CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 64/BC-CP | Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2008 |
BÁO CÁO QUỐC HỘI
KẾT QUẢ 5 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 16/2003/QH11 VỀ “TỔ CHỨC QUẢN LÝ, DẠY NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN”
Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2003/QH11, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội kết quả cụ thể như sau:
1. Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
Hàng năm, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và các Bộ liên quan đã cử cán bộ tham gia các Đoàn giám sát của Quốc hội về tình hình triển khai Nghị quyết 16/2003/QH11 tại một số địa phương;đồng thời phối hợp với Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức 2 Hội nghị sơ kết việc triển khai thực hiện Đề án để rút kinh nghiệm cho Thành phố và các địa phương khác. Ngày 11/4/2008 vừa qua Chính phủ đã tổ chức Hội nghị Tổng kết 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 16/2003/QH11 để đánh giá đầy đủ những kết quả đạt được, những khó khăn vướng mắc và bài học kinh nghiệm làm cơ sở báo cáo Quốc hội.
a) Về đầu tư xây dựng cơ bản vật chất:
Tổng kinh phí đầu tư từ ngân sách thành phố để triển khai Đề án đến nay là 1302,5 tỷ đồng gồm: chi thường xuyên 762 tỷ đồng cho các hoạt động quản lý, dạy nghề, giải quyết việc làm, chăm sóc y tế, tái hòa nhập cộng đồng; Chi đầu tư cơ sở vật chất các cơ sở cai nghiện và quản lý sau cai trên 460 tỷ đồng; chi đầu tư cơ sở hạ tầng như: điện, đường, trường học, trạm xá... cho các địa phương nơi các Trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh trú đóng là 80,5 tỷ đồng.
b) Thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của đề án:
Khu quản lý người sau cai nghiện được trang bị đầy đủ tiện nghi, có điện thoại công cộng, tivi, đầu máy, hệ thống loa phát thanh, sách báo, có nhà câu lạc bộ, sân thể thao và các siêu thị nhỏ ...với môi trường xanh, sạch, đẹp. Người sau cai nghiện được sinh hoạt trong môi trường văn hóa, thân thiện và đoàn kết; xây dựng lối sống có nề nếp, lành mạnh. Thành phố đã cố gắng tạo môi trường học tập, rèn luyện, lao động, sản xuất cho người sau cai nhằm ”cách ly môi trường ma tuý mà vẫn đảm bảo đời sống sinh hoạt cho người sau cai nghiện. Vào những ngày Lễ, Tết, thành phố tổ chức các Đoàn văn nghệ chuyên nghiệp đến biễu diễn phục vụ nhằm động viên cán bộ, nhân viên an tâm công tác, học viên và người sau cai nghiện học tập, lao động tiến bộ.
Đời sống vật chất của học viên được cải thiện đáng kể, ngoài kinh phí do ngân sách cấp 180.000 đồng/người/tháng, người sau cai đóng góp thêm 50.000-75.000 đồng/người/tháng từ lao động sản xuất, cộng thêm nguồn rau xanh và các loại thực phẩm tự túc sản xuất nên chất lượng bữa ăn hàng ngày được cải thiện. Công tác chăm sóc sức khỏe ở các Trung tâm được quan tâm, mỗi năm 2 lần khám sức khoẻ cho học viên và người sau cai; Các Trung tâm đã làm tốt công tác bảo vệ môi trường, xử lý rác thải y tế và an toàn vệ sinh thực phẩm nên những năm qua chưa cơ sở nào bị xảy ra dịch bệnh hoặc ngộ độc thức ăn.
+ Làm việc và định cư tại cơ sở cai nghiện: Các Trung tâm đã tổ chức trồng rừng, trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng rau xanh và chăn nuôi gia súc; tổ chức sản xuất, gia công chế biến thực phẩm với tổng giá trị sản phẩm khoảng 310 tỷ đồng. Nhờ đó, đã tự túc được 70 - 80% rau xanh và 50 - 60% nhu cầu thực phẩm hàng ngày, vừa góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn, đồng thời giải quyết việc làm, tạo thêm thu nhập cho học viên và người sau cai. Cùng với việc tổ chức sản xuất để cải thiện đời sống, các Trung tâm đã chủ động liên kết với các doanh nghiệp, các HTX để tổ chức dạy nghề và tạo việc làm cho học viên.
+ Giải quyết việc làm trong các Tổng Đội lao động tình nguyện tại các công trình xây dựng cơ bản phục vụ dân sinh: do các đơn vị không đáp ứng yêu cầu của thủ tục đấu thầu và điều kiện sức khỏe của người sau cai không đảm bảo lao động nặng nhọc nên mô hình này không triển khai đại trà được chỉ có Tổng Đội 1, Lực lượng Thanh niên xung phong là thực hiện được.
d) Quản lý và giúp đỡ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng:
- Tính đến 31/03/2008, Thành phố đã có quyết định giải quyết cho 13.771 người sau cai tái hòa nhập cộng đồng, có 11.566 người về sống với gia đình ở thành phố và 683 người được chuyển về các tỉnh khác, số còn lại 1.522 người về làm việc tại Cụm Công nghiệp Nhị Xuân, tái định cư hoặc ở lại làm việc tại một số Trung tâm. Trong đó số người về tái hoà nhập cộng đồng 12,249 người (không tính số về Khu Công nghiệp Nhị Xuân); thời gian về cộng đồng cụ thể như sau:
+ Từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 2.597 người;
+ Trên 24 tháng là 124 người.
- Theo báo cáo của các xã phường, quận huyện của thành phố mới phát hiện được 687 người tái nghiện trên 11.566 người tái hoà nhập cộng đồng chiếm tỷ lệ 6%, trong đó đối tượng tái nghiện chủ yếu trong thời gian 6 tháng đầu mới về tái hòa nhập (455/687 người). Đây là kết quả bước đầu, nhưng trên thực tế và trong thời gian tới tỷ lệ tái nghiện còn cao hơn (trước khi thực hiện Đề án thì tỷ lệ tái nghiện trong 6 tháng đầu mới về tái hoà nhập là 90%).
Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 214/2006/QĐ-TTg ngày 27/9/2006. Tuy là địa phương xây dựng Đề án sau cai muộn hơn, nhưng do rút kinh nghiệm quá trình triển khai Nghị quyết số 16/2003/QH11 của Thành phố Hồ Chí Minh nên Hà Nội có cách làm chắc chắn, không ồ ạt. Sau 18 tháng triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Hà Nội đã đạt được một số kết quả chủ yếu như sau:
- Tính đến hết tháng 2/2008, Thành phố đã xét duyệt, chuyển 1.490 học viên đủ điều kiện tham gia Đề án sau cai sang giai đoạn 2 (đạt xấp xỉ chỉ tiêu 1.500 người của Thành phố đề ra). Các Trung tâm quản lý người sau cai nghiện đã bố trí nơi ăn, ở rộng rãi, thoáng mát. Ngoài giờ học tập, lao động người sau cai nghiện tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, trao đổi thư từ, điện thoại với gia đình, thăm gặp người thân. Các Trung tâm đều mở rộng diện tích trồng rau xanh, chăn nuôi gia cầm, gia súc để cải thiện bữa ăn cho học viên. Định kỳ 6 tháng/lần học viên và người sau cai được khám sức khoẻ, xác định bệnh để có chế độ điều trị kịp thời. Thành phố có chế độ hỗ trợ từ 50% đến 100% tiền ăn, thuốc chữa bệnh thông thường, tiền điện nước và tiền học nghề cho người sau cai nghiện, tuỳ theo hoàn cảnh khó khăn về kinh tế hoặc gia đình chính sách.
- Ngoài tham gia lao động sản xuất chung của Trung tâm, người sau cai được bố trí thực hành và lao động sản xuất theo đúng nghề được học, vừa kết hợp luyện tay nghề vừa có thu nhập bảo đảm 100% người sau cai có việc làm ổn định với thu nhập bình quân 250.000đ-300.000đ/tháng, một số đạt 500.000đ/người/tháng.
b) Đề án sau cai của Quảng Ninh được triển khai từ tháng 2/2006. Đến ngày 15/01/2008, tại Trung tâm Giáo dục- Lao động xã hội Hoành Bồ có 793 học viên, trong đó có 61 người sau cai nghiện. Do số người sau cai còn quá ít nên Trung tâm kết hợp các lớp dạy nghề cho người sau cai cùng với học viên đang cai giai đoạn 1 như hàn, nề, điện dân dụng, chế tác đá quý (kết hợp tạo việc làm cho học viên và người sau cai). Đồng thời tổ chức cho học viên, người sau cai tham gia khai hoang, trồng trọt chăn nuôi và đảm nhận xây dựng một số hạng mục công trình của Trung tâm. Trung tâm hiện nay đang gặp khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho người sau cai vì chưa thu hút được các nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư cơ sở sản xuất vào Trung tâm.
d) Đề án sau cai của Long An được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 200/2006/QĐ-TTg ngày 29/8/2006. Do chưa chuẩn bị được cơ sở vật chất để triển khai Đề án, vì vậy đến nay Trung tâm mới chuyển được 45 học viên cai nghiện sang giai đoạn sau cai; tổ chức 1 lớp dạy nghề hàn điện cho 27 người với thời gian 4 tháng; tổ chức lao động sản xuất (chủ yếu bóc hạt điều), với thu nhập từ 180.000đ tới 200.000đ/người/tháng và số tiền này được gửi tiết kiệm cho người sau cai (tổng số 32 người sau cai đã gửi được 24.142.000đ). Tỉnh đang cố gắng đẩy mạnh tiến độ xây dựng cơ bản để nhanh chóng đưa Trung tâm vào hoạt động đáp ứng quy trình cai nghiện và các hoạt động, quản lý sau cai theo các nhiệm vụ, mục tiêu Đề án sau cai đề ra.
2. Thực hiện Đề án quản lý sau cai là thể hiện quan điểm nhân văn, nhân đạo hết sức tốt đẹp của Đảng, Nhà nước đối với những người đã có thời kỳ lầm lạc, sa vào tệ nghiện ma túy. Hàng vạn người đã được cai nghiện; học tập nâng cao trình độ văn hoá, rèn luyện nhân cách; được học nghề, nâng cao tay nghề hỗ trợ tạo việc làm, bảo đảm điều kiện tái hoà nhập cộng đồng (ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số học viên còn được theo học Đại học từ xa). Người nghiện ma tuý không bị kỳ thị, phân biệt đối xử mà được chữa trị, học tập, rèn luyện làm lại cuộc đời.
4. Về mặt kinh tế-xã hội, với hàng vạn người ở các địa phương tham gia Đề án sau cai, trong thời gian từ 4 năm đến 5 năm đã tiết kiệm cho xã hội hàng ngàn tỷ đồng/năm, (nếu tính bình quân mỗi người nghiện 1 ngày sử dụng 1 liều ma túy với giá 50.000đồng thì chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã đỡ tốn phí gần 3.000 tỷ đồng/năm). Như vậy số tiền đầu tư trên 1.000 tỷ đồng cho công tác cai nghiện ma tuý của Thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm 1/3 số tiền tiêu phí cho sử dụng ma tuý của các đối tượng (1.000/3.000 tỷ đồng). Số tiền đầu tư vào cơ sở vật chất cho công tác cai nghiện ma tuý khi hết thời gian thực hiện Đề án sẽ được tiếp tục sử dụng cho công tác cai nghiện hoặc sử dụng mục đích an sinh xã hội. Ngoài ra về mặt xã hội đã tạo điều kiện cho hàng vạn người nghiện trong lứa tuổi lao động được chữa trị, học nghề và tham gia lao động sản xuất, đã tạo ra được nhiều sản phẩm có ích cho xã hội, giúp hàng nghìn gia đình người nghiện không bị rơi vào cảnh ly tán, đói nghèo cùng cực vì tệ nghiện ma túy.
IV. NHỮNG TỒN TẠI, KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 16/2003/QH11
1. Thời gian triển khai Nghị quyết 16/2003/QH11 không đồng nhất ở 7 địa phương nên đa số các địa phương chưa kịp triển khai thực hiện những mục tiêu của Đề án sau cai nghiện thì thời gian hết hiệu lực của Nghị quyết đã sắp tới. Tại Quảng Ninh, Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu các nhiệm vụ, chỉ tiêu của Đề án sau cai chưa có thời gian thực hiện, thậm chí có nơi mới bắt đầu triển khai thực hiện. Chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh là có số lượng lớn người đã hoàn thành thời gian tham gia Đề án sau cai tái hoà nhập cộng đồng, 6 địa phương còn lại chưa có người tái hoà nhập cộng đồng nên chưa có đủ căn cứ về mặt thời gian để đánh giá về tỷ lệ tái nghiện cao hay thấp. Tỷ lệ tái nghiện của thành phố Hồ Chí Minh báo cáo mới chỉ là bước đầu và phải có thời gian để theo dõi đánh giá xem xét kết quả, vì vậy chưa thể khẳng định tính bền vững lâu dài.
3. Trình độ văn hóa, ý thức tổ chức kỷ luật của người sau cai có những hạn chế, khó tiếp thu kiến thức văn hóa, học nghề; do sức khoẻ kém không thể đảm bảo ngày công lao động, năng suất thấp và chất lượng sản phẩm chưa cao, dẫn đến các doanh nghiệp tham gia Đề án gặp khó khăn trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, khả năng thu hồi vốn.
1. Trước hết, cần tập trung và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về ý nghĩa, nội dung và các mục tiêu của Nghị quyết 16/QH11/2003 của Quốc hội và Đề án sau cai ở từng địa phương sâu rộng đến các cơ quan, tổ chức, các cấp, các ngành cho tới mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt lưu ý tới bản thân người nghiện và gia đình họ. Từ đó nâng cao nhận thức, tạo sự ủng hộ, đồng thuận và tham gia tích cực của mọi tổ chức, cá nhân để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 16/2003/QH11 của Quốc hội cũng như các Đề án sau cai.
3. Cần căn cứ vào khả năng ngân sách của từng địa phương để xác định quy mô, mức độ đầu tư cho phù hợp, bảo đảm các điều kiện để triển khai thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu, chỉ tiêu của Đề án sau cai theo tinh thần Nghị quyết Quốc hội đề ra. Đồng thời quan tâm kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhân viên cả về số lượng, chất lượng với trình độ năng lực quản lý, lãnh đạo và chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật, nhiệt tình và sáng tạo trong công việc; thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và có các chính sách, chế độ, động viên, khuyến khích để họ yên tâm phấn khởi làm việc và hoàn thành nhiệm vụ; có các chính sách, chế độ với người cai nghiện để họ yên tâm, tin tưởng tham gia Đề án sau cai.
5. Kết hợp thực hiện Đề án sau cai với các phong trào, cuộc vận động của địa phương như: Phong trào toàn dân xây dựng nếp sống văn hóa, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình giải quyết việc làm… để giúp đỡ người sau cai tái hoà nhập cộng đồng sớm ổn định cuộc sống, có việc làm và thu nhập bảo đảm đời sống lâu dài. Đồng thời phối hợp chặt chẽ giữa việc giảm cầu đi đôi với giảm cung để làm trong sạch môi trường ma tuý, tạo điều kiện thuận lợi cho người sau cai chống tái nghiện có hiệu quả. Đây là yếu tố quyết định sự thành công của Đề án sau cai ở từng địa phương nói riêng và của Nghị quyết 16/2003/QH11 nói chung.
1. Đề nghị Quốc hội cho phép được bảo lưu thời gian của những trường hợp đã đưa người sau cai tham gia Đề án đến khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma tuý có hiệu lực.
- Khẳng định rõ 2 biện pháp cai nghiện tự nguyện và cai nghiện bắt buộc;
- Qui định thời gian quản lý người sau cai nghiện từ 1 đến 3 năm;
- Quy định rõ trách nhiệm của gia đình và chính quyền cơ sở trong công tác cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai.
- Sửa đổi Điểm c, Khoản 1, Điều 19 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp với nội dung: bổ sung các cơ sở, doanh nghiệp sử dụng người lao động là người sau cai nghiện ma tuý được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ hoạt động dạy nghề, sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Điều 199 Bộ luật Hình sự để làm căn cứ điều chỉnh Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 135/2004/NĐ-CP theo hướng : người cai nghiện tái hoà nhập cộng đồng tái nghiện trong thời hạn 2 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định đưa vào Cơ sở chữa bệnh thì có thể đưa quay lại Cơ sở chữa bệnh để tiếp tục cai nghiện./.
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- UBTV Quốc hội;
- UB các VĐXH, UB pháp luật của QH;
- Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng;
- Các Bộ : Tư pháp, Công an, Tài chính, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Thông tin – Truyền thông, Văn hoá Thể thao và Du lịch, Giáo dục và Đào tạo, Nội vụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- UBND T.p Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Quảng Ninh, Tây Ninh, Long An, Bình Dương;
- Văn phòng Chính phủ;
- Lưu : Văn thư, Vụ Văn xã (VPCP).
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT LIÊN QUAN TỚI VIỆC TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT SỐ 16/2003/QH11
(Kèm theo Báo cáo số 64/BC-CP ngày 05/5/2008 của Chính phủ)
STT | Hình thức và số văn bản | Ngày, tháng, năm | Trích yếu Nội dung | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1. |
19/7/2004 |
2. |
03/7/2007 |
3. |
24/01/2007 |
4. |
09/5/2007 |
5. |
20/9/2006 |
6. |
20/8/2007 |
7. |
18/01/2007 |
1. |
02/10/2003 |
2. |
22/7/2005 |
3. |
08/2/2006 |
4. |
26/5/2006 |
5. |
29/8/2006 |
6. |
27/9/2006 |
7. |
29/9/2006 |
Số đối tượng nghiện ma túy đưa vào các Trung tâm năm 2002 chuyển sang đầu năm 2003: 25.635 người (kèm theo báo cáo số 64/BC-CP ngày 05/5/2008 của Chính phủ) Đơn vị tính: Người
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY Ở TP HỒ CHÍ MINH
|