BỘ TƯ PHÁP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 09/BC-BTP | Hà Nội, ngày 08 tháng 01 năm 2018 |
TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ
I. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT XLVPHC
1.1. Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XL VPHC
Trải qua gần 5 năm triển khai thi hành Luật, nhìn chung có thể thấy các văn bản hướng dẫn Luật đã được ban hành và sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với sự thay đổi của pháp luật chuyên ngành cũng như đòi hỏi của thực tiễn quản lý, tạo cơ sở pháp lý phòng chống các hành vi vi phạm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực chuyên ngành.
- Tại các địa phương: về cơ bản, các địa phương không ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) về XLVPHC mà chủ yếu tổ chức triển khai thực hiện các văn bản do cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương ban hành. Tuy nhiên, một số địa phương1.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ
Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng chú trọng công tác tập huấn, đào tạo bồi dưỡng kiến thức, pháp luật về XLVPHC, tính đến nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức khoảng 30 đợt tập huấn- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật XLVPHC và các văn bản quy định chi tiết Luật chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị triển khai, hội nghị tập huấn, hội nghị trực tuyến hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực, các Bộ cũng tiến hành tổ chức các hội nghị tập huấn về kỹ năng và nghiệp vụ cho các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương, điển hình là các Bộ: Quốc phòng; Tài chính; Công Thương; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Thông tin và Truyền thông; Kế hoạch và Đầu tư; Giao thông vận tải.
Về công tác bồi dưỡng, tập huấn pháp luật về XLVPHC và công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC: hầu hết các địa phương đã cử cán bộ tham dự các đợt bồi dưỡng, tập huấn pháp luật về XLVPHC và công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC do Bộ Tư pháp tổ chức. Bên cạnh đó, các sở, ban, ngành (như Cục Thuế, Sở Giao thông vận tải, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công Thương...) cũng đã cử các cán bộ, công chức thuộc ngành mình quản lý tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn XLVPHC do các Bộ, ngành chủ quản tổ chức cũng như tổ chức tập huấn cho toàn thể cán bộ, công chức trong ngành về XLVPHC. Ngoài ra, có địa phương cũng đã chủ động tổ chức các hội nghị triển khai, các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về XLVPHC trên địa bàn các tỉnh, thành phố với sự tham gia của các Báo cáo viên của Bộ Tư pháp.
- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Sau khi Luật XLVPHC được ban hành và có hiệu lực, hầu hết việc kiểm tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ được tổ chức thực hiện dưới hình thức lồng ghép với các chuyên đề theo dõi thi hành pháp luật về XLVPHC trong từng lĩnh vực cụ thể hoặc các cuộc thanh tra hành chính. Tuy nhiên, cũng có một số Bộ đã xây dựng Kế hoạch kiểm tra riêng về việc thi hành pháp luật về XLVPHCCông tác phối hợp giữa các Bộ trong việc kiểm tra cũng được một số Bộ thực hiện thường xuyên, cụ thể: Hằng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức các cuộc Kiểm tra liên ngành về tình hình thi hành pháp luật về XLVPHC cũng như trong các lĩnh vực cụ thể, cùng với đó, các Bộ cũng tích cực cử cán bộ tham gia các Đoàn kiểm tra liên ngành do Bộ Tư pháp chủ trì- Tại các địa phương: Các địa phương quan tâm thực hiện, thường xuyên đôn đốc làm tốt chức năng hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật. Qua các Báo cáo tổng kết thi hành Luật XLVPHC cho thấy, hầu hết các địa phương đều ban hành các Kế hoạch kiểm tra thi hành pháp luật về XLVPHC và tình hình XPVPHC trong từng lĩnh vực cụ thể; Cùng với đó, nhiều đoàn kiểm tra, tổ công tác liên ngành đã được thành lập để kiểm tra việc thực hiện công tác giải quyết khiếu nại có liên quan đến công tác XLVPHC, áp dụng pháp luật về các BPXLHC; tình hình ban hành các văn bản QPPL, các quyết định về XLVPHC... trong một số lĩnh vực trọng tâm.
1.4. Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác XLVPHC
Ngày 15/5/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 717/QĐ-TTg về việc thành lập Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật (QLXLVPHC&TDTHPL). Từ khi thành lập đến nay, Cục QLXLVPHC&TDTHPL đã từng bước được kiện toàn về tổ chức bộ máy với 24 biên chế quản lý hành chính được giao (thực đã tuyển dụng 22 biên chế), 07 biên chế sự nghiệp, 01 lao động theo hợp đồng, được bố trí tại 05 đơn vị trực thuộc gồm: Văn phòng, 03 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ và 01 Trung tâm. Việc kịp thời kiện toàn tổ chức, hoạt động của Cục đã tạo tiền đề quan trọng để Bộ Tư pháp làm tốt vai trò của mình trong việc thực hiện công tác quản lý XLVPHC một cách hiệu quả trên mọi mặt.
1.4.3. Đánh giá thực trạng đội ngũ công chức làm công tác XLVPHC
1.5. Công tác phối hợp quản lý nhà nước về XLVPHC
Tại các địa phương, để thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về XLVPHC, Sở Tư pháp đã phối hợp với các sở, ngành, địa phương trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về XLVPHC như: cung cấp tài liệu, đề cương tuyên truyền, cử Báo cáo viên và hướng dẫn thi hành cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhân dân; phối hợp trong việc theo dõi, thực hiện báo cáo công tác XLVPHC tại các cơ quan chuyên môn của tỉnh, thuộc các sở, ngành ở địa phương để báo cáo cho UBND tỉnh, Bộ Tư pháp theo định kỳ hoặc theo yêu cầu.
2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính
Số vụ VPHC đã phát hiện là: 36.789.227 vụ việc, tổng số vụ việc đã xử phạt là 28.493.927 vụ việc (chiếm 77.45% số vụ vi phạm), số liệu cụ thể qua các năm được thể hiện cụ thể qua bảng sau Năm Số vụ đã phát hiện Số vụ đã xử phạt Số QĐ đã ban hành Số QĐ đã thi hành Số QĐ chưa thi hành xong Số QĐ bị cưỡng chế thi hành Số QĐ bị khiếu nại, khởi kiện Tiền thu được từ bán thanh lý TV, PT bị tịch thu Tiền phạt thu được 2014 13.473.118 8.893.639 8.893.639 6.615.982 466270 6.407 750 383.744281.055 11.883.944.685.169 2015 9.530382 6347.778 6.532.810 6214.575 318235 3.172 1.776 533.025.143.498 8.515.914.534.928 2016 9.845.031 9.526.991 9.566.765 9200.951 365.814 4.002 778 532.142.482.026 12.674.747.484.808 2017 (6 tháng) 3.940.696 3.725.519 3.902.620 3.577314 352306 1328 293 209.800.185.018 5.468.823.353.797 Tổng 36.789227 28.493.927 28.895.834 25.608.822 1.502.625 14.909 3.597 1.658.712.091.597 38.543.430.058.702 Nhìn chung, các vụ việc vi phạm xảy ra cơ bản đã được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục theo quy định, góp phần quan trọng trong bảo đảm an ninh trật tự các địa bàn trên cả nước. Tỷ lệ số vụ việc đã bị xử phạt so với tổng số vụ việc đã bị phát hiện ngày càng tăng (từ 66% vào năm 2014 lên đến 95% vào năm 2017). Đa số đối tượng vi phạm đều nhận thức được hành vi vi phạm của mình, có ý thức chấp hành nghiêm các quyết định XPVPHC. Tỷ lệ chấp hành các quyết định xử phạt trong các năm tương đối cao (khoảng 95%)Qua tổng hợp báo cáo của các cơ quan, qua 05 năm triển khai thi hành Luật XLVPHC, công tác XPVPHC đã được phát huy hiệu quả vượt bậc so với các Pháp lệnh trước đây, thể hiện như sau: Kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi VPHC theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, mức độ tuân thủ pháp luật và thi hành quyết định xử phạt tương đối cao; ý thức chấp hành pháp luật của người dân cũng như cơ quan, người có thẩm quyền đã được nâng lên. Tuy nhiên, tình hình VPHC lại diễn ra ngày càng phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn trên các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó, xảy ra chủ yếu ở các lĩnh vực như giao thông đường bộ; an toàn trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ môi trường; an toàn thực phẩm; kinh doanh; đất đai; xây dựng. Nguyên nhân của tình hình vi phạm chủ yếu là do ý thức tuân thủ, hiểu biết về pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế. Do người vi phạm không có việc ổn định, sự xuống cấp về đạo đức của một số bộ phận thanh thiếu niên, cùng với sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường hay một số đối tượng vi phạm vì mục đích lợi nhuận. - Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực: Trên cơ sở mức phạt tối đa được quy định tại Điều 24 Luật XLVPHC, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực và mức phạt tiền cụ thể đối với các hành vi vi phạm cơ bản đã phù hợp với tình hình đời sống kinh tế - xã hội hiện nay. Nhưng thực tế áp dụng thời gian qua cho thấy, trong một số lĩnh vực thì mức phạt tiền đối với từng hành vi còn chưa tương xứng tính chất, mức độ hậu quả vi phạm như: lĩnh vực an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, khoáng sản,... - Về áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả: Các biện pháp khắc phục hậu quả thường xuyên được áp dụng là biện pháp buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp do thực hiện hành vi VPHC; buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng giấy phép; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm độc hại. Việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả góp phần tạo ra sức răn đe, làm tăng ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi phạm, đặc biệt trong trường hợp đã hết thời hiệu xử phạt thì đối tượng vi phạm vẫn phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp này. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, theo dõi thi hành biện pháp khắc phục hậu quả chưa thực sự hiệu quả do các cá nhân, tổ chức vi phạm thường không tự giác chấp hành cũng như lực lượng thực thi công vụ còn mỏng chưa thực hiện đầy đủ việc theo dõi thi hành các biện pháp đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, sau 05 năm triển khai thi hành, một số quy định liên quan đến thẩm quyền của các chức danh gặp phải một số vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn như: Thiếu một số chức danh có thẩm quyền xử phạt do cơ cấu tổ chức của một số cơ quan có sự thay đổi hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số quy định về thẩm quyền xử phạt chưa thực sự phù hợp như thẩm quyền xử phạt tiền của cấp cơ sở còn thấp trong khi mức phạt đối với đa số hành vi VPHC tương đối cao hay thẩm quyền tịch thu tang vật, VPHC bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn đến tình trạng dồn vụ việc lên cấp trên. Việc thi hành quyết định XPVPHC được thực hiện đúng trình tự, thủ tục. Tuy nhiên thực tiễn thi hành các quyết định này còn gặp nhiều khó khăn như: Số lượng quyết định XPVPHC quá nhiều gây tình trạng quá tải cho các cơ quan chức năng, đối tượng vi phạm không có chỗ ở cố định gây khó khăn trong quá trình giao, nhận quyết định XPVPHC,... Đối với công tác cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC cũng gặp nhiều khó khăn do một số cơ quan, đơn vị còn e ngại khi tổ chức cưỡng chế vì thủ tục cưỡng chế rất phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị. Mặt khác, cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế thường không hợp tác hoặc không đủ điều kiện, không có tài sản để kê biên, thậm chí có vụ việc tài sản cưỡng chế không đủ để bù đắp chi phí tổ chức cưỡng chế. - Tổng số đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng các BPXLHC là 105.940 đối tượng, tổng số đối tượng bị áp dụng các BPXLHC là 89.991 đối tượng (chiếm khoảng 85% tổng số đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị), số liệu qua các năm được thể hiện qua bảng: Năm Đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC Đối tượng bị áp dụng các BPXLHC Số NCTN bị áp dụng biện pháp thay thế quản lý tại gia đình Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (GDTXPTT) Các BPXLHC theo quyết định của TAND cấp huyện Đối tượng bị áp dụng BPGDTXPTT Đối tượng bị áp dụng BPXLHC theo QĐ của TAND 2014 8.725 3.235 7.191 1.543 1.184 2015 21.303 20.300 14.000 16.772 2.176 2016 15.742 14.987 14.856 14.903 1.751 6 tháng 2017 10.779 10.869 10.441 10.205 1.126 Tổng 56.549 49.391 46.488 43.423 6.637 Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính còn chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn, không bảo đảm tính khả thi (Chi tiết được nêu tại Phần II). Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc không thể đưa những người vi phạm pháp luật vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội. - Tình hình thực hiện lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộcCó 09/123 Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội đã được chuyển đổi sang cơ sở cai nghiện tự nguyện, hiện đang quản lý, điều trị cho 920 người. 4.1. Đối với các quy định về XPVPHC 4.2. Đối với các quy định về BPXLHC Ngoài ra, việc bỏ quy định áp dụng BPXLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người bán dâm thể hiện sự đổi mới trong thái độ đối xử đối với người bán dâm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới và tính chất của nhóm đối tượng này. Luật XLVPHC cũng dành một phần riêng để quy định về chính sách xử lý đối với người chưa thành niên VPHC và quy định các biện pháp thay thế XLVPHC (bao gồm nhắc nhở, quản lý tại gia đình); điều kiện, thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp thay thế. Đây là một nội dung mới, tiến bộ, thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến đối tượng người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng, thể hiện một bước phát triển về thể chế trong việc bảo vệ quyền con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Ngoài ra, việc bổ sung các biện pháp thay thế XLVPHC đối với người chưa thành niên bên cạnh các BPXLHC giúp giảm nguồn lực như tài chính, nhân lực (chi phí lập biên bản, chi phí ra quyết định xử phạt, thi hành quyết định đối với XPVPHC; chi phí lập hồ sơ, tổ chức họp...) để các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào quy trình xem xét ra quyết định XLVPHC đối với người chưa thành niên vi phạm; không mất chi phí tổ chức thi hành quyết định, đặc biệt thi hành các quyết định áp dụng BPXLHC giáo dục tại cộng đồng như chi phí giáo dục, hỗ trợ cán bộ tổ chức thi hành biện pháp, cán bộ giám sát; người chưa thành niên không phải xa gia đình, được gia đình, người thân, cộng đồng giúp đỡ trở thành công dân tốt; tăng uy tín quốc gia khi thực hiện nội luật hóa chính sách và pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đối với hoạt động quản lý Nhà nước, Luật XLVPHC đã quy định toàn diện, đầy đủ trên tinh thần đổi mới, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC mà các Pháp lệnh XLVPHC trước đây chưa quy định. Đây cũng là nhân tố quan trọng bảo đảm thực thi pháp luật XLVPHC nghiêm túc, thống nhất, chính xác, hiệu quả, bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã được Hiến pháp quy định. Theo đó, các Bộ và UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý công tác XLVPHC của người có thẩm quyền, kịp thời phát hiện và xử lý trách nhiệm đối với cán bộ có hành vi vi phạm, đồng thời giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Để đáp ứng được yêu cầu về quản lý nhà nước thì việc sắp xếp, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác XLVPHC được quan tâm thực hiện đã góp phần khắc phục sự cồng kềnh, chồng chéo trong phân định chức năng, nhiệm vụ của công tác này. II. KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC, HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XLVPHC VÀ NGUYÊN NHÂN 1.1. Trong công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ngoài ra, việc xây dựng quy phạm nhiều khi còn theo ý chí chủ quan của cơ quan chủ trì xây dựng; một số quy định còn chưa thống nhất, chồng chéo về hành vi vi phạm, thẩm quyền XPVPHC giữa các lực lượng, một số dấu hiệu được quy định để XLVPHC theo pháp luật hành chính đồng thời là dấu hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự,... Qua tổng hợp các Báo cáo tổng kết thi hành Luật XLVPHC của các Bộ, ngành, địa phương, có thể thấy việc triển khai thi hành Luật XLVPHC trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác XLVPHC đã được tổ chức thực hiện kịp thời. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; công tác phòng ngừa, ngăn chặn, thanh tra, kiểm tra, phát hiện, XLVPHC và áp dụng BPXLHC ngày càng được đẩy mạnh và chất lượng ngày càng được tăng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác này cũng còn một số khó khăn, vướng mắc: - Về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về XLVPHC hiện nay tại một số Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa được đầu tư mà chủ yếu được thực hiện lồng ghép trong chương trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung, vì vậy việc triển khai nhìn chung chưa được sâu rộng về mọi mặt. - Để thực hiện công tác quản lý nhà nước được thực hiện kịp thời, hiệu quả thì việc báo cáo, thống kê là cần thiết. Hiện nay, báo cáo, thống kê về XLVPHC mặc dù đã được các Bộ, ngành, địa phương ngày càng quan tâm, chú trọng và gửi về Bộ Tư pháp đúng hạn. Tuy nhiên, nội dung của báo cáo của nhiều Bộ, ngành, địa phương còn chung chung, chưa đảm bảo được yêu cầu, chất lượng; số liệu tổng hợp còn nhiều thiếu sót hoặc chưa chính xác khiến cho việc tổng hợp Báo cáo chung chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong đợi. Những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về XLVPHC bao gồm những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về XPVPHC và các quy định pháp luật về áp dụng các BPXLHC (được nêu cụ thể tại Phụ lục số 03 - Hạn chế, bất cập trong quy định của Luật XL VPHC và một số định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC kèm theo Báo cáo này). 3.1. Nguyên nhân chủ quan - Công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong việc trao đổi thông tin, sử dụng lực lượng phối hợp, đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật chưa chặt chẽ, nhiều thủ tục bất cập. - Ý thức chấp hành pháp luật của một số bộ phận cá nhân, tổ chức còn hạn chế, thường xuyên lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi vi phạm. 3.2. Nguyên nhân khách quan - Xuất phát từ chính những quy định của pháp luật về XLVPHC cũng như các quy định của pháp luật liên quan chưa được rõ ràng, cụ thể hoặc không phù hợp với thực tiễn áp dụng. III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH LUẬT XLVPHC - Tiếp tục tổng hợp những hạn chế, bất cập liên quan đến Luật XLVPHC để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC trong thời gian tới (Chi tiết xem tại Phụ lục 03 kèm theo Báo cáo này). - Hoàn thiện thể chế về công tác kiểm tra và xử lý trách nhiệm trong thi hành pháp luật về XLVPHC theo hướng cụ thể, đầy đủ, toàn diện hơn nhằm đáp ứng kịp thời và hiệu quả yêu cầu quản lý nhà nước. - Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức trong việc thi hành pháp luật về XLVPHC; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, triển khai, phổ biến pháp luật cho các cán bộ làm công tác XLVPHC, cá nhân, tổ chức có liên quan; - Tăng cường quy chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có chức năng quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương về XLVPHC; 3. Giải pháp nâng cao điều kiện đảm bảo nguồn lực - Cần quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy thực hiện công tác quản lý XLVPHC, nâng cao kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức, người thi hành công vụ trong việc thi hành và áp dụng pháp luật về XLVPHC. Nơi nhận: KT. BỘ TRƯỞNG
- Ban Bí thư Trung ương Đảng (để báo cáo);
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo);
- Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình (để báo cáo);
- Bộ trưởng Lê Thành Long (để báo cáo);
- Ủy ban Pháp luật Quốc hội (để phối hợp);
- Tòa án nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Văn phòng Chính phủ (để phối hợp);
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ (để phối hợp);
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (để phối hợp);
- Lưu: VT, Cục QLXLVPHC&TDTHPL (05b).
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Khánh Ngọc
DANH MỤC CÁC NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số: 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 của Bộ Tư Pháp)
STT | Số, ký hiệu văn bản | Ngày ban hành | Trích yếu | Ghi chú |
1 | 64/2013/NĐ-CP | 27/6/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
2 | 79/2013/NĐ-CP | 19/7/2013 |
| |
3 | 80/2013/NĐ-CP | 19/7/2013 |
| |
4 | 81/2013/NĐ-CP | 19/7/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
5 | 86/2013/NĐ-CP | 29/7/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung, có một phần nội dung quy định về XPVPHC | |
6 | 93/2013/NĐ-CP | 20/8/2013 |
Hết hiệu lực một phần | |
7 | 95/2013/NĐ-CP | 22/8/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
8 | 97/2013/NĐ-CP | 27/8/2013 |
Hết hiệu lực | |
9 | 98/2013/NĐ-CP | 28/8/2013 |
| |
10 | 99/2013/NĐ-CP | 29/8/2013 |
| |
11 | 103/2013/NĐ-CP | 12/9/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
12 | 105/2013/NĐ-CP | 16/9/2013 |
| |
13 | 107/2013/NĐ-CP | 20/9/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
14 | 108/2013/NĐ-CP | 23/9/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
15 | 109/2013/NĐ-CP | 24/9/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
16 | 110/2013/NĐ-CP | 24/9/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
17 | 111/2013/NĐ-CP | 30/9/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
18 | 112/2013/NĐ-CP | 2/10/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
19 | 114/2013/NĐ-CP | 3/10/2013 |
Hết hiệu lực | |
20 | 115/2013/NĐ-CP | 3/10/2013 |
| |
21 | 119/2013/NĐ-CP | 9/10/2013 |
Hết hiệu lực một phần | |
22 | 120/2013/NĐ-CP | 9/10/2013 |
| |
23 | 121/2013/NĐ-CP | 10/10/2013 |
| |
24 | 127/2013/NĐ-CP | 15/10/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
25 | 129/2013/NĐ-CP | 16/10/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
26 | 131/2013/NĐ-CP | 16/10/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
27 | 134/2013/NĐ-CP | 17/10/2013 |
| |
28 | 138/2013/NĐ-CP | 22/10/2013 |
| |
29 | 139/2013/NĐ-CP | 22/10/2013 |
Hết hiệu lực | |
30 | 142/2013/NĐ-CP | 24/10/2013 |
Hết hiệu lực | |
31 | 144/2013/NĐ-CP | 29/10/2013 |
| |
32 | 147/2013/NĐ-CP | 30/10/2013 |
| |
33 | 148/2013/NĐ-CP | 30/10/2013 |
Hết hiệu lực | |
34 | 155/2013/NĐ-CP | 11/11/2013 |
Hết hiệu lực | |
35 | 157/2013/NĐ-CP | 11/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
36 | 158/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
37 | 159/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
| |
38 | 162/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
39 | 163/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
40 | 165/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
| |
41 | 166/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
| |
42 | 167/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
| |
43 | 169/2013/NĐ-CP | 12/11/2013 |
| |
44 | 171/2013/NĐ-CP | 13/11/2013 |
Hết hiệu lực | |
45 | 173/2013/NĐ-CP | 13/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
46 | 174/2013/NĐ-CP | 13/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
47 | 176/2013/NĐ-CP | 14/11/2013 |
| |
48 | 178/2013/NĐ-CP | 14/11/2013 |
| |
49 | 179/2013/NĐ-CP | 14/11/2013 |
Hết hiệu lực | |
50 | 185/2013/NĐ-CP | 15/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
51 | 192/2013/NĐ-CP | 21/11/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
52 | 221/2013/NĐ-CP | 30/12/2013 |
Đã được sửa đổi, bổ sung | |
53 | 02/2014/NĐ-CP | 10/1/2014 |
| |
54 | 71/2014/NĐ-CP | 21/7/2014 |
| |
55 | 93/2014/NĐ-CP | 17/10/2014 | Nghị định số 64/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ. |
|
56 | 96/2014/NĐ-CP | 17/10/2014 |
| |
57 | 102/2014/NĐ-CP | 10/11/2014 |
| |
58 | 107/2014/NĐ-CP | 17/11/2014 |
Hết hiệu lực | |
59 | 40/2015/NĐ-CP | 27/4/2015 |
Hết hiệu lực | |
60 | 58/2015/NĐ-CP | 16/6/2015 |
| |
61 | 65/2015/NĐ-CP | 7/8/2015 |
| |
62 | 67/2015/NĐ-CP | 14/8/2015 | Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã |
|
63 | 79/2015/NĐ-CP | 14/9/2015 |
| |
64 | 88/2015/NĐ-CP | 7/10/2015 |
| |
65 | 124/2015/NĐ-CP | 19/11/2015 |
| |
66 | 132/2015/NĐ-CP | 25/12/2015 |
| |
67 | 17/2016/NĐ-CP | 17/3/2016 |
| |
68 | 20/2016/NĐ-CP | 30/3/2016 |
| |
69 | 31/2016/NĐ-CP | 6/5/2016 |
| |
70 | 45/2016/NĐ-CP | 26/5/2016 |
| |
71 | 46/2016/NĐ-CP | 26/5/2016 |
| |
72 | 49/2016/NĐ-CP | 27/5/2016 |
| |
73 | 50/2016/NĐ-CP | 1/6/2016 |
| |
74 | 56/2016/NĐ-CP | 29/6/2016 | Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn |
|
75 | 95/2016/NĐ-CP | 1/7/2016 | Nghị định số 79/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê) |
|
76 | 115/2016/NĐ-CP | 8/7/2016 |
| |
77 | 136/2016/NĐ-CP | 9/9/2016 |
| |
78 | 145/2016/NĐ-CP | 1/11/2016 | Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán |
|
79 | 155/2016/NĐ-CP | 18/11/2016 |
| |
80 | 175/2016/NĐ-CP | 30/12/2016 | Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài | Có một phần nội dung quy định về XPVPHC |
81 | 03/2017/NĐ-CP | 16/01/2017 |
Có một phần nội dung quy định về XPVPHC | |
82 | 06/2017/NĐ-CP | 24/01/2017 |
Có một phần nội dung quy định về XPVPHC | |
83 | 23/2017/NĐ-CP | 13/3/2017 |
| |
84 | 28/2017/NĐ-CP | 20/3/2017 |
| |
85 | 33/2017/NĐ-CP | 3/4/2017 |
| |
86 | 41/2017/NĐ-CP | 5/4/2017 |
| |
87 | 49/2017/NĐ-CP | 24/4/2017 | Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông và Điều 30 của Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện |
|
88 | 67/2017/NĐ-CP | 25/5/2017 |
| |
89 | 84/2017/NĐ-CP | 18/7/2017 |
| |
90 | 90/2017/NĐ-CP | 31/7/2017 |
| |
91 | 97/2017/NĐ-CP | 18/8/2017 | Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính |
|
92 | 104/2017/NĐ-CP | 14/9/2017 |
|
DANH MỤC CÁC THÔNG TƯ VỀ XLVPHC CÒN HIỆU LỰC
(Kèm theo Báo cáo số: 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 của Bộ Tư pháp)
STT | Số, ký hiệu văn bản | Ngày ban hành | Trích yếu | Ghi chú |
1 | 90/2008/TT-BNN | 28/8/2008 |
| |
2 | 09/2013/TT-BCT | 2/5/2013 |
| |
3 | 26/2013/TT-BCT | 30/10/2013 |
| |
4 | 32/2013/TT-BGTVT | 15/10/2013 |
| |
5 | 153/2013/TT-BTC | 31/10/2013 |
| |
6 | 166/2013/TT-BTC | 15/11/2013 |
| |
7 | 173/2013/TT-BTC | 20/11/2013 |
| |
8 | 186/2013/TT-BTC | 5/12/2013 |
| |
9 | 32/2013/TT-TTLT-BLĐTBXH-BNG | 6/12/2013 |
| |
10 | 190/2013/TT-BTC | 12/12/2013 |
| |
11 | 53/2013/TT-BGTVT | 13/12/2013 |
| |
12 | 215/2013/TT-BTC | 31/12/2013 |
| |
13 | 217/2013/TT-BTC | 31/12/2013 |
| |
14 | 07/2014/TT-BTC | 14/01/2014 |
| |
15 | 10/2014/TT-BTC | 17/01/2014 |
| |
16 | 02/2014/TT-BXD | 12/2/2014 |
| |
17 | 07/2014/TT-BCT | 14/02/2014 |
| |
18 | 31/2014/TT-BTC | 7/3/2014 | Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn |
|
19 | 05/2014/TT-BGTVT | 31/03/2014 |
| |
20 | 54/2014/TT-BTC | 24/04/2014 |
| |
21 | 14/2014/TT-BCT | 26/5/2014 |
| |
22 | 14/2014/TT-BLĐTBXH | 12/6/2014 |
| |
23 | 19/2014/TT-BKHCN | 1/7/2014 |
| |
24 | 95/2014/TT-BQP | 7/7/2014 |
| |
25 | 97/2014/TT-BQP | 16/7/2014 |
| |
37 | 48/2014/TT-BCA | 17/10/2014 | Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn |
|
38 | 193/2014/TT-BTC | 12/12/2014 |
| |
39 | 07/2015/TT-BCA | 27/01/2015 |
| |
40 | 10/2015/TT-BCA | 11/2/2015 |
| |
41 | 20/2015/TT-BCA | 14/05/2015 |
| |
42 | 21/2015/TT-BCA | 14/05/2015 |
| |
43 | 13/2015/TT-BCT | 16/6/2015 |
| |
44 | 47/2015/TT-BQP | 18/06/2015 |
| |
45 | 11/2015/TT-BKHCN | 26/6/2015 |
| |
46 | 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA | 9/7/2015 |
| |
47 | 27/2015/TTLT-BCT-BCA-VKSNDTC-TANDTC | 17/8/2015 |
| |
48 | 10/2015/TT-BTP | 31/8/2015 |
| |
49 | 43/2015/TT-BCA | 9/9/2015 |
| |
50 | 44/2015/TT-BCA | 9/9/2015 |
| |
51 | 20/2015/TT-BKHCN | 5/11/2015 | Nghị định số 64/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ, vi phạm hành chính của Bộ Quốc phòng |
|
26 | 105/2014/TT-BTC | 7/8/2017 |
| |
27 | 38/2014/TT-BCA | 12/9/2014 |
| |
28 | 39/2014/TT-BCA | 12/9/2014 |
| |
29 | 130/2014/TT-BQP | 24/9/2014 |
| |
30 | 42/2014/TT-BCA | 25/9/2014 |
| |
31 | 43/2014/TT-BCA | 8/10/2014 |
| |
32 | 148/2014/TTLT-BTC-BLĐTBXH | 8/10/2014 |
| |
33 | 27/2014/TT-BKHCN | 10/10/2014 |
| |
34 | 149/2014/TT-BTC | 10/10/2014 |
| |
35 | 34/2014/TT-BCT | 15/10/2014 |
| |
36 | 47/2014/TT-BCA | 17/10/2014 |
| |
52 | 55/2015/TT-BLĐTBXH | 16/12/2015 |
| |
53 | 19/2015/TT-BTP | 28/12/2015 |
| |
54 | 78/2016/TT-BQP | 8/6/2016 |
| |
55 | 12/2016/TT-BGTVT | 9/6/2016 |
| |
56 | 12/2016/TTLT-BTNMT-BTC | 24/6/2016 |
| |
57 | 30/2016/TT-BCA | 11/7/2016 |
| |
58 | 31/2016/TT-BCA | 11/7/2016 |
| |
59 | 18/2016/TT-BCT | 31/08/2016 |
| |
65 | 06/2017/TT-BGTVT | 28/02/2017 |
| |
66 | 19/2017/TT-BTC | 28/02/2017 |
| |
67 | 36/2017/TT-BTC | 27/4/2017 |
|
* Số liệu được tổng hợp, thống kê đến ngày 30/9/2017
HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT XLVPHC VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG LỚN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT XLVPHC
(Kèm theo Báo cáo số: 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 của Bộ Tư pháp)
1. Hạn chế, bất cập của các quy định về XPVPHC
- Điểm b khoản 1 Điều 6 Luật XLVPHC quy định: “Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm. Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm”. Tuy nhiên, cách xác định thời điểm kết thúc hành vi VPHC để từ đó xác định hành vi nào “đã kết thúc”, hành vi nào “đang được thực hiện” thì chưa có văn bản nào hướng dẫn, do vậy, đang có nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng với các vi phạm diễn ra trên thực tế.
- Vấn đề thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện VPHC bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền (Từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC): Luật XLVPHC quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện VPHC bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền làm phát sinh nhiều vụ việc vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của cơ quan cấp dưới bị dồn lên cơ quan cấp trên giải quyết, không bảo đảm tính kịp thời, nhanh chóng trong việc xử phạt.
- Về thẩm quyền một số chức danh của Bộ đội Biên phòng như Đồn trưởng Đồn biên phòng (điểm d khoản 3 Điều 40 Luật XLVPHC), Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh (điểm đ khoản 4 Điều 40): Cả hai chức danh này đều không được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm d khoản 1 Điều 28 Luật XLVPHC: “buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện”. Tuy nhiên, trên thực tế ở khu vực biên giới thường xảy ra các hành vi vi phạm của người, phương tiện nước ngoài, nhất là phương tiện chở hàng tạm nhập, tái xuất. Khi XPVPHC theo thẩm quyền trên, nếu hai chức danh trên không được áp dụng biện pháp này, dẫn đến những khó khăn trong công tác xử phạt VPHC của lực lượng Bộ đội biên phòng.
- Điều 57 Luật XLVPHC quy định việc “đánh bút lục” trong hồ sơ. Việc đánh bút lục đối với hồ sơ XPVPHC nhằm mục đích thực hiện tốt công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ XPVPHC, tạo thuận lợi cho việc tra cứu hồ sơ XPVPHC trong trường hợp cần thiết (khi có khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, xem xét sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định XPVPHC...). Tuy nhiên, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn về cách đánh bút lục, thứ tự đánh bút lục cách sắp xếp hồ sơ XPVPHC.
- Khoản 1 Điều 61 Luật XLVPHC không quy định quyền giải trình đối với trường hợp đối tượng vi phạm bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện VPHC hoặc phương tiện sử dụng trong VPHC là không hợp lý, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đối tượng vi phạm, vì trong nhiều trường hợp, nhiều tang vật, phương tiện vi phạm còn có giá trị lớn hơn nhiều lần so với số tiền bị xử phạt.
- Điều 70 Luật XLVPHC quy định thời hạn gửi quyết định XPVPHC trong vòng 02 ngày, việc quy định này khó thực hiện do khối lượng quyết định XPVPHC rất lớn, nhiều đối tượng vi phạm không có nơi cư trú ổn định hoặc ít có mặt tại địa phương hoặc địa chỉ ghi trong giấy tờ khác với địa chỉ cư trú thực tế.
Ngoài ra, trường hợp vi phạm thường xuyên diễn ra trên thực tế hiện nay là các đối tượng có các hành vi chống lại người thi hành công vụ. Nếu không tạm giữ theo thủ tục hành chính thì sẽ khó có thể xử phạt hành chính đối với họ. Đây cũng là khó khăn, bất cập trong việc quản lý người vi phạm để bảo đảm cho công tác XPVPHC.
- Khoản 2 Điều 129 quy định “trong trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì đề nghị Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét, quyết định” gặp nhiều vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện, vì có những vụ VPHC xảy ra tại địa bàn khu vực biên giới, cách xa trụ sở UBND huyện, nếu đề nghị Chủ tịch UBND huyện xem xét, quyết định thì đối tượng đã có thời gian tiêu hủy tang vật, gây khó khăn cho công tác xác minh của lực lượng chức năng.
- Điểm b khoản 1 Điều 103 Luật XLVPHC quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện không có nơi cư trú ổn định “tài liệu chứng minh người đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi nghiện ma túy”. Quy định này rất khó thực hiện trong thực tế và dễ bị Tòa án trả lại hồ sơ vì người nghiện không có nơi cư trú ổn định không bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
- Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện quy định khoản 1 và 2 Điều 131 Luật XLVPHC không khả thi, vì hầu hết các đối tượng người nghiện đều lệ thuộc nặng nề vào ma túy cả về tinh thần lẫn thể chất, họ thường có thái độ bất hợp tác, thậm chí chống đối quyết liệt việc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, gia đình và tổ chức xã hội rất khó quản lý. Hơn nữa, hiện nay, các tổ chức xã hội không có đầy đủ các điều kiện về con người, cơ sở vật chất. Bên cạnh đó, Luật XLVPHC và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật cũng không quy định cụ thể tổ chức xã hội nào thực hiện công việc này.
Từ các hạn chế, bất cập nêu trên, Bộ Tư pháp đề xuất một số định hướng lớn trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong 05 năm thi hành Luật XLVPHC, cụ thể là:
Bộ Tư pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thẩm quyền xử phạt, trình tự, thủ tục XPVPHC nhằm rút ngắn thời gian, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật của các lực lượng chức năng có thẩm quyền xử phạt, cụ thể là:
Thứ nhất, để giải quyết việc áp dụng chưa thống nhất trong một số quy định của Luật XLVPHC, cần nghiên cứu, chỉnh sửa, làm rõ định nghĩa của một số thuật ngữ còn mang tính định tính, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau như: “có quy mô lớn” (khoản 1 Điều 10 Luật XLVPHC); “vi phạm hành chính nghiêm trọng” (Điều 25, 26 Luật XLVPHC); “vụ việc đặc biệt nghiêm trọng”, “nhiều tình tiết phức tạp” (khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC)...
Thứ ba, nghiên cứu làm rõ cách tính thời gian, thời hạn, thời hiệu theo hướng quy định thống nhất thời gian theo ngày làm việc để tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
Thứ nhất, về các chức danh có thẩm quyền xử phạt và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung bãi bỏ các quy định sau đây:
Cục trưởng Cục Kiểm soát hoạt động bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cục trưởng Cục Phòng chống tội phạm ma túy, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng;..
- Bỏ thẩm quyền xử phạt đối với một số chức danh, ví dụ: Chức danh Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản của vụ việc phá sản: Điểm b khoản 1 Điều 163 Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã bị bãi bỏ bởi khoản 49 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014, theo đó, chức danh này không được XPVPHC.
Thứ ba, vấn đề giao quyền: Sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC theo hướng cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó trong tất cả các quyết định về XLVPHC nói chung và các quyết định về XPVPHC nói riêng, không chỉ giới hạn trong 03 trường hợp quy định tại Điều 54 (Giao quyền xử phạt); khoản 2 Điều 87 (Cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC) và khoản 2 Điều 123 (Tạm giữ người theo thủ tục hành chính).
Tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định sau đây:
Thứ hai, bổ sung các quy định cụ thể liên quan đến căn cứ, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 64 Luật XLVPHC liên quan đến việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong việc phát hiện vi phạm hành chính theo hướng:
- Quy định cụ thể (hoặc giao Chính phủ quy định cụ thể) quy trình “chuyển hóa” kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ do các tổ chức được giao quản lý, khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt cung cấp thành các chứng cứ để làm căn cứ cho người có thẩm quyền xử phạt có thể ban hành quyết định XPVPHC.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 126 Luật XLVPHC (buộc đối tượng vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước trong trường hợp họ chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính) theo hướng cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng, bảo đảm tính khả thi hơn.
Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến trình tự, thủ tục tạm giữ, tịch thu, bán đấu giá, thanh lý tài sản nhà nước theo hướng đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian xử lý các tang vật, phương tiện bị tạm giữ, chẳng hạn như:
- Đối với các tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị thấp hoặc không còn giá trị sử dụng mà chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp phương tiện không đến nhận lại thì có thể tiến hành ngay các thủ tục để bán đấu giá, thanh lý tài sản, tránh trường hợp tang vật, phương tiện để lâu ngày, bị tồn đọng tại các điểm trông giữ tang vật, phương tiện vi phạm.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định sau đây:
Thứ hai, hiện nay, Luật XLVPHC chưa có quy định về việc cơ quan nào có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế trong trường hợp chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành tại Điều 71 của Luật (cơ quan ra quyết định hay cơ quan tiếp nhận quyết định xử phạt để thi hành). Do vậy, cần nghiên cứu bổ sung quy định về vấn đề này.
1.6. Về sự tương thích giữa các quy định về XPVPHC của Luật XLVPHC và các nghị định quy định về XPVPHC với các quy định của Bộ luật hình sự
2. Đối với công tác áp dụng các BPXLHC
Thứ nhất, sửa đổi quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng các BPXLHC tại các Điều 90, 92 và 94 Luật XLVPHC do hiện nay có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau liên quan đến vấn đề này.
2.2. Về trình tự, thủ tục
Thứ hai, bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 và 2 Điều 131 Luật XLVPHC về việc giao gia đình hoặc tổ chức xã hội quản lý người có hành vi vi phạm pháp luật thuộc đối tượng bị áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đặc biệt là đối tượng người nghiện ma túy) trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp này nhằm bảo đảm tính khả thi.
2.3. Về sự tương thích giữa các quy định về áp dụng BPXLHC của Luật XLVPHC với các quy định của Bộ luật hình sự và Luật phòng, chống ma túy
Thứ hai, bổ sung quy định để bãi bỏ hình thức quản lý sau cai nghiện được quy định tại Luật Phòng, chống ma túy để thống nhất với quy định của Luật XLVPHC, hạn chế tình trạng học viên cai nghiện “phá trại”, “trốn trại” tại một số địa phương trong thời gian vừa qua.
Bộ Tư pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục, giảm khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo, cụ thể là bãi bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục, giảm khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo.
1 Tính đến hết ngày 30/09/2017, Chính phủ đã ban hành tổng số 92 nghị định (trong đó có 09 nghị định đã hết hiệu lực toàn bộ) và 67 thông tư (còn hiệu lực) nhằm triển khai thi hành Luật XLVPHC hiệu quả.
2 Ví dụ: Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đã thông qua Nghị quyết số 07/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 quy định về mức tiền phạt đối với một số hành vi VPHC trong lĩnh vực xây dựng và Nghị quyết số 08/2014/NQ- HĐND ngày 11/7/2014 quy định về mức tiền phạt đối với một số hành vi VPHC trong lĩnh vực văn hóa; UBND tỉnh Bạc Liêu ban hành Quyết định số 1902/QĐ-UBND ngày 19/10/2017 Quyết định thẩm quyền xử phạt và cách thức xác định hồ sơ xử lý vi phạm hành chính có nội dung phức tạp, phạm vi rộng, ảnh hưởng đến nhiều đối tượng trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu; UBND tỉnh Bắc Kạn ban hành Quyết định số 2094/QĐ-UBND ngày 12/12/2017 quy định tiêu chí xác định hồ sơ xử lý vi phạm hành chính có nội dung phức tạp trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn;...
3 Riêng Cục QLXLVPHC&TDTHPL, tính đến hết ngày 31/5/2017, Cục đã tổ chức 22 lớp tập huấn tại các tỉnh: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Lâm Đồng, Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Giang, Phú Yên, Khánh Hòa, Tuyên Quang, Trà Vinh, Quảng Ninh, Lào Cai, Cà Mau, Hà Nam, Ninh Bình, Ninh Thuận,...
4 Hàng năm, Cục QLXLVPHC&TDTHPL trung bình phát hành khoảng từ 60 đến 80 văn bản hướng dẫn nghiệp vụ theo yêu cầu của các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân.
5 Đặc biệt, năm 2016, STP Đồng Tháp đã triển khai thực hiện việc tuyên truyền, tư vấn các quy định của pháp luật về XLVPHC bằng hình thức mới qua mạng xã hội Facebook và bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.
6 Bộ Tài chính đã ban hành các kế hoạch kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hàng năm: Quyết định số 636/QĐ-BTC ngày 09/4/2015 phê duyệt Kế hoạch kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2015 của Bộ Tài chính; Quyết định số 2781/QĐ-BTC ngày 28/12/2015 phê duyệt kế hoạch kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính năm 2016; Quyết định số 2785/QĐ-BTC ngày 27/12/2016 phê duyệt Kế hoạch kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính năm 2017.
7 Đến nay, Bộ Tư pháp đã phối hợp tổ chức 16 đoàn liên ngành thực hiện hoạt động kiểm tra về công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại một số Bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
8 Do liên quan đến nhiều lĩnh vực phức tạp, riêng Bộ Tài chính giao Vụ Pháp chế là đầu mối tổng hợp, theo dõi công tác xử phạt vi phạm hành chính với 08 cán bộ thực hiện nhiệm vụ này.
9 03 tỉnh, thành phố chưa thành lập Phòng chuyên môn: Phú Thọ, Lai Châu, Thanh Hóa.
10 số liệu được tổng hợp từ năm 2014 - thời điểm cơ quan quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính được thành lập (Cục QLXLVPHC&TDTHPL); thời điểm trước đó một số Bộ, ngành địa phương chưa tiến hành tổng hợp số liệu.
11 Riêng năm 2014 tỷ lệ chấp hành quyết định xử phạt khoản 73,4% do thời điểm này các quy định về XPVPHC trong Luật XLVPHC vừa mới có hiệu lực và hệ thống các văn bản XPVPHC mới được ban hành, cần có thêm thời gian để triển khai thực hiện
12 Theo số liệu Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội;
13 Theo số liệu Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội;
14 Thông tư số 19/2017/TT-BTC ngày 28/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
15 Bộ Tư pháp đã tiếp nhận được nhiều ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân về những khó khăn bất cập trong quy định của Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành, phản ánh những vấn đề còn gặp khó khăn trong áp dụng pháp luật. Tất cả các ý kiến đó đều được ghi nhận đầy đủ và sẽ được xử lý trong quá trình sửa đổi Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong nội dung Phần này của Báo cáo chỉ nêu vắn tắt về một số quy định bất cập điển hình của Luật XLVPHC
File gốc của Báo cáo 09/BC-BTP năm 2018 về tổng kết thi hành luật xử lý vi phạm hành chính do Bộ Tư pháp ban hành đang được cập nhật.
Báo cáo 09/BC-BTP năm 2018 về tổng kết thi hành luật xử lý vi phạm hành chính do Bộ Tư pháp ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp |
Số hiệu | 09/BC-BTP |
Loại văn bản | Báo cáo |
Người ký | Nguyễn Khánh Ngọc |
Ngày ban hành | 2018-01-08 |
Ngày hiệu lực | 2018-01-08 |
Lĩnh vực | Vi phạm hành chính |
Tình trạng |