TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 09/2022/DS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 07/ 2022/TLST- DS, ngày 21 tháng 02 năm 2022, về việc “Kiện đòi tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08 /2022/QĐXXST ngày 05 tháng 5 năm 2022 giữa:
Nguyên đơn :
Bà Vũ Thị M - sinh năm 1960 Địa chỉ: tổ A, phường D, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Bị Đơn: Bà Dươnng Thị N- sinh năm 1962 Địa chỉ: tổ A, phường D, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Người làm chứng :
1.Ông Nguyễn Nhiêu Đ sinh năm 1963.
Địa chỉ: tổ A, phường D, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
2. Bà Bùi Thị Ph sinh năm 1961.
Địa chỉ: tổ B, phường D, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Các đương sự và người làm chứng đều có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các bản tự khai cũng như qua quá trình tố tụng của vụ án phía nguyên đơn bà Vũ Thị M trình bày: Tôi và bà N không có anh em họ hàng thân thích gì, cũng không làm ăn buôn bán chung nhau.Chỉ là chị em chơi thân thiết nên bà Dương Thị N nhờ tôi vay hộ tiền để giải quyết công việc gia đình.Tôi đã vay hộ bà N 07 lần cụ thể như sau :
Lần 1 : Ngày 20/3/2015 vay 98.000.000đ.
Lần 2 : Ngày 23/3/2015 vay 44.000.000đ.
Lần 3 : Ngày 15/5/2015 vay 50.000.000đ.
Lần 4 : Ngày 09/8/2015 vay 25.000.000đ.
Lần 5 : Ngày 12/9/2015 vay 40.000.000đ.
Lần 6 : Ngày 08/7/2016 vay 10.000.000đ.
Lần 7 : Ngày 07/10/2016 vay 20.000.000đ.
Tổng cộng 07 lần vay tiền là 287.000.000đ (Hai trăm tám mươi bẩy triệu đồng), có thỏa thuận lãi xuất và thời hạn vay với nhau nhưng không ghi cụ thể vào giấy vay tiền. Khi tôi cho bà N vay tiền có viết giấy vay tiền và ký nhận với nhau. Những giấy vay tiền này tôi đã nộp cho Tòa án làm chứng cứ để giải quyết vụ án. Còn tôi vay tiền người ta thì ký vào sổ tay của người ta.
Tôi yêu cầu bà Dương Thị N phải hoàn trả cho tôi số tiền nợ gốc là : 287.000.000đ và lãi xuất tính như sau :
Tổng tiền gốc là 287.000.000đ, khoản tiền 257.000.000đ tính lãi xuất 1%/ tháng, khoản tiền 30.000.000đ tính lãi xuất 1,25%/tháng.Cụ thể: 257.000.000đ x 1%/ tháng x 66 tháng 27 ngày (tính đến ngày xét xử 27/5/2022) là 171.933.000đ (Một trăm bảy mươi mốt triệu chín trăm ba mươi ba nghìn đồng).
Đối với khoản tiền vay 20.000.000đ ngày 07/10/2016, tôi yêu cầu tính lãi suất 1.25%/ tháng x 67 tháng 20 ngày (tính đến ngày xét xử 27/5/2022) là : 16.916.000đ (Mười sáu triệu chín trăm mười sáu nghìn đồng).
Đối với khoản tiền vay 10.000.000đ ngày 08/07/2016, tôi yêu cầu tính lãi suất 1.25%/ tháng x 70 tháng 19 ngày (tính đến ngày xét xử 27/5/2022) là : 8.849.000đ (Tám triệu tám trăm bốn mươi chín nghìn đồng).
Tổng số tiền tôi yêu cầu bà N phải trả cho tôi số tiền là : 484.698.000đ. Trong đó, nợ gốc là : 287.000.000đ (Hai trăm tám mươi bảy triệu đồng), nợ lãi là: 197.698.000đ (Một trăm chín mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Phía bị đơn bà Dương Thị N trình bày : Tôi công nhận là có được nhờ bà Vũ Thị M vay hộ tiền cho tôi để giải quyết việc gia đình 10 lần, tổng số tiền vay là 502.000.000đ ( Năm trăm linh hai triệu đồng). Cụ thể ngày vay, số tiền vay và lãi xuất :
Lần 1: ngày 02/11/2013 vay 85.000.000đ x 3,5%/ tháng.
Lần 2: ngày 29/11/2013 vay 100.000.000đ x 3,5%/ tháng.
Lần 3 : ngày 20/3/2015 vay 98.000.000đ x 3,5%/ tháng.
Lần 4: ngày 23/3/2015 vay 44 .000.000đ lãi xuất 3,5%/ tháng.
Lần 5 : ngày 15/5/2015 vay 50.000.000đ x 4%/ tháng.
Lần 6 : ngày 6/7/2015 vay 30.000.000đ x 4%/ tháng
Lần 7 : ngày 09/8/2015 vay 25.000.000đ x4%/ tháng.
Lần 8 : ngày 08/7/2016 vay 10.000.000đ, không tính lãi.
Lần 9 : 07/10/2016 vay 20.000.000đ không tính lãi.
Lần 10 : ngày 12/9/2015 vay 40.000.000đ x 4%/ tháng.
Khi vay tôi có viết giấy vay tiền với bà M, không viết lãi xuất vay trong giấy, không thời hạn vay, nhưng hai bên thỏa thuận miệng với nhau mức lãi xuất, tiền lãi trả hàng tháng, tiền gốc khi nào bà M cần thì báo trước 01 tháng.
Mục đích tôi vay tiền là để trả nợ cho con trai tôi là Nguyễn Nhiêu Q ( vì cháu Q đi vay lãi ngoài lãi xuất cao, nên tôi vay bà M lãi xuất thấp để trả nợ cho con và lo cho con đi nước ngoài.) Tôi đã trả cho bà M 08 lần, với số tiền là: 505.700.000đ.
Lần 1 : Ngày 26/11/2016 trả 189.500.000đ. Trả tại nhà riêng của tôi tại tổ 10 phường Dân Chủ, TP Hòa Bình.
Lần 2 : Từ tháng 01/2016 đến tháng 10/2016 trả cho bà M 95.800.000đ trả bằng hình thức thẻ lương của tôi và lương của chồng tôi là Nguyễn Nhiêu Đ sinh năm 1963.
Lần 3 : Tháng 11/2017 trả 150.000.000đ, trả tại cổng của Ngân hàng Liên việt , phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, có bà Nguyễn Thị Á sinh năm 1962, trú tại : xóm Bái Yên , phường Dân Chủ, thành phố Hòa Bình đi cùng tôi chứng kiến.
Lần 4 : Tháng 7/2027 trả 30.000.000đ tại sân nhà của bà M.
Lần 5 : Năm 2019 con trai tôi là Nguyễn Nhiêu Q sinh năm 1992, hiện nay đang ở quận 7 ,Thành phố Hồ Chí Minh trả trực tiếp cho bà M là 20.000.000đ. tại nhà bà M,.
Lần 6 : Tháng 1/2022 tôi trực tiếp trả cho bà M 10.000.000đ trả tại UBND phường Dân Chủ.
Lần 7 : Bà M tự đi rút 02 tháng lương hưu của tôi tháng 4, tháng 5/2017 02 tháng là 9.400.000đ.( mỗi tháng là 4.700.000đ ).
Lần 8: Lần chồng bà M đi viện khoảng năm 2019 trả 1.000.000đ thông qua bà Nguyễn Thị Á ( bà Á vay tôi 1.000.000đ , bà Á trả thẳng cho bà M).
Toàn bộ những lần tôi trả tiền cho bà M , hai bên không viết giấy tờ gì, không ký nhận gì với nhau cũng không ghi âm, ghi hình. Toàn bộ số tiền tôi trả cho bà M, bà M nói với tôi là tính vào tiền lãi , tôi không đồng ý nhưng bà M vẫn tính vào tiền lãi. Khi trả tiền tôi cũng không lấy lại giấy vay tiền giữa tôi và bà M.Tôi không trả lãi hàng tháng như thỏa thuận. Khi trả tiền cũng không nói rõ với nhau là trả nợ cho khoản vay nào, bao nhiêu tiền trả nợ gốc, bao nhiêu tiền trả nợ lãi .
Chứng cứ chúng minh cho việc tôi trả tiền bà M như tôi đã trình bày ở trên. Ngoài ra không có chứng cứ gì khác.
Nay bà M yêu cầu tôi phải trả cho bà số tiền là 484.698.000đ. Trong đó, 287.000.000đ (Hai trăm tám mươi bảy triệu đồng) là nợ gốc, và 197.698.000đ (Một trăm chín mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng) nợ lãi.Tôi không đồng ý vì tôi đã trả nợ cho bà M nhiều lần. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của Pháp luật.
Ngày 15/04/2022, Tòa án tiến hành lập biên bản về việc kiểm tra giao nộp chứng cứ và hòa giải :
Bà Vũ Thị M cung cấp:
- 07 Giấy vay tiền đề các ngày 20/3/2015 , 23/3/2015 ;15/5/2015; 09/8/2015; 12/9/2015; ngày 08/7/2016 và ngày 07/10/2016 giữa bà Vũ Thị M và bà Dương Thị N.( bản gốc ).
Bà Dương Thị N cung cấp :
-01 giấy oli dòng đầu tiên ghi ngày vay, số tiền nội dung : thể hiện 10 lần vay tiền, không có ký nhận của ai.
-01 giấy oli dòng đầu tiên ghi N nợ cũ tháng trước 2650.000, dòng cuối ghi ba triệu tám trăm sau mươi hai nghìn đồng chẵn, không có ký nhận của ai.
-01 tờ giấy lịch dòng đầu tiên ghi tháng 12, dòng cuối ghi 13tr620 , không có ký nhận của ai. Mặt sau là tờ lịch ghi 27/12/2015.
-01 tờ giấy lịch dòng đầu tiên ghi T10 : 10tr 885, dòng cuối ghi 509tr025 , không có ký nhận của ai. Mặt sau là tờ lịch ghi 26/12/2015 ( màu xanh ).
-01 tờ giấy lịch dòng đầu tiên ghi T11, dòng cuối ghi 12tr520 , không có ký nhận của ai. Mặt sau là tờ lịch ghi 17/11/2015 ( màu vàng ).
-01 tờ giấy dòng đầu tiên ghi T8, dòng cuối ghi 29tr760 , không có ký nhận của ai.
Mặt sau dòng đầu ghi T8 : 44 x 3 =1320, dòng cuối ghi 9/8- Vay tiền giả NHNN: 25tr. không có ký nhận của ai -01 giấy oli dòng đầu tiên ghi T6 44 x 3 = 1320, dòng cuối ghi chữ Dương Thị N , không có ký nhận của ai.
-01 tờ giấy ô li dòng đầu tiên ghi 29/1/2016 vay ngân hàng nông nghiệp chăm mát , dòng cuối ghi tổng cộng 505.786.000đ.
Toàn bộ giấy tờ trên là bản gốc đều là chữ ký viết của bà N, không có chữ ký của bà M.
Tại biên bản hòa giải ngày 15/4/2022 và phiên đối chất ngày 25/5/2022, bà N công nhận có được vay tiền của bà M số tiền là 502.000.000đ nhưng bà đã trả cho bà M 505.786.000đ. Do việc hòa giải không thành, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 27/05/2022.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay :
Phía nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện : yêu cầu bà N phải hoàn trả cho bà số tiền là : 484.698.000đ. Trong đó nợ gốc 287.000.000đ (Hai trăm tám mươi bảy triệu đồng) nợ lãi 197.698.000đ (Một trăm chín mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Phía bị đơn công nhận có được vay tiền nhiều lần của nguyên đơn nhưng đã trả 505.786.000. Không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.
Đại diện VKSND Thành phố Hòa Bình phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Nguyên đơn,bị đơn kể từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án đều tuân theo pháp luật không có vi phạm gì.
Về nội dung vụ án đề nghị HĐXX áp dụng klhoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và các Điều 474, điều 476, điều 477 Bộ luật Dân sự 2005.;Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
Đề nghị HĐXX : chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị M buộc bà Dương Thị N phải trả cho bà M số tiền 287.000.000đ nợ gốc và tiền lãi xuất kèm theo.
Về án phí : Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền : Bị đơn bà Dương Thị N có hộ khẩu thường trú tại Tổ 10, phường Dân Chủ, thành phố Hòa Bình. Căn cứ theo các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình.
[2]. Về quan hệ pháp luật: Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị M đề nghị Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Dương Thị N phải trả khoản tiền vay là 287.000.000đ ( hai trăm tám mươi bảy triệu đồng ) và lãi xuất. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật vụ án là “ Kiện đòi tài sản” theo điều 463 Bộ luật dân sự.
[3] Về nội dung vụ án: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bà M đã cho bà N 07 lần vay tiền là 287.000.000đ ( hai trăm tám mươi bẩy triệu đồng chắn ). chứng cứ chứng minh là 07 giấy vay tiền bản gốc có ký nhận của bà Dương Thị N..
Phía bà Dương Thị N thừa nhận : Bà có được vay tiền của bà M 10 lần tổng số tiền vay là 502.000.000đ ( Năm trăm linh hai triệu đồng ) bà đã trả 505.700.000đ ( Năm trăm linh năm triệu bẩy trăm nghìn đồng). Khi trả tiền hai bên không viết giấy tờ gì, không ký nhận gì. Không ghi âm, ghi hình gì , toàn bộ số tiền bà N trả cho bà M hai bên đều không nói rõ với nhau là trả nợ gốc hay trả nợ lãi và trả cho khoản vay nào.
Bà Vũ Thị M và bà Dương Thị N đã thống nhất được với nhau :
Tổng số tiền bà M cho bà N vay là : 502.000.000đ ( Năm trăm linh hai triệu đồng ).
Số tiền bà N đã trả cho bà M là : : 505.700.000đ ( Năm trăm linh năm triệu bẩy trăm nghìn đồng). Hiện nay bà N còn nợ bà M số tiền 287.000.000 đ ( Hai trăm tám mươi bẩy triệu đồng).
Hai bên không thống nhất được việc đã trả nợ cho nhau : Trả tiền trừ vào nợ gốc hay trừ vào nợ lãi.
Theo bà M : Khi bà N trả tiền bà đã trừ 215.000.000đ tiền nợ gốc và trừ vào tiền lãi của tổng số tiền vay là 502.000.000đ , vì bà N không trả lãi hàng tháng như đã thỏa thuận nên cộng dồn tiền lãi của hàng tháng lại và trừ đi.
Theo bà N : bà M nhận tiền không trừ một đồng nào vào tiền nợ gốc mà trừ toàn bộ vào tiền lãi.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay : bà M cung cấp cho Tòa án 03 giấy vay tiền (bản gốc) của bà N, thể hiện ngày 02/11/2013 vay 85.000.000đ, ngày 29/11/2013 vay 100.000.000đ; ngày 06/7/2015 vay 30.000.000đ cả 03 giấy vay tiền này đã gạch chéo bằng bút bi đỏ theo bà M khai đây là khoản tiền bà M đã trừ vào tiền nợ gốc cho bà N, nên số tiền nợ gốc còn lại là 287.000.000đ.Phù hợp với khoản tiền vay và tiền trả.
Ngày 28/03/2022 Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình ra Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với bà Dương Thị N, yêu cầu Bà N cung cấp giấy tờ tài liệu, sổ sách có liên quan hoặc chứng cứ chứng minh đến việc vay tiền, trả tiền cho bà M, nhưng đến nay bà M không cung cấp chứng cứ gì cho Tòa án.
Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình đã tiến hành lấy lời khai những người làm chứng như bà Bùi Thị Ph, ông Nguyễn Nhiêu Đ, bà Vũ Thị C, bà Nguyễn Thị Á đều trình bày : việc vay tiền và trả tiền giữa bà M và bà N mọi người đều không được chứng kiến, mà chỉ nghe bà M hoặc bà N kể lại có việc hai bà cho nhau vay tiền. Mục đích bà N vay tiền của bà M để trả nợ những chỗ vay lãi xuất cao như 5000đ/1triệu/1 ngày hoặc 8000đ/1triệu/1 ngày có chỗ vay 10.000đ/1 triệu/1 ngày.
Lời khai của bà Dương Thị N không có căn cứ, bà N cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì chứng minh cho việc đã trả nợ cho bà M cụ thể là khoản tiền nào trả nợ gốc, khoản tiền nào trả nợ tiền lãi và trả cho khoản vay nào.Những giấy tờ bà N cung cấp cho Tòa án chỉ là chữ viết của bà N không có chữ ký xác nhận của bà M, do đó chứng cứ này không được chấp nhận.Việc bà M khởi kiện đòi tài sản với bà N là có căn cứ chấp nhận.Từ các quy định của pháp luật đã phân tích trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị M, buộc bà Dương Thị N phải thanh toán khoản tiền còn nợ là 287.000.000 đ ( Hai trăm tám mươi bẩy triệu đồng).
Về tiền lãi xuất HĐXX xét thấy việc bà M, bà N vay tiền của nhau có thỏa thuận mức lãi xuất, tại phiên tòa hôm nay bà M yêu cầu tính lãi xuất , mức lãi xuất bà M yêu cầu phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự nên HĐXX chấp nhận Như vậy buộc bà Dương Thị N phải trả cho bà Vũ Thị M số tiền là 484.698.000đ.
Trong đó nợ gốc: 287.000.000đ (Hai trăm tám mươi bảy triệu đồng) nợ lãi (tính đến ngày 27/5/2022): 197.698.000đ (Một trăm chín mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Bị đơn bà Vũ Thị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điều 26; khoản 1 điều 35, điều 39,điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 471, điều 474, điều 476, điều 477 Bộ luật dân sự 2005; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
1-Tuyên xử:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị M.
Buộc bà Dương Thị N phải trả cho bà Vũ Thị M số tiền là 484.698.000đ ( Bốn trăm tám mươi tư sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng). Trong đó nợ gốc: 287.000.000đ (Hai trăm tám mươi bảy triệu đồng) nợ lãi (tính đến ngày 27/5/2022): 197.698.000đ (Một trăm chín mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án , quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền , hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2-Về án phí :
- Bà Dương Thị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 23.387.920đ (Hai mươi ba triệu ba trăm tám mươi bẩy nghìn chín trăm hai mươi đồng) - Bà Vũ Thị M được hoàn lại số tiền 7.000.000đ (Bẩy triệu đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0001278 ngày 21/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình.
Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự
File gốc của Bản án về kiện đòi tài sản số 09/2022/DS-ST – Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình – Hoà Bình đang được cập nhật.
Bản án về kiện đòi tài sản số 09/2022/DS-ST – Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình – Hoà Bình
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình |
Số hiệu | 09/2022/DS-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2022-05-27 |
Ngày hiệu lực | 2022-05-27 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |