TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 07/2017/DS-ST NGÀY 12/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNH KHÁCH
Ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2016/TLST - DS ngày 08 tháng 12 năm 2016 về Tranh chấp “Hợp đồng vận chuyển hành khách”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2017/QĐXXST - DS ngày 08 tháng 6 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 13/2017/QĐST – DS ngày 26 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Th - Sinh năm 1943;
Địa chỉ: Số nhà 2A, ngõ 2, đường P, khối phố 5, phường N, thành phố H, tỉnh H.
Có đơn xin xét xử vắng mặt
2.Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải H .
Địa chỉ: Bến xe T, tổ 19, phường B, thành phố L, tỉnh L.
Người đại diện theo pháp luật: Ông T; Chức vụ: Tổng giám đốc Công ty.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phí Đình H;
Chức vụ: Phó Giám đốc điều hành Công ty.
(Văn bản ủy quyền ngày 16 tháng 12 năm 2016); Có mặt.
3. Người làm chứng:
- Anh Trần Thanh T;
Địa chỉ: Xóm 8, xã D, Hện D, tỉnh N.Có mặt.
- Anh Trần H T;
Địa chỉ: xã D, Hện D, tỉnh N.Có mặt.
- Anh Giang Ngọc H;
Địa chỉ: Tổ 5, phường P, thành phố L, tỉnh L.Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 26/10/2016; ngày 14/11/2016 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày:
Ngày 03/3/2016, ông mua vé xe khách chuyến xe chạy hồi 17 h từ H đi L. Khi ra bến xe H, ông có nhờ chị Nguyễn Thị H đưa ra, khi đi ông mang theo 04 nhóm túi hành lý, trong đó có một túi hành lý đựng vào túi ni lon màu đỏ đựng 3 cành Nhung hươi nặng 0,9 kg và 01 kg mực tươi. Lúc đến bến xe H vào khoảng 16 h, nhà xe chưa đón khách, cửa xe vẫn đóng chị H để hành lý cạnh cửa xe song đi về luôn. Khi nhà xe đón khách ông đã giao 4 nhóm hành lý cho anh Giang Ngọc H là phụ xe, trong đó có túi màu đỏ đựng Nhung hươu, anh H giao lại cho ông 04 cuống tem hành lý. Xe ông đi là biển kiểm soát 24B 00638, do anh Trần Thanh T, Trần Huy T(là lái xe), Giang Ngọc H (là phụ xe). Xe chạy đến trạm thu phí 237 (thuộc đường Cao tốc Nội Bài, Lào Cai), ông xin xuống xe lúc đó là 02 giờ 40 phút, ngày 04/3/2016. Ông đã đưa toàn bộ 4 cuống tem hành lý cho anh H, khi anh H giao hàng cho ông thì chỉ có 03 nhóm túi không có túi màu đỏ, ngay lúc đó ông đã nói với anh H là thiếu 01 túi hành lý nhưng anh H bảo “Không tìm thấy” và lên xe chạy và nói lại “Đến bến cháu xem lại trong máy lạnh có không hoặc hỏi hành khách đi trên xe có ai cầm nhầm cháu sẽ gọi điện lại cho bác”, sau đó anh H gọi điện lại và bảo không tìm thấy. Sau khi bị mất tài sản đến 8h sáng ngày 04/3/2017 ông đã đến phòng làm việc của ông H, chức vụ Phó giám đốc điều hành Công ty trình bày đầu đuôi câu chuyện và yêu cầu Công ty phải bồi thường thiệt hại vì đã làm mất tài sản của ông. Đến ngày 07/3/2016 ông mới gửi đơn khiếu nại và yêu cầu bồi thường, nhưng đến nay Công Ty Trách nhiệm hữu hạn vận tải H vẫn chưa bồi thường. Tài sản bị mất là 01kg mực tươi trị giá 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) và 03 cành nhung hươu, nặng 0,9kg, trị giá 9.900.000 đồng (Chín triệu chín trăm ngàn đồng). Nay ông yêu cầu Công ty TNHH H phải bồi thường giá trị số tài sản bị mất là 10.100.000đ (mười triệu một trăm nghìn đồng).
Tại văn bản ngày 16/12/2016 và quá trình giải quyết vụ án Đại diện công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải H trình bày:
Trách nhiệm hữu hạn Vận tải H xác nhận xe của Công ty có chuyến xe chạy ngày 03/3/2016, tại bến xe H là 17h, biển số 24B 00, do anh Trần Thanh T, Trần Huy T (là lái xe), Giang Ngọc H (là phụ xe). Xe ô tô và lái phụ xe là thuộc Công Ty TNHH H. Chuyến xe đó Công ty xác nhận có ông Nguyễn Văn Th mua vé và đi xe, xuống tại km 237 đường Cao tốc Nội Bài - L. Qua việc ông Th trình bày yêu cầu Công ty phải bồi thường 01kg mực tươi và 03 cành nhung hươu, nặng 0,9kg trị giá là 10.100.000đ (mười triệu một trăm nghìn đồng) Công ty không đồng ý vì:
Theo như ông Th trình bày thì chưa đúng quy trình làm việc của Công ty đối với hành khách đi xe có mang theo hành lý, vì tem có hai liên, 01 liên dán vào hành lý cho hành khách, còn một liên giao lại cho hành khách, khi xuống xe hành khách đưa cuống tem và phụ xe sẽ so với tem được dán trên hành lý của khách và trả lại đúng hành lý cho khách. Hàng giao xong rồi sẽ xé tem, còn ông Th đã nộp cho Tòa án 03 tem do bóc từ tem dán trên hành lý. Như vậy nếu ông Th có bốn nhóm hành lý và có bốn cuống tem thì ông Th phải nộp cho Tòa án 3 tem bóc từ hành lý và một tem chưa lấy được hành lý là bốn tem. Đến nay ông Th chưa chứng minh được là đã gửi bốn nhóm hành lý như ông nói, mà ông chỉ chứng minh được có 3 tem gửi hành lý. Đề nghị ông Th chứng minh là đã gửi bốn nhóm hành lý trên xe và hiện nay mới nhận được ba.
Thứ hai khi ông Th nói túi đỏ đựng nhung hươu và mực tươi, khi hành khách lên xe chúng tôi không hỏi trong túi đó đựng hàng gì, nay ông khai cái túi đỏ bị mất là đựng mực tươi và nhung hươi, khi gửi hành lý ông Th không báo với nhà xe là túi đựng Nhung hươu và mực tươi, mặt khác trong quá trình khiếu nại ông Th có nói khi đưa túi cho anh H ông bảo anh H cho vào máy lạnh để bảo ôn độ nhung và mực trong quá trình vận chuyển, nhưng thực tế trên xe không có tủ lạnh để bảo ôn hàng hóa tươi sống như ông Th khai, trên xe chỉ có một tủ lạnh đựng nước uống và khăn lạnh cho hành khách, việc ông Th nói đưa cho anh H để cho vào tủ bảo ôn là không có, vì hàng hóa của ông Th là mực và Nhung hươi cho vào sẽ ảnh hưởng đến nước uống. Vì vậy yêu cầu của ông Th Công ty không đồng ý.
Tại phiên tòa:
Người làm chứng anh Trần Huy T (lái xe) trình bày: Anh là nhân viên lái xe của Công ty TNHH Vận tải H, anh xác nhận ngày 03/3/2016 anh có đi chuyến xe từ H ra L, anh và anh Trần Thanh T là lái xe, phụ xe là anh Giang Ngọc H, tất cả việc nhận hành lý của khách đều do anh Giang Ngọc H làm, khi xe chạy đến km 237 đường Cao tốc Nội B – L anh đang lái xe, khi ông Th xuống xe anh có nghe thấy ông Th nói hành lý đã đủ, nhưng khi xe đến bến xe Trung tâm thì nhận được điện thoại của ông Th nói còn một hành lý trên xe nhưng khi kiểm tra thì không thấy có, sau đó ông Th lên và báo thất lạc hành lý là 0,9 kg nhung Hươu và 01 kg mực tươi. Đối với việc này do anh H trực tiếp nhận hành lý của khách, khi nhận hành lý của khách thì anh không có mặt ở đó vì không phải nhiệm vụ của anh, khi ông Th lên xe anh không nghe thấy ông Th nói c Hện về chiếc túi có đựng Nhung hươi và mực tươi và cũng không nghe thấy ông Th nói với anh H để chiếc túi vào tủ bảo ôn. Anh xác nhận trên xe không có tủ bảo ôn hàng hóa cho hành khách mà chỉ có tủ đựng nước uống.
Người làm chứng anh Trần Thanh T(Lái xe) trình bày: Chiều ngày 3/3/2016 anh và anh Trần Huy T là lái xe và anh Giang Ngọc H là phụ xe, 16h xe đón khách và 17 h xe rời Bến xe H, khi rời bến trên xe duy nhất có một hành khách là ông Nguyễn Văn Th, việc nhận hành lý của khách do phụ xe anh H nhận và làm thủ tục, anh không biết ông Th đi mang theo những hành lý gì. Khi xe chạy đến km 237 đường Cao tốc Nội B – L ông Th xuống xe anh có nghe thấy ông Th nói hành lý đã đủ, nhưng khi xe đến bến xe Trung tâm thì nhận được điện thoại của ông Th nói còn một hành lý trên xe nhưng khi kiểm tra thì không thấy.
Người làm chứng anh Giang Ngọc H (Phụ xe) trình bày: Anh xác nhận ngày 3/3/2016 anh và anh Trần Huy T, anh Trần Thanh T đi làm cùng nhau, anh là phụ xe khi xe nhận khách thì có ông Th lên xe và giao cho anh: 1 vali màu đen, 1 túi bóng màu xanh, 2 túi bóng màu trắng. Tất cả 4 túi đồ đã được dán tem và đưa cho ông Th 4 cuống tem. Khi chạy đến Km 237 thì ông Th xin xuống xe và đưa cho anh 4 cuống tem và anh đã đưa đủ cho ông Th bốn loại hành lý trên, anh có hỏi lại ông Th thì ông Th nói đủ rồi, khi xe chạy được 15 km thì ông Th nói còn thiếu một bọc màu đỏ và anh nói luôn là cháu không biết và không nhận túi nào màu đỏ, khi nào tới bến xem có bọc đỏ nào thừa thì thì cháu gọi. Đến 6h sáng ngày 4/3/2016 thì ông Th đến bến và tìm trên xe không thấy ông Th có nói anh phải bồi thường, trong túi đó có giá khoảng 10 triệu. Sau đó khoảng 8 h anh H và anh T tới nhà người nhà ông Th và ông Th và người nhà ông Th đã đưa ra 4 túi đồ mà anh H đã đưa cho ông Th, trong đó có một túi đồ tem đã bị bóc, còn lại 3 túi đồ vẫn còn nguyên tem. Nay ông Th Nói đã đưa cho anh túi đồ màu đỏ để đưa vào tủ bảo ôn là không đúng vì tủ dùng để đựng nước uống, nếu cho vào có mùi thì tất cả hành khách và lái xe đều biết chứ không phải một mình anh. Vì vậy việc ông Th nói có gửi cho nhà xe một túi đồ màu đỏ và đã bị mất là không có căn cứ.
Tại phiên toà hôm nay Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai có quan điểm: Thẩm phán, hội đồng xét xử giải quyết vụ án dân sự tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp luật, thu thập chứng cứ đúng theo qui định pháp luật. Thư ký phiên toà và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều Điều 527; 528, 529,530,531,532, 533 Bộ Luật dân sự năm 2005;
Căn cứ khoản 1 Điều 147; điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn Th về việc yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn V bồi thường thiệt hại do gửi giữ tài sản làm mất tài sản số tiền là 10.100.000 đồng (mười triệu một trăm ngàn đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên Tòa hôm nay nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do sức khỏe; Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt nguyên đơn.
[2] Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết thì ông Th cho rằng chiều ngày 3/3/2016 ông có mua vé xe khách tuyến H – L, chạy hồi 17h, khi đi ông mang theo bốn nhóm túi hành lý và giao cho phụ xe là anh Giang Ngọc H, trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa anh H cũng thừa nhận ông Th khi đi xe có vé và đã nhận của ông Th 4 nhóm túi hành lý khi ông Th xuống xe, theo quan điểm của ông là nhà xe đã làm mất hành lý của ông nay ông yêu cầu bồi thường, như vậy đây là Hợp đồng vận chuyển hành khách phù hợp với Điều 527 Bộ Luật dân sự năm 2005; Khi sảy ra tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 3 Điều 26 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015, do bị đơn có trụ sở tại thành phố Lào Cai, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L thụ lý giải quyết là đúng theo thẩm quyền.
[3] Nguyên đơn ông Th cho rằng khi lên xe ông có giao cho anh H (Phụ xe) 04 nhóm túi hành lý và anh H đã đưa lại cho ông 4 cuống tem. Tại phiên tòa anh H thừa nhận có nhận của ông Th 4 nhóm túi hành lý và giao lại cho ông Th 4 cuống tem. Khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Như vậy, việc ông Th đi xe và có 4 nhóm hành lý, khi đi xe ông đã đưa cho phụ xe để vận chuyển cùng với bản thân ông là có thật.
[4] Ông Th cho rằng trong 4 nhóm hành lý đưa cho anh H thì có một túi ni lon màu đỏ, chứng cứ ông đưa ra là có chị Nguyễn Thị H là người thuê nhà của ông đưa ông ra bến, khi giao cho anh H ông có bảo trong túi là nhung hươu và mực tươi để anh H cho vào tủ bảo ôn. Tại phiên tòa thì anh H không xác nhận là ông Th đã giao cho anh có một túi hành lý màu đỏ. Trong quá trình giải quyết vụ án thì chị H có đơn xác nhận ghi ngày 08/3/2017, chị xác nhận có đưa ông Th ra bến xe, khi đi ông Th mang theo 4 nhóm túi hành lý trong đó có 01 túi màu đỏ nhưng vì đưa ông Th ra sớm nhà xe chưa đón khách nên chị để 4 nhóm hành lý của ông Th ở cửa lên xuống của xe ô tô song chị đi về, lúc giao hành lý cho phụ xe thì chị không được chứng kiến, như vậy chị H xác nhận có để ở cửa xe, nhưng khi ông Th giao hành lý cho anh H thì chị không được biết, ông Th cũng xác nhận khi giao cho anh H chỉ có ông và anh H, Trần Huy T, anh Trần Thanh T chưa ra xe, tại phiên Tòa thì anh H không thừa nhận đã nhận của ông Th túi ni lon màu đỏ, Trần Huy T, anh Trần Thanh T lái xe thì không được nhìn thấy ông Th giao hành lý cho anh H, ngoài lời khai của ông Th không còn chứng cứ gì khác, Tòa án đã yêu cầu Bến xe H trích xuất Camera ngày 03/3/2016 nhưng không trích xuất được vì lý do không còn lưu trữ, Tòa án đã triệu tập ông Th để đối chất với anh H nhưng ông Th không đến vì lý do sức khỏe, tại phiên tòa hôm nay ông Th có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy tòa án không đối chất được.
[5] Việc ông Th khi đưa túi màu đỏ cho anh H ông có bảo với anh H trong túi có 1 kg mực tươi và 0,9kg nhung Hươu, để anh H bảo quản vào máy lạnh, tại phiên Tòa đại diện Công ty cho rằng trên xe không có tủ bảo ôn để chứa hành lý đông lạnh mà chỉ có tủ để nước uống và khăn lạnh cho hành khách, như vậy việc ông Th nói với anh H để túi đỏ vào tủ bảo ôn lạnh là không có cơ sở. Khi ông Th xuống xe Trần Huy T, anh Trần Thanh T là lái xe cũng xác nhận là ông Th đã nhận đủ hành lý, như vậy không có căn cứ ông Th giao cho anh H hành lý màu đỏ trong đó chứa 1kg mực và 0,9 kg nhung Hươu. Như vậy việc ông Th nói Công Ty Công ty Trách nhiệm hữu hạn V làm mất hành lý của ông và yêu cầu bồi thường số tiền 10.100.000 đồng (Mười triệu một trăm ngàn đồng) là không có cơ sở, Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Th.
[6] Về án phí: Ông Th phải chịu tiền án phí do yêu cầu của ông không được Tòa án chấp nhận, tiền án phí ông Th phải chịu là: 505.000 đồng (Năm trăm linh năm ngàn đồng);
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 527; 528, 529, 530, 531, 532, 533 Bộ Luật dân sự năm 2005;
Căn cứ khoản 1 Điều 147; điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án năm 2009;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn Th về việc yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Vận tải H bồi thường thiệt hại do gửi giữ tài sản làm mất số tiền là 10.100.000 đồng (mười triệu một trăm ngàn đồng).
2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn Th phải chịu tiền án phí do yêu cầu của ông không được Tòa án chấp nhận là: 505.000 đ (Năm trăm linh năm ngàn đồng). Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi ngàn đồng) theo biên lai số 0009765 ngày 08/12/2016 của Chi cục Thi hành án thành phố Li. Ông Nguyễn Văn Th còn phải nộp 255.000 đ (Hai trăm năm mươi năm ngàn đồng).
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
File gốc của Bản án 07/2017/DS-ST ngày 12/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vận chuyển hành khách – Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai – Lào Cai đang được cập nhật.
Bản án 07/2017/DS-ST ngày 12/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vận chuyển hành khách – Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai – Lào Cai
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Số hiệu | 07/2017/DS-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2017-07-12 |
Ngày hiệu lực | 2017-07-12 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |