HỘI ĐỒNG TƯ VẤN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 129/HĐTVĐX | Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2009 |
HƯỚNG DẪN
VỀ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH SỐ 1002/2009/QĐ-CTN NGÀY 08 THÁNG 7 NĂM 2009 CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VỀ ĐẶC XÁ NĂM 2009 (ĐỢT 2)
I. ĐỐI TƯỢNG XÉT ĐẶC XÁ
II. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ
a) Chấp hành tốt Quy chế, Nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cụ thể như sau:
- Phạm nhân bị phạt tù trên mười lăm năm đến ba mươi năm phải có ít nhất ba năm (2006, 2007, 2008) và 6 tháng đầu năm 2009 được xếp loại cải tạo khá trở lên, thời gian tiếp theo được đánh giá cải tạo tốt.
- Phạm nhân bị phạt tù trên ba năm đến bảy năm phải có ít nhất một năm (2008) và 6 tháng đầu năm 2009 được xếp loại cải tạo khá trở lên, thời gian tiếp theo được đánh giá cải tạo tốt.
- Phạm nhân bị phạt tù từ một năm đến hai năm phải có ít nhất 6 tháng đầu năm 2009 được xếp loại khá trở lên, thời gian tiếp theo được đánh giá cải tạo tốt.
(Theo Quyết định số 1269/2002/QĐ-BCA(V26) ngày 17/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành 4 tiêu chuẩn thi đua chấp hành hình phạt tù và quy định xếp loại thi đua chấp hành hình phạt tù, định kỳ 3 tháng, 6 tháng và một năm, gồm 4 loại: tốt, khá, trung bình, kém. Thời gian xếp loại quý I vào ngày 25 tháng 02; quý II và 6 tháng đầu năm vào ngày 25 tháng 5; quý III vào ngày 25 tháng 8; quý IV, 6 tháng cuối năm và cả năm vào ngày 25 tháng 11 hàng năm và theo Quyết định số 251/2003/QĐ-BQP ngày 07/10/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành tiêu chuẩn thi đua và xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù trong các trại giam, trại tạm giam quân sự do Bộ Quốc phòng quản lý).
b) Đã chấp hành hình phạt tù ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Thời gian được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù (nếu có) được tính để trừ vào phần thời hạn tù còn lại.
c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác, trừ những người không bị kết án tù về các tội phạm về tham nhũng đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi nhưng thường xuyên ốm đau hoặc người đang mắc bệnh hiểm nghèo mà bản thân người đó và gia đình không còn khả năng thực hiện.
Phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội mà trong bản án, quyết định của Tòa án giao trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác cho bố mẹ hoặc người đỡ đầu thì phải có căn cứ chứng minh bố mẹ hoặc người đỡ đầu đã thực hiện xong bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự mới được xem xét, đề nghị đặc xá.
Các trường hợp sau đây được coi là đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác:
- Phạm nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự cho người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại nhưng chưa thực hiện hoặc mới thực hiện được một phần mà bên bị hại có văn bản đồng ý xóa nợ, không yêu cầu thực hiện nữa, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc Cơ quan Thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó xác nhận, thì được coi là đã thực hiện xong.
- Phạm nhân bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác nhưng chưa thực hiện hoặc mới thực hiện được một phần mà có Quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền (Quyết định này được thực hiện theo quy định của Pháp luật Thi hành án dân sự năm 2004) thì cũng được xem xét đề nghị đặc xá.
- Các trại giam, trại tạm giam phải thực hiện tốt việc vận động, hướng dẫn và tạo điều kiện cho phạm nhân liên lạc với thân nhân, đôn đốc việc thực hiện đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác tại cơ quan thi hành án dân sự; thu các khoản tiền mà phạm nhân nộp để thực hiện các nghĩa vụ đã nêu, cấp giấy xác nhận cho phạm nhân làm căn cứ đưa vào hồ sơ xét đề nghị đặc xá và chuyển số tiền đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù: là phạm nhân đã có hành động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm; cứu được tính mạng của nhân dân hoặc tài sản lớn (có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên) của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được cơ quan có thẩm quyền xác nhận;
c) Có một trong những người thân sau đây là liệt sỹ: bố đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con đẻ, anh, chị, em ruột hoặc bố nuôi, mẹ nuôi, con nuôi hợp pháp;
đ) Người mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong các bệnh sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở lên; nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có những nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu.
(Các tài liệu chứng minh phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên chỉ có giá trị trong thời gian sáu tháng, tính đến ngày Hội đồng xét đề nghị đặc xá của trại giam, trại tạm giam họp xem xét, lập hồ sơ đề nghị đặc xá).
h) Là người từ 70 tuổi trở lên;
k) Nữ phạm nhân đang có thai hoặc có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam;
Người có đủ điều kiện quy định tại Mục II Hướng dẫn này không được đề nghị đặc xá trong các trường hợp sau đây:
b) Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;
d) Có từ hai tiền án trở lên;
e) Phạm nhân thuộc đối tượng quy định tại điểm 1 Mục II Hướng dẫn này có thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại trên sáu năm; thuộc đối tượng quy định tại điểm 2 Mục II của Hướng dẫn này mà có thời hạn tù còn lại trên tám năm;
h) Có căn cứ khẳng định là đã sử dụng trái phép các chất ma túy;
k) Phạm tội cướp tài sản có tổ chức và có sử dụng vũ khí; cướp giật tài sản có tổ chức và thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần (từ hai lần trở lên); cướp giật tài sản có tổ chức gây hậu quả nghiêm trọng;
4. Những trường hợp cần xem xét chặt chẽ:
b) Phạm nhân phạm tội giết người; cướp tài sản có tổ chức; cướp tài sản có sử dụng vũ khí; cướp giật tài sản có tổ chức; lừa đảo; hiếp dâm trẻ em; cố ý gây thương tích có tính chất côn đồ hoặc băng, ổ, nhóm thanh toán lẫn nhau; phạm nhân là đối tượng côn đồ hung hãn (có 2 tiền sự trở lên); phạm nhân đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng;
d) Phạm các tội về ma túy; đối tượng chủ mưu, cầm đầu trong các vụ án mà dư luận xã hội quan tâm.
1. Hồ sơ xét đặc xá
a) Đơn xin đặc xá của phạm nhân;
c) Cam kết của phạm nhân không vi phạm pháp luật, tiếp tục chấp hành xong hình phạt bổ sung khác (nếu có) sau khi được đặc xá (làm theo mẫu);
đ) Các loại giấy chứng nhận của người được xét đặc xá là những phạm nhân từ 70 tuổi trở lên, phạm nhân trên 60 tuổi mà thường xuyên ốm đau và phạm nhân đang mắc bệnh hiểm nghèo mà gia đình và bản thân người đó không còn khả năng thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác và các đối tượng quy định tại điểm 2, Mục II Hướng dẫn này, bao gồm:
- Bản sao Bệnh án của Bệnh viện cấp tỉnh trở lên đối với phạm nhân trên 60 tuổi thường xuyên ốm đau phải điều trị tại bệnh xá, bệnh viện nhiều lần;
- Bản sao quyết định tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, danh hiệu “Dũng sỹ” trong kháng chiến chống Mỹ, bằng “Gia đình có công với nước”, Giấy chứng nhận thương binh, bệnh binh, con “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” có xác nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp có thân nhân là liệt sĩ phải có giấy xác nhận hoặc bản sao giấy tờ chứng minh được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc đơn vị nơi người đó đã công tác, học tập xác nhận;
- Tài liệu chứng minh đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường dân sự hoặc Quyết định miễn hình phạt tiền, miễn nộp án phí của Tòa án; Giấy đồng ý xóa nợ của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó xác nhận;
- Đối với các trường hợp phạm nhân lập công lớn trong quá trình chấp hành hình phạt tù phải có đầy đủ các giấy tờ sau: bản tường trình về lập công của phạm nhân; đề nghị khen thưởng cho phạm nhân của cán bộ trại giam, trại tạm giam hoặc Cơ quan điều tra sử dụng phạm nhân; xác nhận lập công hoặc Quyết định khen thưởng của Giám thị trại giam, trại tạm giam, Giám đốc Công an cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền;
- Giám thị trại giam, trại tạm giam được sao y bản chính những văn bản như: bản án, bệnh án, kết luận giám định y khoa, các loại chứng từ xác nhận việc thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác, các tài liệu khác liên quan đến quá trình chấp hành hình phạt tù của phạm nhân. Khi trình danh sách, hồ sơ đặc xá để Tổ thẩm định liên ngành nghiên cứu, thẩm định, phải mang theo bản chính những tài liệu này;
- Giám thị trại giam, trại tạm giam có trách nhiệm thông báo, niêm yết công khai danh sách người được trại giam, trại tạm giam đề nghị đặc xá. Danh sách, hồ sơ, thống kê phạm nhân được đề nghị đặc xá của các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng làm thành bốn bộ đóng dấu đỏ để Tổ thẩm định liên ngành kiểm tra, thẩm định;
Hồ sơ, tài liệu chuyển về Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá bao gồm:
Đối với người không đủ điều kiện đề nghị đặc xá phải làm thành tập hồ sơ riêng có Danh sách người không đủ điều kiện đề nghị đặc xá do Tổ thẩm định lập kèm theo các tài liệu khác giống như hồ sơ của người đủ điều kiện đề nghị đặc xá đã nêu.
Đối với người không đủ điều kiện đề nghị đặc xá phải có Danh sách do Tổ thẩm định liên ngành lập kèm theo Phiếu đề nghị đặc xá của phạm nhân đó.
a) Trình tự lập danh sách người được đặc xá thực hiện theo Điều 7 Nghị định số 76/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 7 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đặc xá;
3. Thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá
b) Tổ thẩm định liên ngành có trách nhiệm giúp Hội đồng tư vấn đặc xá nghiên cứu, thẩm định danh sách, hồ sơ của người được đề nghị đặc xá do Giám thị trại giam thuộc Bộ Công an, Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an, Cục trưởng Cục An ninh điều tra, Bộ Công an, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh Quân khu và tương đương trình. Tổ thẩm định liên ngành chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính khách quan trong quá trình kiểm tra, thẩm định danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá. Tổ thẩm định liên ngành tổng hợp kết quả thẩm định, lập biên bản thẩm định kèm theo danh sách người đủ điều kiện đặc xá, danh sách người không đủ điều kiện đặc xá của từng trại giam, trại tạm giam và hoàn thành hồ sơ chuyển đến Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá. Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá có trách nhiệm tập hợp danh sách, hồ sơ người có đủ điều kiện đặc xá, người không đủ điều kiện đặc xá và chuyển các loại danh sách này cùng với Phiếu đề nghị đặc xá cho phạm nhân đến các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá.
d) Hội đồng tư vấn đặc xá tổ chức thẩm định hồ sơ, danh sách do Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá trình và quyết định danh sách người đủ điều kiện, danh sách người không đủ điều kiện được đề nghị đặc xá trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
a) Tài liệu, hồ sơ, danh sách và số liệu phạm nhân được đề nghị xét đặc xá sau khi Tổ thẩm định liên ngành kiểm tra, thẩm định thuộc loại tài liệu được quản lý, sử dụng theo chế độ “MẬT” đến khi Giám thị trại giam, trại tạm giam tổ chức công bố Quyết định đặc xá năm 2009 (đợt 2) của Chủ tịch nước.
b) Hồ sơ xét đề nghị đặc xá của phạm nhân phải đầy đủ tài liệu, nội dung ghi trong hồ sơ phải thống nhất, rõ ràng và đúng thủ tục quy định về đặc xá. Nếu để sai lệch các dữ liệu ghi trong hồ sơ đề nghị đặc xá so với hồ sơ gốc hoặc do lỗi kỹ thuật, sau khi thẩm định để lại không đề nghị đặc xá hoặc do làm sai lệch hồ sơ và đề nghị đặc xá cho người không có đủ điều kiện, thì Giám thị trại giam, trại tạm giam lập hồ sơ phải chịu trách nhiệm.
a) Chính phủ chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan lập hồ sơ của người được đề nghị đặc xá trong trường hợp đặc biệt theo Điều 21, 22 của Luật đặc xá để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
c) Chính phủ giao Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các trại giam, trại tạm giam lập hồ sơ đề nghị xét đặc xá trong trường hợp đặc biệt.
1. Trách nhiệm của các Bộ, Ban, ngành
- Giúp Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc Công an các địa phương, Giám thị các trại giam, trại tạm giam triển khai thực hiện Quyết định về đặc xá năm 2009 (đợt 2) của Chủ tịch nước và Hướng dẫn của Hội đồng tư vấn đặc xá; Chỉ đạo thành lập Hội đồng xét đề nghị đặc xá của trại giam, trại tạm giam;
- Bố trí chương trình, thời gian và chuẩn bị nội dung, tài liệu, hồ sơ các cuộc họp của Hội đồng tư vấn đặc xá;
- Đề xuất với Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện;
- Đối với những người đã được Hội đồng tư vấn đặc xá xét duyệt, đề nghị đặc xá hoặc đã có Quyết định đặc xá mà chết trước khi công bố, thì Ủy viên Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá đưa ra khỏi danh sách đặc xá, sau đó báo cáo Văn phòng Chủ tịch nước biết. Đối với những người đã được Hội đồng tư vấn đặc xá đề nghị đặc xá mà có đơn khiếu nại, tố cáo, có dấu hiệu nghi vấn không đủ điều kiện hoặc có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm Quy chế, Nội quy trại giam, trại tạm giam thì Ủy viên Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá kịp thời báo cáo Văn phòng Chủ tịch nước đưa ra khỏi danh sách đề nghị đặc xá. Trường hợp tương tự như đã nêu mà đã có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước nhưng chưa công bố, thì Ủy viên Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá quyết định dừng ngay việc thi hành và chỉ đạo giải quyết, kiểm tra làm rõ, đồng thời báo cáo Chủ tịch hội đồng tư vấn đặc xá và Chủ tịch nước (qua Văn phòng Chủ tịch nước);
- Chỉ đạo các trại giam, trại tạm giam hướng dẫn phạm nhân thông báo cho thân nhân của họ thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác tại cơ quan thi hành án dân sự và thu tiền do phạm nhân nộp tại trại giam (nếu có);
- Hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách người được Hội đồng tư vấn đặc xá xét duyệt, đề nghị đặc xá để báo cáo Chủ tịch Hội đồng trình Chủ tịch nước quyết định, gồm dự thảo Tờ trình và 06 bộ danh sách người được đề nghị đặc xá (có đóng dấu của Bộ Công an);
- Chỉ đạo, tổ chức lễ công bố Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước cho phạm nhân trong các trại giam và trại tạm giam theo nghi lễ nghiêm trang;
- Tiếp nhận, xử lý đơn, thư, khiếu nại, tố cáo của công dân, các tổ chức trong và ngoài nước có liên quan đến đặc xá; trả lời bằng văn bản cho các cơ quan, đơn vị, cá nhân có đơn khiếu nại về trường hợp không được đặc xá theo đúng lý do của thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá để lại;
- Tổng kết công tác đặc xá năm 2009 (đợt 2);
- Làm các nhiệm vụ khác có liên quan đến công tác đặc xá do Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá giao.
- Chỉ đạo các trại giam, trại tạm giam do Bộ Quốc phòng quản lý hướng dẫn phạm nhân thông báo cho thân nhân của họ thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác;
- Tổ chức lễ công bố đặc xá tha tù theo Quyết định của Chủ tịch nước ở các trại giam, trại tạm giam do Bộ Quốc phòng quản lý.
Ngay sau khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, làm thủ tục chuyển cho Cơ quan Thường trực hội đồng tư vấn đặc xá 02 bản Quyết định cùng 02 bộ danh sách người được đặc xá để kịp thời tổ chức lễ công bố Quyết định của Chủ tịch nước theo đúng quy định.
d) Tòa án nhân dân tối cao
Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và chỉ đạo Tòa án nhân dân các cấp lập danh sách, thông báo kịp thời cho Cơ quan Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá và các trại giam, trại tạm giam biết những đối tượng mà bản án hoặc Quyết định của Tòa án đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trực tiếp kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị đặc xá, thực hiện Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước tại các trại giam, trại tạm giam của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng theo quy định của Luật đặc xá.
Phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp phát hiện những đối tượng có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để thông báo kịp thời cho các trại giam, trại tạm giam và Cơ quan Thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá biết.
Chỉ đạo các Cơ quan Thi hành án dân sự tạo điều kiện cho thân nhân phạm nhân thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc các nghĩa vụ dân sự khác và phối hợp với các trại giam, trại tạm giam đóng trên địa bàn thuộc tỉnh, thành phố đó để thu các khoản tiền của phạm nhân, gia đình phạm nhân nộp và cấp các loại giấy tờ cho họ.
Chủ động nắm tình hình và phối hợp với Bộ Công an đề nghị đặc xá cho phạm nhân có quốc tịch nước ngoài và các trường hợp khác; phối hợp với các Bộ, Ban, ngành có liên quan để tuyên truyền đối ngoại về công tác đặc xá.
Chỉ đạo các Sở Y tế, các Bệnh viện, Trung tâm y tế tổ chức giám định sức khỏe, cung cấp các loại giấy tờ về bệnh tật của phạm nhân có liên quan đến việc đề nghị đặc xá.
Chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thông báo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước và tuyên truyền về công tác đặc xá trên các phương tiện thông tin đại chúng, chỉ đạo các Sở Thông tin và Truyền thông tổ chức tuyên truyền về đặc xá ở các địa phương.
Chỉ đạo các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan ở địa phương quan tâm giúp đỡ tạo việc làm cho những người được đặc xá để họ sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội, hạn chế tái phạm tội.
Cấp kinh phí từ nguồn ngân sách dự phòng cho công tác đặc xá năm 2009 (đợt 2) theo dự toán đã được Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá duyệt; hướng dẫn Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp kinh phí phục vụ việc thực hiện công tác đặc xá năm 2009 (đợt 2).
n) Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan, tổ chức có liên quan
Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nhân thân; cấp giấy chứng nhận, xác nhận về thành tích, hoàn cảnh gia đình hoặc các giấy tờ, tài liệu cần thiết khác liên quan đến người được đề nghị đặc xá.
Cấp kinh phí thực hiện đặc xá năm 2009 (đợt 2) theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
a) Từ ngày 20 tháng 7 năm 2009 đến ngày 5 tháng 8 năm 2009, các Tổ thẩm định liên ngành đến các địa phương, đơn vị để trực tiếp kiểm tra, thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị xét đặc xá;
c) Từ ngày 17 tháng 8 năm 2009 đến ngày 19 tháng 8 năm 2009, Hội đồng tư vấn đặc xá họp xét duyệt hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá.
đ) Từ ngày 28 tháng 8 năm 2009 đến ngày 31 tháng 8 năm 2009, tổ chức họp báo công bố Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá tha tù trước thời hạn và tổ chức tha người được đặc xá theo Quyết định của Chủ tịch nước.
a) Công tác đặc xá phải được sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và khen thưởng kịp thời cho những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích theo quy định hiện hành về khen thưởng;
Điều 7 Luật đặc xá. Cơ quan, đơn vị để xảy ra sai sót, tiêu cực, gây phiền hà trong công tác đặc xá thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng tư vấn đặc xá;
Căn cứ vào Hướng dẫn này, các Bộ, Ban, ngành có liên quan đến công tác đặc xá, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các thành viên của Hội đồng tư vấn đặc xá có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện.
CHỦ TỊCH |
Từ khóa: Hướng dẫn 129/HĐTVĐX, Hướng dẫn số 129/HĐTVĐX, Hướng dẫn 129/HĐTVĐX của Hội đồng Tư vấn Đặc xá Trung ương, Hướng dẫn số 129/HĐTVĐX của Hội đồng Tư vấn Đặc xá Trung ương, Hướng dẫn 129 HĐTVĐX của Hội đồng Tư vấn Đặc xá Trung ương, 129/HĐTVĐX
File gốc của Hướng dẫn 129/HĐTVĐX triển khai thực hiện Quyết định 1002/2009/QĐ-CTN về đặc xá năm 2009 (đợt 2) do Hội đồng tư vấn đặc xá ban hành đang được cập nhật.
Hướng dẫn 129/HĐTVĐX triển khai thực hiện Quyết định 1002/2009/QĐ-CTN về đặc xá năm 2009 (đợt 2) do Hội đồng tư vấn đặc xá ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Hội đồng Tư vấn Đặc xá Trung ương |
Số hiệu | 129/HĐTVĐX |
Loại văn bản | Hướng dẫn |
Người ký | Trương Vĩnh Trọng |
Ngày ban hành | 2009-07-10 |
Ngày hiệu lực | 2009-07-10 |
Lĩnh vực | Hình sự |
Tình trạng | Còn hiệu lực |