T đã nhận chuyển nhượng 02 thửa đất của 02 hộ ông Lê Tấn L1, bà Nguyễn Thị H3 và hộ ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L nêu trên và ông H2, bà T đã được cấp giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 912350, số vào sổ cấp GCN: CH 05951 do UBND thành phố Đ cấp ngày 07/8/2017 cho ông Phan Văn H2, bà Cao Thị T tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 71, diện tích 234m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 835758, số vào sổ cấp GCN: CH 00563 do UBND thành phố Đ cấp ngày 10/12/2010 tại thửa đất số 75, tờ bản đồ số 71, diện tích 264m2;
Ông H, bà H1 cho rằng: theo bản đồ địa chính mà Sở Tài nguyên phê duyệt năm 1996, thì thửa của ông H có diện tích 291,2m2; còn 02 thửa đất của hộ ông L1 và hộ ông Thống (nay chuyển nhượng cho ông H2, bà T) có tổng diện tích là 446m2. Nay ông H làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện hộ ông H2, bà T đã lấn chiếm đất của ông H 4m bề ngang; diện tích thửa đất ông H thiếu 88m2 đất, nguyên nhân xuất phát thửa 39 và 75 tờ bản đồ số 71 (nguyên là thửa của hộ ông L1, ông Thống chuyển nhượng cho ông H2, bà T) lấn chiếm mỗi thửa 2m chiều ngang. Do đó, ông H khởi kiện Tòa án giải quyết:
- Buộc ông H2, bà T trả lại phần đất 4m mặt tiền, 22m chiều dài đã lấn với diện tích 88m2. Trên diện tích đất tranh chấp hiện nay có 01 móng nhà xây dựng năm 2004.
- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 912350, số vào sổ cấp GCN: CH 05951 do UBND thành phố Đ cấp ngày 07/8/2017 cho ông Phan Văn H2, bà Cao Thị T tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 71, diện tích 234m2 địa chỉ: phường N1, TP Đ, tỉnh Quảng Bình và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 835758, số vào sổ cấp GCN: CH 00563 do UBND thành phố Đ cấp ngày 10/12/2010 cho ông Phan Văn H2, bà Cao Thị T tại thửa đất số 75, tờ bản đồ số 71, diện tích 264m2 địa chỉ: phường N1, TP Đ, tỉnh Quảng Bình vì cấp chồng, trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất không đúng.
Bị đơn ông Phan Văn H2, bà Cao Thị T trình bày:
Đối với thửa đất số 75, tờ bản đồ số 71: ông Phan Văn Th và chị Đặng Thị Thúy L được UBND thành phó Đ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AD 933067 ngày 20/2/2005 diện tích 264m2, đất ở 200m2, đất trồng cây hàng năm khác: 64m2, cấp theo đơn xin giao quyền sử dụng đất ngày 15/4/1994 được UBND xã N2 duyệt ngày 25/5/1994. Năm 2010, vợ chồng Thống, bà L chuyển nhượng thửa đất này cho vợ chồng ông H2, bà T. Đến ngày 10/12/2010, gia đình ông H2, bà T đã được UBND TP Đ cấp GCN QSDĐ số BD 835758 đối với thửa đất trên. Thửa đất nhận chuyển nhượng của ông Thống, bà L không liên quan gì đến thửa đất của ông H.
Đối với thửa đất số 39, tờ bản đồ số 71: ông Lê Tấn L1, bà Nguyễn Thị H3 được UBND TP Đ cấp Giấy chứng nhận QSD đất số AD 933046 ngày 27/2/2006 với diện tích 234m2, đất ở 200m2, đất trồng cây hàng năm khác:
34m2, cấp theo đơn xin giao quyền sử dụng đất ngày 25/02/1991 được UBND xã duyệt ngày 20/3/1991. Năm 2017 ông L1, bà H3 chuyển nhượng lại thửa đất này cho vợ chồng ông H2, bà T. Đến ngày 07/8/2017, ông H2, bà T được UBND TP Đ cấp GCN QSDĐ số CI 912350. Theo hồ sơ cấp đất thể hiện: Chiều dài Đông Tây: 22m, chiều rộng Bắc Nam 12m diện tích 264m2, nhưng sau khi chuyển nhượng các cơ quan có thẩm quyền đã xác định ranh giới mốc giới đo lại chiều rộng phía Nam 9,3m.
Về ranh giới bản đồ năm 1996 do đo đạc bằng thước dây nên không chính xác, trong sơ đồ có đường bê tông nhưng không thể hiện đường bao nhiêu mét. Ranh giới bà H1 xác định hoàn toàn không có căn cứ. Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất thể hiện rõ: đường bê tông 5m, được Sở Tài nguyên Môi trưởng do đạc nhiều lần, đo bằng máy có độ chính xác cao. Việc chuyển nhượng các thửa đất và trình tự thủ tục cấp GCN QSDĐ cho ông H2, bà T là đúng quy định tại Điều 23 Thông tư 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ Tài nguyên Môi trường; Điều 79 Nghị định: 43/2014/ND-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, ông H2 bà T không lấn chiếm đất của gia đình ông H.
Do vậy bị đơn không chấp nhận toàn bộ khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xem xét bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Nguyễn Thị H3 (chồng là Lê Tấn L1 đã chết) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Ngày 25/02/1991, vợ chồng bà làm đơn xin giao đất, sử dụng đất, được UBND xã N2 đồng ý và đề nghị UBND thị xã Đ cấp đất, có sơ đồ của UBND xã N2 lập ngày 20/3/2991, cụ thể: phía Bắc giáp đất hoang, phía Nam giáp khu đất trạm da liễu, đều có kích thước 12m; phía Đông giáp ô đất hoang, phía Tây giáp đường vào xóm cơ điện đều có kích thước 22m. Đến ngày 05/01/2006, được UBND thành phố Đ thông báo nộp lệ phí tước bạ nhà, đất và đến ngày 27/02/2006 UBND thành phố cấp giấy chứng nhận QSD đất số AD 933046 với diện tích 234m2, đất ở 200m2, đất trồng cây hàng năm khác:
34m2 tại thửa số 39 tờ bản đồ số 71. Ngày 29/6/2017, vợ chồng bà làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông H2, bà T thửa đất này. Đến ngày 07/8/2017, vợ chồng ông H2, bà T được UBND thành phố cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà khẳng định việc chuyển nhượng và cấp giấy chứng nhận QSD đất là đúng pháp luật, ông H2, bà T không lấn chiếm đất của ai.
Ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Ngày 15/4/1994, vợ chồng bà làm đơn xin giao đất, sử dụng đất, được UBND xã N2 đồng ý và xác nhận ngày 25/5/1994, kèm theo sơ đồ, cụ thể: phía Bắc giáp đường xóm, phía Nam giáp vườn anh Lĩnh, đều có kích thước 12m; phía Đông giáp đất vườn chị Giao, phía Tây giáp đường vào xóm cơ điện đều có kích thước 22m. Đến ngày 20/01/2005, được UBND thành phố Đ cấp giấy chứng nhận QSD đất số số AD 933067 ngày 20/2/2005 diện tích 264m2, đất ở 200m2, đất trồng cây hàng năm khác: 64m2 tại thửa số 75 tờ bản đồ số 71. Ngày 23/10/2010, vợ chồng ông, bà làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông H2, bà T thửa đất này. Đến ngày 10/12/2010, gia đình ông H2, bà T đã được UBND TP Đ cấp GCN QSDĐ số BD 835758 đối với thửa đất trên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật, đề nghị không chấp nhận khởi kiện của ông H.
Tại văn bản số 2311/UBND-TNMT ngày 16/8/2021 và văn bản số 3160/UBND-TNMT ngày 10/12/2021 của UBND thành phố Đ trình bày:
Đối với thửa số 75, tờ bản đồ số 71 tại phường N1, thành phố Đ cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông, bà Phan Văn Th, Đặng Thị Thúy L có nguồn gốc được UBND xã N2 cấp năm 1992, đã được Sở Tài nguyên Môi trường xác định lại ranh giới, mốc giới và đo bổ sung thửa đất vào bản đồ địa chính theo thực tế sử dụng tại Thông báo số 129 TB/TNMT ngày 08/8/2005 với diện tích 264m2. UBND thành phố Đ căn cứ hồ sơ do gia đình kê khai được UBND phường N1 xác nhận và kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất của Sở Tài nguyên Môi trường, đã cấp giấy chứng nhận QSD đất số AD 933067 vào ngày 20/2/2006 cho ông Thống, bà L đúng với diện tích, kích thước các cạnh thửa đất theo Thông báo số 129 TB/TNMT ngày 08/8/2005 của Sở Tài nguyên, Môi trường.
Qua xem xét, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông Thống, bà L đối với thửa đất trên thực hiện đúng quy định tại Điều 136 Nghị định 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai.
Ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T nhận chuyển nhượng 264,0m2 đất (đất ở 200m2, đất trồng cây hằng năm khác 64m2) từ ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L. Căn cứ hợp đồng chuyển nhượng số công chứng 771, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/10/2010, đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận QSD đất của ông H2, bà T, được chi nhánh văn phòng đăng ký đất thành phố Đ xác nhận đủ điều kiện, vào ngày 10/12/2010 UBND thành phố Đ đã cấp giấy chứng nhận QSD đất, quyền sỡ hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông H2 bà T với diện tích nhận chuyển nhượng nói trên. Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông H2, bà T được thưc hiện đúng quy định tại Điều 23 Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009.
Tương tự như trên, đối với thửa số 39, tờ bản đồ số 71 tại phường N1, thành phố Đ cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông, bà Lê Tấn L1, Nguyễn Thị H3 có nguồn gốc được UBND xã N2 cấp ngày 20/3/1991, đã được Sở Tài nguyên Môi trường xác định lại ranh giới, mốc giới và đo bổ sung thửa đất vào bản đồ địa chính theo thực tế sử dụng tại Thông báo số 130 TB/TNMT ngày 08/8/2005 với diện tích 234m2. UBND thành phố Đ căn cứ hồ sơ do gia đình kê khai được UBND phường N1 xác nhận và kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất của Sở Tài nguyên Môi trường, đã cấp giấy chứng nhận QSD đất số AD 933046 vào ngày 27/2/2006 cho ông L1, bà H3 đúng với diện tích, kích thước các cạnh thửa đất theo Thông báo số 130 TB/TNMT ngày 08/8/2005 của Sở Tài nguyên, Môi trường và phù hợp với sơ đồ đất tại Đơn xin giao đất xây dựng nhà ở gia đình của ông L1, bà Lợi được UBND xã N2 xác nhận ngày 20/3/1991. Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đối với thửa đất trên thực hiện đúng quy định tại Điều 136 Nghị định 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai.
Ông H2, bà T nhận chuyển nhượng của ông Lê Tấn L1, và Nguyễn Thị H3 với diện tích 234m2 (trong đó đất ở 200m2, đất trồng cây hằng năm khác 34m2). Căn cứ hợp đồng chuyển nhượng số công chứng 3647, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/6/2017, đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận QSD đất của ông H2, bà T, được chi nhánh văn phòng đăng ký đất thành phố Đ xác nhận đủ điều kiện, vào ngày 17/8/2017 UBND thành phố Đ đã cấp giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông H2 bà T với diện tích nhận chuyển nhượng nói trên. Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông H2, bà T được thực hiện đúng quy định tại Điều 79 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014.
Đề nghị Tòa án căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất, chứng cứ do các bên cung cấp để giải quyết đúng quy định của pháp luật.
UBND phường N1, thành phố Đ có ý kiến tại văn bản số: 1764/UBND ngày 13/12/2021: Theo sổ mục kê đất đai năm 1996 lưu tại phường N1 thì thửa đất số 46, tờ bản đồ số 71 diện tích 291,2m2 không ghi tên chủ sử dụng đất; thửa đất số 39 tờ bản đồ số 71 diện tích 446,4m2 không ghi t ên chủ sử dụng đất, đến ngày 22/7/2005 được chỉnh lý mang tên ông Lê Tấn L1 diện tích 234m2; thửa đất số 75 tờ bản đồ số 71 diện tích 264m2 được tách từ thửa 37 ngày 30/6/2005 Đối với nghĩa vụ nộp thuế: đến năm 2021 thửa đất số 75, 39 tờ bản đồ số 71 đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế phi nông nghiệp do ông Phan Văn H2 thực hiện. Còn thửa đất số 46 tờ bản đồ số 71 thì chưa được kê khai thuế phi nông nghiệp.
Ngày 03/11/2021, Tòa án tổ chức buổi xem xét, thẩm định tại chỗ đối với các thửa đất 39, 46, 75 tờ bản đồ số 71 tại phườn N1, thành phố Đ, kết quả như sau: Theo hiện trạng đất thực tế thửa số 75 tờ bản đồ số 71 có diện tích 258,7m2; thửa số 39 tờ bản đồ số 71 có diện tích 236,6m2; thửa số 46 tờ bản đồ số 71 có diện tích 133,5 m2. Trên các thửa đất không có công trình xây dựng. Đối chiếu với bản đồ năm 1996 thì vị trí, ranh giới các thửa đất có một phần diện tích nằm trên đường nhựa Lê Văn Sỹ và một phần diện tích của thửa 75 nằm trên phần đường bê tông phía đông thửa đất số 75; Ranh giới giữa thửa đất số 46 và số 39 lệch về giữa thửa đất số 39.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 14a/2022/DS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định Căn cứ vào khoản 5 Điều 26, Điều 34, Điều 273; khoản 1 Điều 147; Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Áp dụng Điều 50 Luật đất đai 2003, Điều 100 Luật đất đai 2013; xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế H 1.1. Buộc ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T có trách nhiệm trả lại diện tích 127,6m2 hiện đang được cấp theo Giấy chứng nhận QSD đất số: CI 912350 ngày 07/8/2017 của UBND thành phố Đ cấp cho cho ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T tại thửa 39 tờ bản đồ số 71 tại phường N1, thành phố Đ vì cấp chồng lên thửa 46, tờ bản đồ số 71 phường N1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình theo đơn xin cấp đất ngày 15/11/1994 và Hồ sơ kỷ thuật thửa đất lập năm 1996 mang tên Nguyễn Thế H, có kích thước cụ thể như sau:
Cạnh phía Đông Bắc nằm trong thửa 39 theo GCNQSD đất dài 23,48m; Cạnh phía Tây Nam giáp thửa 25 mới thuộc tờ bản đồ số 66 phê duyệt năm 2021 dài 23,40m;
Cạnh phía Đông Nam dài 5,78m;
Cạnh phía Tây Bắc giáp đường Lê Văn Sỹ dài 5,12m.
1.2. Hủy Giấy chứng nhận số: AD933046, số vào sổ cấp GCN: H08426 do UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 27/02/2006 mang tên ông Lê Tấn L1, bà Nguyễn Thị H3 và Hủy Giấy chứng nhận QSD đất số AD 933067, số vào sổ cấp GCN số H 08424 do UBND thành phố Đ cấp ngày 20/02/2006 mang tên ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L.
1.3. Hủy Giấy chứng nhận QSD đất số: CI 912350, số vào sổ cấp GCN: CH05951 do UBND thành phố Đ ngày 07/8/2017 mang tên ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T.
1.4. Hủy Giấy chứng nhận QSD đất số: BD 835758, số vào sổ cấp GCN: CH00563 do UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 10/12/2010 mang tên ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T.
Các đương sự tự liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai để đăng ký quyền sử dụng đất nếu đủ điều kiện theo quy định của Luật đất đai.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo.
- Ngày 28/02/2022 (đơn bổ sung ngày 10/03/2022) bà Nguyễn Thu H1 là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn kháng cáo với 02 nội dung:
+ Làm sáng tỏ hồ sơ giấy tờ có biểu hiện bất minh trong việc làm thủ tục cấp GCNQSD đất của hộ ông H2 trên thửa đất 39 (năm 1996) được tách ra thành 2 thửa 75 và 39.
+ Có biện pháp xử lý kịp thời những sai phạm của Thẩm phán Trần Đức Long , là Chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án có biểu hiện khuất tất, không trung thực, không khách quan, làm có lợi cho bị đơn.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thế H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; Xét thấy:
[1] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Thế H:
[1.1] Về nội dung yêu cầu làm sáng tỏ hồ sơ giấy tờ có biểu hiện bất minh trong việc làm thủ tục cấp GCNQSD đất của hộ ông H2 trên thửa đất 39 (năm 1996) được tách ra thành 2 thửa 75 và 39, nhận thấy: Theo các chứng cứ do các bên đương sự cung cấp và Toà án sơ thẩm thu thập được xác định như sau:
- Ngày 25/02/1991, ông Lê Tấn L1, bà Nguyễn Thị H3 có đơn xin giao quyền sử dụng đất, được UBND xã N2 xác nhận ngày 20/3/1991, với diện tích 264m2,có sơ đồ thửa đất kèm theo thể hiện: Phía Bắc giáp đất hoang; Phía Nam giáp khu đất Trạm da liễu; Phía Đông giáp đất hoang; Phía Tây giáp đường vào xóm cơ điện (chiều dài Đông Tây 22m; rộng Bắc Nam 12m) (BL 114).
- Theo hồ sơ kỷ thuật thửa đất năm 1996 thì: Thửa đất số 39 tờ bản đồ số 71 có diện tích 446,2m2 là đất hoang, do UBND quản lý (BL 124).
- Theo sổ mục kê lập năm 1996, chỉnh lý biến động ngày 22/5/2005 thì thửa đất số 39 tờ bản đồ số 71 có diện tích 234m2 đứng tên ông Lê Tấn L1 (BL 118). Ngày 15/8/2005, ông Lê Tấn L1 làm đơn xin cấp GCNQSD đất (BL 111).
- Tại Biên bản thẩm định để cấp GCNQSD đất ngày 29/5/2005 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ (có xác nhận của hộ liền kề là ông Phan Văn Th) đối với thửa 39 tờ bản đồ số 71 thì vị trí và kích thước các cạnh thửa đất như sau: Chiều dài cạnh phía Đông Bắc giáp với thửa đất số 75 (đất của ông Thống) là 22m; Chiều dài cạnh phía Tây Nam giáp với thửa đất số 46 là 22m; Chiều dài cạnh phía Tây Bắc giáp với đường xóm rộng 10,5m là 12m; Chiều dài cạnh Đông Nam giáp với thửa đất số 47 là 9,3m. Diện tích thửa đất là 234m2. Đến ngày 27/02/2006, ông L1, bà H3 được UBND thành phố Đ cấp giấy chứng nhận QSD đất số AD933046 với diện tích 234m2 với kích thước các cạnh như đã thẩm định, đo đạc trên.
- Ngày 29/6/2017 ông Lê Tấn L1, và Nguyễn Thị H3 chuyển nhượng thửa đất số 39 tờ bản đồ số 71 với diện tích 234m2 cho vợ chồng ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T theo hợp đồng chuyển nhượng số công chứng 3647, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD . Ngày 07/8/2017 UBND thành phố Đ đã cấp giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông H2, bà T.
Do đó nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Thế H cho rằng hồ sơ cấp GCNQSD đất cho hộ ông Phạm Văn H2 có biểu hiện bất minh là không có cơ sở, nên không được chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[1.2] Về nội dung kháng cáo yêu cầu có biện pháp xử lý kịp thời những sai phạm của Thẩm phán Trần Đức Long là Chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án có biểu hiện khuất tất, không trung thực, không khách quan, làm có lợi cho bị đơn, xét thấy: Nội dung yêu cầu này thuộc trường hợp khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, không thuộc thẩm quyền giải quyết của hội đồng xét phúc thẩm, nên không xét.
[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Thế H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Bác kháng cáo của của ông Nguyễn Thế H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ Điều 50 Luật đất đai 2003; Điều 100 Luật đất đai 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế H 1.1. Buộc ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T có trách nhiệm trả lại diện tích 127,6m2 cho ông Nguyễn Thế H; diện tích đất này hiện đang được cấp theo Giấy chứng nhận QSD đất số: CI 912350 ngày 07/8/2017 của UBND thành phố Đ cấp cho cho ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T tại thửa 39 tờ bản đồ số 71 tại phường N1, thành phố Đ vì cấp chồng lên thửa 46, tờ bản đồ số 71 phường N1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình theo đơn xin cấp đất ngày 15/11/1994 và Hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập năm 1996 mang tên Nguyễn Thế H, có kích thước cụ thể như sau:
Cạnh phía Đông Bắc nằm trong thửa 39 theo GCNQSD đất dài 23,48m; Cạnh phía Tây Nam giáp thửa 25 mới thuộc tờ bản đồ số 66 phê duyệt năm 2021 dài 23,40m;
Cạnh phía Đông Nam dài 5,78m;
Cạnh phía Tây Bắc giáp đường Lê Văn Sỹ dài 5,12m.
(Sơ đồ kèm theo Bản án số 14a/2022/DS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình).
1.2. Hủy Giấy chứng nhận số: AD933046, số vào sổ cấp GCN: H08426 do UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 27/02/2006 mang tên ông Lê Tấn L1, bà Nguyễn Thị H3 và Hủy Giấy chứng nhận QSD đất số AD 933067, số vào sổ cấp GCN số H 08424 do UBND thành phố Đ cấp ngày 20/02/2006 mang tên ông Phan Văn Th, bà Đặng Thị Thúy L.
1.3. Hủy Giấy chứng nhận QSD đất số: CI 912350, số vào sổ cấp GCN: CH05951 do UBND thành phố Đ ngày 07/8/2017 mang tên ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T.
1.4. Hủy Giấy chứng nhận QSD đất số: BD 835758, số vào sổ cấp GCN: CH00563 do UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 10/12/2010 mang tên ông Phạm Văn H2, bà Cao Thị T.
Các đương sự tự liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai để đăng ký quyền sử dụng đất nếu đủ điều kiện theo quy định của Luật đất đai.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo Bản án dân sự sơ thẩm số 14a/2022/DS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
3. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Thế H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Đã nộp đủ tại các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0004925 ngày 23/3/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình (do bà Nguyễn Thị H1 nộp).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
File gốc của Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 137/2022/DS-PT – Tòa án nhân dân cấp cao đang được cập nhật.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 137/2022/DS-PT – Tòa án nhân dân cấp cao
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân cấp cao |
Số hiệu | 137/2022/DS-PT |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2022-06-07 |
Ngày hiệu lực | 2022-06-07 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |