TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 18/2017/DS-ST NGÀY 28/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12/2016/TLST-DS ngày 02 tháng 11 năm 2016 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2017/QĐXX-ST ngày 13 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng nông ngH và phát triển nông thôn Việt Nam. Địa chỉ: Số 02 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật có ông Trịnh Triệu K- Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Đại diện theo ủy quyền lại ông Nguyễn Văn B. Chức vụ: Phó giám đốc chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bắc Trà My. (Theo văn bản ủy quyền ngày 01 tháng 9 năm 2016)
- Bị đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1979.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1978. Cùng trú quán: Thôn Dương Thạnh, xã Trà Dương, Bắc Trà My, Quảng Nam. Ông T và bà H vắng mặt, không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
+ Trong đơn khởi kiện và các lời trình bày tiếp theo tại Tòa án, đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B trình bày:
Năm 2014, ông Lê Văn T và bà Phạm Thị H có vay Ngân hàng nông ngH và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh huyện Bắc Trà My số tiền 30.000.000 đồng (theo hợp đồng tín dụng 421LAV201400903 ngày 09/7/2014). Thời hạn vay là 12 tháng, hạn trả cuối cùng ngày 09 tháng 7 năm 2015. Lãi suất tại thời điểm vay là 08/%/năm. Mục đích vay: chăn nuôi bò.
Trong quá trình vay vốn, ông Lề Văn T không chấp hành thể lệ Ngân hàng, không thực hiện đúng cam kết thỏa thuận theo hợp đồng vay. Ngân hàng đã nhiều lần gửi giấy báo về việc trả lãi suất và nợ gốc nhưng ông T không chịu trả. Tính đến ngày 28 tháng 7 năm 2017 vợ chồng ông T còn nợ Ngân hàng chúng tôi số tiền là 39.933.000 đồng, trong đó nợ gốc: 30.000.000 đồng và nợ lãi là 9.933.000 đồng.
Chúng tôi đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Lê Văn T phải trả nợ gốc và lãi suất theo hợp đồng vay trên cho chúng tôi.
Ngoài ra, ông B không trình bày gì thêm.
Bị đơn ông Lê Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H trong suốt quá trình giải quyết vụ án mặc dù Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt tại Tòa án để giải quyết nên Tòa án không có lời trình bày của ông T và bà H.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam phát biểu về phần thủ tục và nội dung vụ án như sau:
Về phần thủ tục, Tòa án đã tuân thủ đúng, đầy đủ các thủ tục theo luật định như thông báo thụ lý vụ án, tổ chức hòa giải theo quy định.
Về nội dung vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử tuyên buộc vợ chồng ông T trả nợ gốc và lãi theo đề nghị của ông B tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
+ Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ông Lê Văn T và bà Phạm Thị H có hộ khẩu thường trú tại thôn Dương Thạnh, xã Trà Dương, Bắc Trà My, Quảng Nam nên theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa Ngân hàng và ông T, bà H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
+ Về trình tự giải quyết vụ án: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự và Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My theo đúng thời hạn luật định. Đồng thời, Tòa án đã thực hiện các thủ tục tiếp theo như thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ cho các đương sự; thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho các đương sự. Do ông Lê Văn T, bà Phạm Thị H cố tình trốn tránh nên Tòa án không thể tống đạt các thông báo và các quyết định trên cho ông T, bà H nên đã T hành niêm yết theo luật định. Tòa án cũng đã T hành xác minh và xác định hiện tại vợ chồng ông T đang có hộ khẩu và cư trú tại thôn Dương Thạnh, xã Trà Dương, huyện Bắc Trà My, Quảng Nam.
Mặc dù Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng ông T, bà H vắng mặt, không có lý do nên căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án vẫn T hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung vụ án: Ngày 09 tháng 7 năm 2014 vợ chồng ông Lê Văn T và bà Phạm Thị H có vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, chi nhánh huyện Bắc Trà My số tiền 30.000.000 đồng. Thời hạn vay: 12 tháng, lãi suất 08%/năm, mục đích vay: chăn nuôi bò. Từ khi vay đến thời điểm trả nợ ông T, bà H không trả nợ và lãi suất theo thỏa thuận. Do đó vợ chồng ông T, bà H vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, căn cứ vào các Điều 463, 466, 470 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì vợ chồng ông T phải có trách nhiệm trả nợ và lãi suất số tiền là 39.933.000 đồng (tính đến ngày 28 tháng 7 năm 2017) theo hợp đồng vay cho Ngân hàng là đúng quy định.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 27 của Pháp lệnh số: 10/2009/UBTVQH12 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ngày 27 tháng 02 năm 2009 thì ông Lê Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 1.997.000 đồng. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho chi nhánh ngân hàng nông ngH và phát triển nông thôn huyện Bắc Trà My.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 463, Điều 466, Điều 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2, Điều 27 của Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng nông ngH và phát triển nông thôn, chi nhánh huyện Bắc Trà My. Buộc ông Lê Văn T và bà Phạm Thị H phải có trách nhiệm trả nợ gốc và lãi suất cho Ngân hàng nông ngH và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Bắc Trà My số tiền 39.933.000 đồng (ba mươi chín triệu, chín trăm ba mươi ba ngàn đồng) tính đến ngày 28/7/2017.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Về án phí: Ông Lê Văn T phải chịu 1.997.000 đồng (một triệu, chín trăm chín mươi bảy ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng nông ngH và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh huyện Bắc Trà My số tiền 931.000 đồng (chín trăm ba mươi mốt ngàn đồng) theo biên lai thu số 006878 ngày 02 tháng 11 năm 2016 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/6/2017 Ngân hàng có quyền kháng cáo bản án. Ông T, bà H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
File gốc của Bản án 18/2017/DS-ST ngày 28/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản – Tòa án nhân dân Huyện Bắc Trà My – Quảng Nam đang được cập nhật.
Bản án 18/2017/DS-ST ngày 28/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản – Tòa án nhân dân Huyện Bắc Trà My – Quảng Nam
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Trà My - Quảng Nam |
Số hiệu | 18/2017/DS-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2017-07-28 |
Ngày hiệu lực | 2017-07-28 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |