TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 26 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1984; (vắng mặt có đơn)
Địa chỉ: Phường A, Quận X, thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Anh Trần Văn B, sinh năm 1985; (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/01/2022 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Trần Văn B chung sống như vợ chồng từ năm 2002, đến ngày 15/5/2019 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre vào. Trong quá trình chung sống, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, anh B có người phụ nữ khác và có một con riêng nên chị không thể sống chung với anh B được nữa. Do nhận thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên chị yêu cầu ly hôn với anh B.
Về con chung: Chị và anh B có 02 con chung tên Trần Nguyễn Diễm M, sinh ngày 08/12/2003 và Nguyễn Thanh N, sinh ngày 14/11/2012. Diễm M đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết. Riêng cháu N hiện đang sống với cùng T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu M và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
Trong quá trình tố tụng vụ án, bị đơn anh Trần Văn B không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của chị T và không đến Tòa án để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
* Quan điểm của đại diện Việt kiểm sát:
- Về thủ tục: Thẩm phán đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, cấp tống đạt các văn bản cho đương sự, gởi thông báo thụ lý, hồ sơ đến Viện kiểm sát đúng quy định, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục giải quyết của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán chấp hành đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định, đảm bảo cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ án nên đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Việc nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và phiên tòa xét xử vắng mặt đương sự là đúng theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật dân sự. Riêng bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật dân sự.
- Về nội dung v án: Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị:
+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Hồng T được ly hôn với anh Trần Văn B.
+ Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Nguyễn Diễm M, sinh ngày 08/12/2003 và Nguyễn Thanh N, sinh ngày 14/11/2012. Diễm M đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết. Giao cháu Nguyễn Thanh N cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận chị T tự nguyện không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.
+ Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Trần Văn B sinh sống như vợ chồng từ năm 2002 và đăng ký kết hôn vào năm 2019 trên cơ sở tự nguyện. Do đó, hôn nhân của chị T và anh B là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình giải quyết vụ án, chị T cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn nên yêu cầu ly hôn với anh B. Anh B biết việc chị T yêu cầu ly hôn nhưng không đến Tòa chứng tỏ anh B không có thiện chí hàn gắn cùng chị T. Do đó, HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân của chị T và anh B đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ phù hợp với quy định khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.
[3] Về con chung: Quá trình chung sống, chị T và anh B có 02 con chung tên Trần Nguyễn Diễm M, sinh ngày 08/12/2003 và Nguyễn Thanh N, sinh ngày 14/11/2012. Diễm M hiện đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét giải quyết. Riêng cháu Thanh N hiện đang sống cùng chị T. Xét yêu cầu tiếp tục nuôi cháu N của chị T là có cơ sở, đảm bảo được sự ổn định cho cuộc sống, việc học hành cũng như tâm sinh lý của cháu N và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu N.
Do đó, HĐXX chấp nhận giao cháu Thanh N cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Chị T tự nguyện không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con nên được HĐXX ghi nhận.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không ai có yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng T phải nộp án phí hôn nhân gia đình theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 207, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Hồng T ly hôn với anh Trần Văn B.
2. Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Nguyễn Diễm M, sinh ngày 08/12/2003 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thanh N, sinh ngày 14/11/2012. Chị Nguyễn Thị Hồng T có quyền trực tiếp nuôi cháu Thanh N. Ghi nhận chị T tự nguyện không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh B có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Khi có nhu cầu, vì lợi ích của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng T phải nộp án phí hôn nhân gia đình là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào biên lai thu tiền số 0003713 ngày 10/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt theo quy định pháp luật.
File gốc của Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST – Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri – Bến Tre đang được cập nhật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST – Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri – Bến Tre
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre |
Số hiệu | 51/2022/HNGĐ-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2022-05-26 |
Ngày hiệu lực | 2022-05-26 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |