TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 23/2017/DS-ST NGÀY 17/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 17 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2017/TLST-DS ngày 22 tháng 03 nam 2017 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2017/QĐXX-ST ngày 07 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
+ Nguyên đơn: Bà Ong Thị Q, sinh năm 1961
Địa chỉ: Số nhà A, ngõ Z, đường Ng, phường H, thành phố B, tỉnh B . (Có mặt tại phiên tòa)
+ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964
Địa chỉ: Số nhà X, ngõ Y, đường H, phường H, TP. B, tỉnh B . (Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Ong Thị Q trình bày: Năm 2016 bà cho ông H vay số tiền 50.000.000 đồng, khi vay ông H có viết cho bà giấy vay tiền ngày 19/9/2016. Ông H hẹn hai tháng sau trả, đến hạn bà có đòi nhiều lần nhưng ông H không trả. Nay bà yêu cầu một mình ông H phải trả bà số tiền gốc là 50.000.000 đồng và bà không yêu cầu tính lãi
Số tiền này là của cá nhân bà, không liên quan gì đến chồng và con bà, khi viết giấy chỉ một mình bà ký.
+ Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải và triệu tập ông H nhiều lần, nhưng ông H cố tình không đến Tòa án làm việc và trình bày quan điểm đối với việc giải quyết vụ án, do vậy Tòa án đã niêm yết toàn bộ giấy tờ cho ông H tại địa chỉ ông H đang sinh sống.
+ Tòa án đã mở phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không hòa giải được vì ông H vắng mặt.
+ Ngày 30/6/2017, Tòa án mở phiên tòa, nhưng ông H vắng mặt lần thứ nhất không có lý do. Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa hôm nay ông H tiếp tục vắng mặt, Tòa án xét xử vắng mặt ông H
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu:
Ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Ý kiến giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Quy, buộc ông H phải trả cho bà Q số tiền gốc 50.000.000 đồng; Ông H phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Qua xác minh tại địa phương, ông H vẫn đang sinh sống tại địa chỉ Số nhà X, ngõ Y, đường H, phường H, thành phố B, tỉnh B . Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông H tiếp tục vắng mặt không có lý do. Tòa án nhân dân thành phố B xét xử vắng mặt ông H là phù hợp với quy định tại các Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Quan hệ tranh chấp giữa bà Ong Thị Q và ông Nguyễn Văn H là quan hệ dân sự giữa cá nhân với cá nhân, các bên không tự giải quyết được tranh chấp phát sinh, nguyên đơn làm đơn khởi kiện theo thủ tục Tòa án. Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật và thẩm quyền được qui định tại các Điều 26; Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp thì thấy: Theo như giấy vay tiền ngày 19/9/2016 thể hiện ông H vay của bà Q số tiền 50.000.000 đồng, hẹn 02 tháng thì trả. Bà Q có đòi nhiều lần nhưng ông H không trả. Ngày 02/3/2017, bà Q nộp đơn khởi kiện ra Tòa án. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005.
[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Q yêu cầu ông Nguyễn Văn H trả số tiền gốc vay là 50.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 19/9/2016 thì thấy: Ngày 19/9/2016 ông H có viết giấy vay tiền của bà Q số tiền 50.000.000 đồng, nội dung giấy vay tiền như sau: “Hôm nay ngày 19/9/2016 tại TPBG tôi đứng tên dưới đây Nguyễn Văn H, Đ/c 26... có vay của bà Ong Thị Q, đ/c phường H ... số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu đồng) thời hạn vay 02 tháng (kể từ ngày 19/9/2016 đến 19/11/2016). Nay tôi đã nhận đủ số tiền trên tôi cam kết trả đúng theo thỏa thuận nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Qua giấy vay tiền trên và trình bày của nguyên đơn có căn cứ xác định ông H vay của bà Q số tiền 50.000.000 đồng, ông H chưa trả được cho bà Q số tiền trên, nay bà Q yêu cầu ông H phải trả số tiền 50.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 19/9/2016. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 474, Bộ luật dân sự năm 2005.
Bà Q không yêu cầu tiền lãi, do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Yêu cầu của bà Q được chấp nhận, do vậy ông H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hoàn trả bà Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 Điều 271; Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 471; Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005. Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. Khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử: Buộc ông Nguyễn Văn H phải trả cho bà Ong Thị Q số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) theo giấy vay tiền ngày 19/9/2016.
Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu bên phải thi hành không thi hành thì hàng tháng còn phải trả cho bên được thi hành số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành số tiền còn phải trả.
Về án phí: ông Nguyễn Văn H phải chịu 2.500.000 đồng án phí DSST. Hoàn trả bà Ong Thị Q số tiền 1.250.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2012/06137, ngày 22 tháng 3 năm 2017 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.
File gốc của Bản án 23/2017/DS-ST ngày 17/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản – Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang – Bắc Giang đang được cập nhật.
Bản án 23/2017/DS-ST ngày 17/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản – Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang – Bắc Giang
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Số hiệu | 23/2017/DS-ST |
Loại văn bản | Bản án |
Người ký | Đã xác định |
Ngày ban hành | 2017-07-17 |
Ngày hiệu lực | 2017-07-17 |
Lĩnh vực | Dân sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |