TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 13/2017/DS-ST NGÀY 05/04/2017 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ
Ngày 21 tháng 03 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 203/2013/TL-DS ngày 21 tháng 11 năm 2013 về “Yêu cầu chia thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2016/QĐST- DS ngày 28 tháng 7 năm 2016 giữa:
Nguyên đơn:
Bà Đặng Thị Liên H - sinh năm: 1972 (có mặt) Địa chỉ: Đường T, quận H, thành phố Đa Năng.
Bi đơn:
- Bà Đặng Thị Th T - sinh năm: 1959
- Bà Đặng Thị Thu L - sinh năm: 1968
- Bà Đặng Thị Thu T - sinh năm: 1966
Cùng đia chi: Đường T, quận H, thành phố Đa Năng.
- Bà Đặng Thị Kim H - sinh năm: 1960
Địa chỉ: Đường T, quận H, thành phố Đà Nẵng.
- Bà Đặng Thị Th - sinh năm: 1961
Địa chỉ: tổ 04 phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Đặng Văn Q - sinh năm: 1952.
Địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Quảng Nam.
- Ông Đặng Văn S – sinh năm 1955
Địa chỉ: Đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
- Bà Đỗ Thị H– sinh năm: 1968
- Anh Đặng Văn R – sinh năm 1997
Cùng địa chỉ: Đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
- Bà Phạm Thị C
- Bà Đặng Thị H
- Em Đặng Văn Phúc H – sinh năm 2000
Người đại diện theo pháp luật của em Đặng Văn Phúc H là bà Phạm Thị C (mẹ ruột)
Cùng địa chỉ: Đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
- Ông Đặng Thanh Q - sinh năm: 1965.
Đia chi: thôn H, xa Đ, huyên L, tinh Quang Nam.
- Bà Đặng Thị H - sinh năm 1966
- Chi Đặng Thị K – sinh năm 1984
- Chi Đặng Thị Thanh H – sinh năm 1990
- Anh Đặng Văn Minh H – sinh năm 1994
Cùng trú tại: đường X, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
- Bà Nguyễn Thị T
- Anh Đặng Quang V – sinh năm 1995.
Cùng trú tại: Đường O, quận H, thành phố Đà Nẵng.
- Ông Đăng Văn T - sinh năm: 1970.
Địa chỉ: thôn 4, xã D, huyện X, tỉnh Quảng Nam.
- Ông Nguyễn Văn K - sinh năm 1968.
Địa chỉ: xa A, huyện Q, tỉnh Kiên Giang.
* Các bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt tại phiên tòa.
Người giám định:
Bà Phan Thị Thu H – Thẩm định viên thuộc Công ty N. (có mặt) Địa chỉ: đường Q, quận H, thành phố Đà Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 8 năm 2013 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Đặng Thị Liên H trình bày:
Nhà và đất có diện tích sử dụng là 217,40m2 và diện tích xây dựng là 108,20m2 có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3401102003 do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng cấp ngày 18/9/2003 tại Đường T, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng có nguồn gốc là của ông Đặng Văn Q và bà Trần Thị C. Bà Trần Thị C chết năm 1972 và không để lại di chúc. Ngày 13/02/2006 ông Q chết.
Ông Q và bà C có 13 người con chung và có 02 người con riêng lần lượt là:
1. bà Đặng Thị Th T
2. bà Đặng Thị Th
3. bà Đặng Thị Thu T
4. bà Đặng Thị Thu L
5. ông Đặng Văn Nh. Năm 2006, ông Nh chết. Ông Nh có vợ là bà Phạm Thị C và 02 con là chị Đặng Thị H và anh Đặng Văn Phúc H.
6. ông Đặng Văn S
7. ông Đặng Kim L. Năm 2013, ông L chết. Ông L có vợ là bà Đỗ Thị H và con là anh Đặng Văn R
8. ông Đặng Văn Q
9. ông Đặng Thanh Q (tên gọi khác là Q em)
10. ông Đặng Văn Th (con riêng của ông Q)
11. ông Nguyễn Văn K (con riêng của ông Q)
12. bà Đặng Thị Kim H
13. ông Đặng Minh H (tên gọi khác là Đặng Văn M). Năm 2003, ông Hiệp chết. Ông H có vợ là bà Đặng Thị H và 03 con là chị Đặng Thị K, chị Đặng Thị Thanh H và anh Đặng Văn Minh H
14. ông Đặng Thanh Q (tên gọi khác là Đặng Tấn M). Năm 2007, ông Q chết.
Ông Q có vợ là bà Nguyễn Thị T và con là anh Đặng Quang V.
15. và bà Đặng Thị Liên H.
Ngày 13/02/2006 ông Đặng Văn Q chết, trước khi chết ông Q đã lập di chúc với nội dung: “để lại phần nhà đất thuộc quyền sở hữu của tôi và phần mà tôi thừa kế của vợ có trong ngôi nhà đất nói trên cho con gái tôi là: Đặng Thị Liên H – sinh năm 1972, giấy chứng minh nhân dân số 201085806 cấp tại Đà Nẵng ngày 16.10.1996. Nơi thường trú: tổ 27 phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng”.
Bà Đặng Thị Liên H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia cho bà phần nhà đất mà bà đã được ông Đặng Văn Q cho hưởng theo di chúc ông đã lập. Tuy nhiên, xem xét đến hiện trạng của những người hiện đang sinh sống trên phần đất này, nên bà chỉ yêu cầu được nhận một phần đất có diện tích là 77m2 (ký hiệu là B trên sơ đồ) và nhà ở trên diện tích đất đó. Bà không yêu cầu chia tài sản chung thuộc di sản của bà Trần Thị C để lại.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đồng thời nêu ý kiến tự nguyện chịu chi phí thẩm định giá.
* Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý ngày 07 tháng 7 năm 2006 đến nay , các đương sự là bà Đặng Thị Thu L, bà Đặng Thị Kim H, bà Đặng Thị Thanh T, bà Đặng Thị Th, bà Đặng Thị Thu T, ông Đặng Văn S, ông Đặng Văn Q, ông Đặng Thanh Q (Q em), bà Nguyễn Thị T, bà Phạm Thị C, bà Đặng Thị K, ông Nguyễn Văn K, ông Đặng Văn T, bà Đặng Thị KH và bà Đặng Thị Thanh H thống nhất trình bày:
Họ hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về những người con chung giữa ông Đặng Văn Q và bà Trần Thị C, về con riêng của ông Đặng Văn Q, về hàng thừa kế thứ nhất của những người con đã chết cũng như về thời điểm bà C và ông Q chết. Họ cũng thống nhất về tài sản chung của ông Q và bà C khi còn sống cùng phần di sản của ông Q như nguyên đơn trình bày.
* Trong quá trình tiến hành tố tụng các đương sự là bà Đặng Thị Thu L, bà Đặng Thị Th T, bà Đặng Thị Th, bà Đặng Thị Thu T, ông Đặng Văn S, ông Đặng Văn Q, ông Đặng Thanh Q (Q em), bà Đặng Thị K, ông Nguyễn Văn K, ông Đặng Văn T, bà Đặng Thị KH và bà Đặng Thị Thanh H trình bày:
Họ không thống nhất với yêu cầu khởi kiện về việc chia thừa kế của nguyên đơn bà Đặng Thị Liên H.
* Trong quá trình tiến hành tố tụng các đương sự là bà Nguyễn Thị T, bà Phạm Thị C thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Liên H.
Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng các bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vẫn vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Tranh chấp giữa bà Đặng Thị Liên H và ba Đặng Thị Th T, bà Đặng Thị Thu L, Bà Đặng Thị Thu T, Bà Đặng Thị Kim H, Bà Đặng Thị Th thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét yêu cầu của bà Đặng Thị Liên H về việc chia thừa kế là 77m2 quyền sử dụng đất ở (ký hiệu là B trên sơ đồ kèm theo bản án) và nhà ở trên diện tích đất đó theo di chúc do cha bà là ông Đặng Văn Q lập ngày 17 tháng 01 năm 2006, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Sinh thời, ông Đặng Văn Q và bà Trần Thị C có tạo lập được khối tài sản chung là nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại Đường T, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng có diện tích là 217,40m2 và diện tích xây dựng là 108,20m2 đã được Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3401102003 do cấp ngày 18.9.2003. Sau khi bà C và ông Q chết, các đồng thừa kế của họ đều xác nhận đây là di sản do họ để lại.
Do đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Q và bà C, đồng thời trong thời kỳ hôn nhân họ không có thỏa thuận phân chia tài sản. Do đó có đủ cở sở để xác định di sản do ông Q để lại là 1/2 nhà ở và quyền sử dụng đất ở nêu trên, tương đương với 108,7 m2 quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền trên đất đó.
Bà Trần Thị C chết năm 1972, sau khi bà C chết, ngày 13.10.2003, ông Q cùng các con là Liên H, Thu L, Thu T, Thanh Q, Văn S, Minh H, Kim L, Văn N và Thanh T có thỏa thuận để ông Q chuyển nhượng cho bà Thanh T phần diện tích đất 31,7m2. Do đó phần di sản do ông Q để lại là 77 m2 đất ở và nhà ở trên điện tích đất đó.
Ngày 13/02/2006, ông Đặng Văn Q chết. Trước khi chết, ngày 17.01.2006 ông Đặng Văn Q có lập di chúc tại phòng công chứng số 1 thành phố Đà Nẵng (số công chứng 708 ngày 18.01.2006). Di chúc của ông Q có nội dung: “để lại phần nhà đất thuộc quyền sở hữu của tôi và phần mà tôi thừa kế của vợ có trong ngôi nhà đất nói trên cho con gái tôi là: Đặng Thị Liên H – sinh năm 1972, giấy chứng minh nhân dân số 201085806 cấp tại Đà Nẵng ngày 16.10.1996. Nơi thường trú: tổ 27 phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng”.
Xét tính hợp pháp của di chúc do ông Đặng Văn Q lập, Hội đồng xét xử thấy rằng bản di chúc này có nội dung và hình thức phù hợp với các điều 646, 619, 652, 653, 654, 657 Bộ luật dân sự năm 2005. Kèm theo bản di chúc có biên bản giám định khả năng lao động của Hội đồng giám định y khoa thành phố Đà Nẵng kết luận tại thời điểm ông Q lập di chúc thì tâm thần kinh của ông là hoàn toàn tỉnh táo, tiếp xúc tốt. Vì vậy bản di chúc này có hiệu lực kể từ ngày mở thừa kế (ngày 13.2.2006 ) theo quy định tại điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
Ngoài ra do phần diện tích đất có ký hiệu là “C” trên sơ đồ hiện đã có ngôi nhà của bà Phạm Thị C và bà Đặng Thị Thu L đang ở, phần diện tích đất có ký hiệu là “A” hiện có 01 giếng nước để sinh hoạt chung và là lối đi chung cho các hộ. Do đó yêu cầu được nhận phần diện tích đất ở có ký hiệu là “B” trên sơ đồ là phù hợp với quy định của pháp luật cũng như thực tế sử dụng của các đương sự.
Từ những nhân định trên, hội đồng xét xử thấy rằng có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Đặng Thị Liên H về việc yêu cầu được nhận di sản là 77 m2 quyền sử dụng đất ở và nhà ở trên diện tích đất đó (ký hiệu là B trên sơ đồ kèm theo bản án) do cha bà là ông Đặng Văn Q chết để lại có tứ cận cụ thể như sau:
- Phía bắc giáp với nhà ông Đoàn Ngọc P
- Phía nam giáp với nhà ông Tr và nhà bà Đặng Thị Th T
- Phía tây giáp với nhà ông Tr
- Phía đông giáp với phần diện tích đất còn lại chưa chia.
Tuy nhiên một phần nhà cấp 4 do bà Đặng Thị Thu T, bà Đỗ Thị H, ông Đặng Văn R đang sử dụng. Cũng trên phần diện tích đất này hiện có phần nhà có diện tích 12m2 có ký hiệu là “D” trên sơ đồ do bà Đặng Thị Th dùng phế liệu lắp dựng trái phép (lắp dựng trong lúc Tòa án đang giải quyết tranh chấp hiện không còn giá trị sử dụng). Do đó cần buộc bà Đặng Thị Th tháo dỡ phần nhà này để trả lại diện tích cho bà Liên H, đồng thời cần buộc bà Đặng Thị Thu T, bà Đỗ Thị H, ông Đặng Văn R giao lại ngôi nhà cho bà Liên H.
Án phí dân sự sơ thẩm là 36.000.000đ + [(11.259.000đ x 77m2 + 7.500.000đ) – 800.000.000đ] x 3% = 38.232.290đ.
Chi phí thẩm định giá bà Đặng Thị Liên H tự nguyện chịu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Mặc đã được triệu tập hợp lệ nhưng các bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với những người này.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm:
+ Về phần tố tụng: HĐXX đã chấp hành đúng quy định của BLTTDS
+ Về phần nội dung: đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Vì những lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 điều 147, khoản 2 điều 227, điều 271 và điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các điều 619, 646, 648, , 652, 653, 654, 657 và điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005;
Áp dụng điều 27 Pháp lệnh án phí lệ phí tòa án
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Liên H về việc yêu cầu chia thừa kế.
2. Xử: Di sản của ông Đặng Văn Q là 77 m2 quyền sử dụng đất ở và nhà ở trên diện tích đất đó (ký hiệu là B trên sơ đồ kèm theo bản án).
Bà Đặng Thị Liên H được thừa kế di sản của ông Đặng Văn Q là 77 m2 quyền sử dụng đất ở và nhà ở trên diện tích đất đó (ký hiệu là B trên sơ đồ kèm theo bản án) có tứ cận như sau:
- Phía bắc giáp với nhà ông Đoàn Ngọc P
- Phía nam giáp với nhà ông Tr và nhà bà Đặng Thị Th T
- Phía tây giáp với nhà ông Tr
- Phía đông giáp với phần diện tích đất còn lại chưa chia.
Bà Đặng Thị Liên H có quyền, nghĩa vụ liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở mà bà được hưởng thừa kế.
Buộc bà Đặng Thị Th phải tháo dỡ toàn bộ căn nhà tạm có diện tích 12m2 (có ký hiệu là D trên sơ đồ theo bản án)
Buộc bà Đặng Thị Thu T, bà Đỗ Thị H và ông Đặng Văn R giao lại cho bà Đặng Thị Liên H phần nhà hiện họ đang sử dụng.
3. Án phí dân sự sơ thẩm là 38.232.290đ (ba mươi tám triệu hai trăm ba mươi hai ngàn hai trăm chín mươi đồng) bà Đặng Thị Liên H phải chịu, nhưng được trừ 1.937.500đ (một triệu chín trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm đồng) tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp tại biên lai thu số 6198 ngày 14.11.2013 tại chi cục Thi hành án dân sự quận H. Bà Đặng Thị Liên H còn phải tiếp tục nộp 36.294.790đ (ba mươi sáu triệu hai trăm chín mươi tư ngàn bảy trăm chín mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
File gốc của Bản án 13/2017/DS-ST ngày 05/04/2017 về yêu cầu chia thừa kế – Tòa án nhân dân Quận Hải Châu – Đà Nẵng đang được cập nhật.
Bản án 13/2017/DS-ST ngày 05/04/2017 về yêu cầu chia thừa kế – Tòa án nhân dân Quận Hải Châu – Đà Nẵng
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Số hiệu | 13/2017/DS-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2017-04-05 |
Ngày hiệu lực | 2017-04-05 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |