CHÍNH PHỦ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 36/BC-CP | Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2010 |
BÁO CÁO
VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI NĂM 2009
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Điều 25 Luật Bình đẳng giới, Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2009 với những nội dung cụ thể như sau:
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI NĂM 2009
1. Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới
Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới. Cho tới thời điểm này, Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới là: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Đồng thời, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2009 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Thực hiện Điều 20 của Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 191/2009/TT-BTC ngày 01 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Việc ban hành Thông tư đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của Luật Bình đẳng giới trong việc bảo đảm nguồn lực tài chính cho hoạt động bình đẳng giới.
Trong năm vừa qua, nhiều Bộ ngành, địa phương đã và đang tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch triển khai Luật Bình đẳng giới và Nghị quyết 11-NQ/TW như Bộ Công an, Bộ Xây dựng và các tỉnh Hà Nam, Bình Định, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Quảng Nam, Đắk Lắk, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thái Nguyên, An Giang …
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới được coi là phương pháp tiếp cận hiệu quả nhất để đạt được bình đẳng giới. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng pháp luật, chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội là rất quan trọng, tạo tiền đề pháp lý để thực thi bình đẳng giới trên thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, do sự hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng ghép giới của cán bộ làm công tác tham mưu hoạch định chính sách dẫn đến việc triển khai trên thực tế còn nhiều khó khăn, lúng túng và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tuy nhiên, với những nỗ lực ban đầu, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được triển khai và đạt một số kết quả sau:
Điều 5 của Luật, một trong năm nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức đó là thực hiện bình đẳng giới. Ngoài ra, Điều 18 của Luật quy định về những việc cán bộ, công chức không được làm, liên quan đến đạo đức công vụ, trong đó có việc không được phân biệt đối xử vì lý do dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.
Nghị định số 01/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2009 quy định tiêu chuẩn vật chất hậu cần đối với người đang làm công tác cơ yếu, Chính phủ quy định: thiết bị vệ sinh nhà ở tập thể và nhà làm việc công cộng được trang cấp theo quy mô quân số, đối với đơn vị cơ yếu có nữ thì phải bố trí cho nam, nữ riêng.
Điều 5 của Nghị định này, Chính phủ đã quy định rõ việc ưu tiên chương trình trợ giúp của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ và có sử dụng nhiều lao động nữ.
Nghị định số 65/2009/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2003 quy định về tiêu chuẩn vật chất hậu cần đối với quân nhân tại ngũ đã có những quy định dành riêng cho nữ quân nhân.
Tại Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26 tháng 10 năm 2009 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy, Chính phủ đã quy định: không áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện đối với nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi; đối với phụ nữ có thai thì được tạm đình chỉ thi hành quyết định cho đến khi con đủ ba mươi sáu tháng tuổi. Nếu trong thời gian tạm đình chỉ mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú xác nhận thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại; phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới ba mươi sáu tháng tuổi nếu là người sau cai nghiện được hoãn thi hành quyết định; về giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại Trung tâm thì đối với phụ nữ có thai được tạm đình chỉ thi hành quyết định cho đến khi con đủ ba mươi sáu tháng tuổi. Trong thời gian tạm đình chỉ mà người đó có thành tích xuất sắc trong quá trình học tập, rèn luyện, lao động được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú xác nhận thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
Căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch, đồng thời để triển khai thực hiện việc hướng dẫn lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đối với các cấp, các ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng và ban hành Hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2011 – 2015, trong đó có mục riêng về “thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ” với các chỉ tiêu cụ thể (như tỷ lệ nữ đại biểu của các cơ quan dân cử, tỷ lệ hộ gia đình được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tên cả vợ và chồng …); hầu hết các chỉ tiêu về việc làm, giáo dục và y tế đã được phân theo giới tính (như tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động có việc làm mới; tỷ lệ học sinh nam/nữ trong tổng số học sinh các cấp học; tỷ lệ phụ nữ mù chữ ở độ tuổi dưới 40; tỷ lệ tử vong bà mẹ …). Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiến hành nghiên cứu về cơ sở lý luận và phương pháp lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào công tác lập kế hoạch, nhằm tạo tiền đề cho việc triển khai nhiệm vụ này trong những năm tiếp theo.
Các Bộ, ngành và tỉnh, thành phố đã và đang thực hiện việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sắp xếp, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới trong lĩnh vực quản lý của ngành, địa phương. Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật chuyên ngành, các cơ quan chức năng đã và đang nghiên cứu lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào dự thảo văn bản, như: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã và đang nghiên cứu việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, trong đó những vấn đề quy định riêng đối với lao động nữ đang được xem xét để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giới; Bộ Tư pháp triển khai xây dựng dự án Luật phòng chống buôn bán người, trong đó có quy định bảo đảm quyền con người của phụ nữ và trẻ em; Bộ Y tế và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã đưa vào dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em các quy định xử phạt đối với hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, phân biệt đối xử đối với phụ nữ mang thai, ép buộc phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai, phân biệt đối xử với trẻ em gái…; Bộ Giáo dục và Đào tạo đang nghiên cứu để trình ban hành chính sách hỗ trợ nhằm tăng nhanh tỷ lệ phụ nữ được đào tạo sau đại học; Bộ Nội vụ nghiên cứu xây dựng Nghị định quy định về tổ chức và chính sách đối với thanh niên xung phong; Ủy ban Dân tộc nghiên cứu để trình ban hành chính sách đặc thù hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Bộ Tài chính nghiên cứu để trình thành lập Quỹ giải thưởng tài năng nữ …. Trong quá trình xây dựng các Chiến lược của ngành cho giai đoạn 2011 – 2020, các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 – 2015, các chương trình, đề án, các cơ quan đã và đang nghiên cứu để đưa vào dự thảo các quy định để đảm bảo bình đẳng giới (như Chiến lược an sinh xã hội, Chiến lược đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, Chương trình hành động quốc gia phòng chống bạo lực gia đình, Chiến lược dân số - sức khỏe sinh sản, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em, Chương trình mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, Đề án phát triển các dịch vụ hỗ trợ gia đình và cải thiện môi trường sống, Đề án phát triển dịch vụ gia đình và cộng đồng …). Đặc biệt, một số địa phương đã chỉ đạo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng và thực hiện các hương ước, quy ước ở cơ sở, góp phần tích cực xóa bỏ dần các phong tục, tập quán lạc hậu và tư tưởng trọng nam hơn nữ.
Thực hiện nhiệm vụ quy định tại Luật Bình đẳng giới và Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng để trình ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2015. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập xây dựng Chiến lược và Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới với sự tham gia của đại diện nhiều Bộ, ngành hữu quan và một số nhà khoa học. Chiến lược và Chương trình mục tiêu quốc gia nêu trên sẽ tập trung vào việc xác định các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của từng giai đoạn và các giải pháp chủ yếu giải quyết các vấn đề bất bình đẳng giới trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hầu hết các Bộ, ngành và địa phương đều xác định trọng tâm công tác bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay là tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới nhằm từng bước nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo, cán bộ, công chức, người lao động và nhân dân về lĩnh vực này. Luật Bình đẳng giới và các văn bản hướng dẫn Luật đã được nhiều cơ quan, đơn vị in và phát hành rộng rãi.
Các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương đã mở nhiều chuyên mục tuyên truyền về bình đẳng giới, truyền tải những chủ trương, chính sách, pháp luật về lĩnh vực này tới mọi người dân một cách hiệu quả và thuận lợi nhất.
- Hội nghị toàn quốc sơ kết tình hình thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010.
5. Đầu tư nguồn lực cho công tác bình đẳng giới
Năm 2009, cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đã tiến hành rà soát về tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác bình đẳng giới tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, tính đến cuối năm 2009:
- Về cán bộ, tại 63 Sở Lao động – Thương binh và Xã hội có 98 cán bộ làm công tác bình đẳng giới; tính trung bình mỗi Sở có 1,5 cán bộ làm công tác này, song hầu hết vẫn là kiêm nhiệm. Riêng thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Bình đẳng giới thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội được giao chỉ tiêu biên chế là 7 cán bộ; ở cấp huyện, có chỉ tiêu 2 biên chế chuyên trách công tác bình đẳng giới; ở cấp xã, sẽ có 1/2 định biên chuyên trách công tác này.
Thực hiện Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập, kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, hầu hết các địa phương đã tiến hành kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở cấp tỉnh và cấp huyện. Theo đó, cơ quan thường trực Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở cấp tỉnh được giao cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và ở cấp huyện giao cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội.
Kinh phí được cấp chủ yếu tập trung cho triển khai công tác tuyên truyền và tập huấn nghiệp vụ bình đẳng giới. Hiện có nhiều đơn vị chưa được cấp kinh phí để triển khai thực hiện nhiệm vụ về bình đẳng giới.
Năm 2009, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tổ chức các đoàn công tác nắm tình hình thực hiện Luật Bình đẳng giới tại một số địa phương như: Cần Thơ, Ninh Bình, Đắk Lắk, Hà Nam, Thái Nguyên, Nghệ An, và Thành phố Hồ Chí Minh …
Qua báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương cho thấy, công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới bước đầu đã được một số đơn vị lồng ghép với việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật lao động tại các doanh nghiệp. Trong bối cảnh tổ chức bộ máy hoạt động bình đẳng giới còn mới và khó khăn về nguồn lực triển khai, Ban vì sự tiến bộ phụ nữ của các Bộ, ngành, địa phương đã tiếp tục phát huy vai trò trong việc tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành đối với các đơn vị cấp dưới về việc thực hiện Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ, Luật Bình đẳng giới và Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tuy nhiên, theo báo cáo của các đơn vị, địa phương mới chỉ phản ánh việc xử lý các vụ vi phạm về bạo lực gia đình, mà chưa có khiếu nại, tố cáo và xử lý pháp luật về bình đẳng giới.
Năm 2009 là năm đầu tiên thực hiện quy định của Luật Bình đẳng giới về chế độ báo cáo hàng năm trước Quốc hội về tình hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Chính phủ có Báo cáo số 63/BC-CP ngày 08 tháng 5 năm 2009 về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới gửi các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII.
Năm 2009, lần đầu tiên Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xuất bản Báo cáo “Xu hướng việc làm Việt Nam 2009” nhằm cung cấp thông tin, diễn biến của lực lượng lao động, xu hướng việc làm và thất nghiệp. Đặc biệt, báo cáo đã cung cấp các chỉ số chính về thị trường lao động của nước ta, với hầu hết các số liệu được phân tách giới và có sự so sánh trong giai đoạn 10 năm từ 1997 đến 2007, Đây là cơ sở dữ liệu quan trọng, hữu ích trong việc xây dựng các chính sách thị trường lao động có nhạy cảm giới trong các năm tới.
Điều 12 của Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, Tổng cục Thống kê – Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang triển khai nghiên cứu xây dựng để trình ban hành bộ chỉ số phát triển giới của quốc gia, tiêu chí phân loại giới trong số liệu thống kê nhà nước và dự kiến hoàn thành vào quý IV năm 2010. Năm 2009, Tổng cục Thống kê cũng đã xây dựng Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 312/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2010. Theo đó, Hệ thống chỉ tiêu thống kê này được cập nhật, tăng từ 274 chỉ tiêu lên 353 chỉ tiêu, trong đó số chỉ tiêu riêng phản ánh phát triển phụ nữ được tăng thêm và các chỉ tiêu khác vẫn được phân bổ theo giới một cách tối đa. Ngoài ra, trong khuôn khổ Chương trình hợp tác chung giữa Liên hợp quốc và Chính phủ Việt Nam về bình đẳng giới, Tổng cục thống kê đang triển khai thực hiện lồng ghép các chỉ tiêu về giới trong các cuộc điều tra hiện có. Kết quả của hoạt động này sẽ là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng bộ chỉ số phát triển giới quốc gia.
Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, một số địa phương đã đưa kết quả hoạt động bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ vào nội dung kiểm điểm, đánh giá công tác chỉ đạo hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do đó, đã tạo cơ chế thuận lợi cho việc thực hiện, kiểm điểm tình hình triển khai thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới hàng năm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong lĩnh vực này.
Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, tình hình thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội được phản ánh như sau:
Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác quy hoạch cán bộ nữ của các tỉnh, thành ủy bước đầu đã có chuyển biến tích cực. Việc phát hiện, giới thiệu nguồn cán bộ nữ đưa vào quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh đạo các cấp cho nhiệm kỳ 2010 – 2015 (quy hoạch A1) đã được cấp ủy đảng các cấp quan tâm hơn. Tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ được bổ sung vào quy hoạch A2 cao hơn quy hoạch A1. Tỷ lệ cán bộ nữ được đưa vào quy hoạch ở hầu hết các tỉnh, thành ủy đều cao hơn tỷ lệ nữ ở cấp ủy hiện tại. Tuy nhiên, 50% số tỉnh có tỷ lệ nữ cấp ủy trong quy hoạch vẫn dưới 15%.
Năm 2009, đã có 01 đồng chí nữ ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng được bầu bổ sung vào Ban Bí thư TW đảng và bổ nhiệm 01 nữ Thứ trưởng tại Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Từ cuối năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế nước ta và làm ảnh hưởng tới khả năng tạo việc làm. Tuy nhiên, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành tổ chức triển khai thực hiện nhiều chính sách và giải pháp hỗ trợ người lao động bị mất việc làm, tạo điều kiện để doanh nghiệp duy trì và đầu tư mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm và tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. Kết quả, trong năm 2009, đã tạo thêm việc làm mới cho 1.510 ngàn người – đạt 88,8% kế hoạch đề ra, trong đó lao động nữ đạt gần 48%; xuất khẩu lao động 73.028 người, trong đó lao động nữ là 22.020 người (chiếm 30,2%).
Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi bị thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% năm 2008), trong đó tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị của nữ là 4,23% và nam là 4,86%; tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn của nữ là 2,18% so với nam là 2,33%.
Cũng theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy, tỷ lệ số dân từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tăng liên tục qua 3 cuộc Tổng điều tra, (năm 1989 là 88%, năm 1999 là 90%, và năm 2009 là 93,5% - trong đó nữ là 91,4% so với nam là 95,8%). Phân bổ tỷ lệ biết chữ theo nhóm tuổi cho thấy, tình hình giáo dục của nước ta đã được cải thiện một cách đáng kể qua từng giai đoạn. Tỷ lệ biết chữ của nhóm 50 tuổi trở lên là 87,2%. Tỷ lệ biết chữ của nhóm trẻ hơn được tăng dần cho đến mức cho nhất là 98% ở nhóm tuổi từ 15 – 17 tuổi đối với cả nam và nữ. Sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ ở nông thôn và thành thị là không đáng kể (97% ở thành thị và 92% ở nông thôn). Hà Nội là thành phố có tỷ lệ biết chữ cao nhất (97,6%), thấp nhất là Lai Châu (57,4%).
Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố ngày 20 tháng 11 năm 2009, hiện có 7/65 nữ nhà giáo là giáo sư (chiếm 10,76%) và có 133/641 nữ nhà giáo là phó giáo sư (chiếm 20,74%).
Giải thưởng Kovalevskaia được trao hàng năm là một minh chứng cho việc tôn vinh nữ trí thức Việt Nam. Trong 25 năm qua, 15 tập thể và 34 cá nhân các nhà khoa học nữ xuất sắc, tiêu biểu nhất trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và ứng dụng đã được Ủy ban giải thưởng Kovalevskaia xét chọn và trao giải. Các chị là các nhà hóa học, vật lý học, sinh học, nông nghiệp, bác sĩ, kỹ sư, các nhà giáo là các nhà nghiên cứu đã có nhiều công trình khoa học, cũng như những thành tựu ứng dụng, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội và đất nước.
Thành quả nghiên cứu khoa học của các chị khá đa dạng và đã được ứng dụng vào thực tiễn trong nhiều ngành khác nhau, đem lại hiệu quả thiết thực. Điều đáng lưu ý là những thành tựu ứng dụng không phải là ngẫu nhiên, mà hầu hết đều là kết quả của quá trình nghiên cứu cơ bản có định hướng trong nhiều năm. Những đề tài nghiên cứu của các chị dù là nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng, phần lớn đều tiếp cận các vấn đề, các hướng nghiên cứu khoa học hiện đại mà cộng đồng khoa học thế giới đang quan tâm.
Năm 2009, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức Hội nghị Công nghệ thông tin thế giới WITFOR, trong đó đã dành một phiên họp bàn về những vấn đề giới trong công nghệ thông tin. Những khó khăn và trở ngại của phụ nữ khi tiếp cận công nghệ thông tin cũng như khi đề xuất chính sách và phương hướng giải quyết để tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận thông tin là những nội dung quan trọng của Hội nghị. Tỷ lệ lao động nữ trong các công ty chuyên về lĩnh vực truyền thông ngày càng gia tăng với năng lực, trình độ ngày càng cao. Theo số liệu thống kê của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, tỷ lệ lao động nữ chiếm 42% tổng số lao động cùng lĩnh vực, trong đó, nữ có trình độ chuyên môn từ đại học, cao đẳng trở lên đạt 38,3%. Điều đáng quan tâm là do sự chênh lệch điều kiện sống dẫn đến tỷ lệ phụ nữ ở thành thị được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng cao hơn phụ nữ ở nông thôn (38,3% phụ nữ thành thị được tiếp cận 3 loại hình cơ bản của truyền thông (tivi, đài, báo in) nhưng tỷ lệ này ở phụ nữ nông thôn chỉ có 15,5%)).
Theo báo cáo không đầy đủ của các Sở Y tế, tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận dịch vụ y tế tăng dần từ 83,5% năm 2005; 85,3% năm 2006; 86,5% năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008 chỉ tiêu này đạt 85,3%.
Hiện nay, cả nước có 10 nhà tạm lánh, trong đó có 2 nhà dành cho nạn nhân của bạo lực gia đình và con cái của họ (tại Hà Nội và Huế), số còn lại là dành cho phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân bị buôn bán trở về (tại Hà Nội, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, An Giang, Cần Thơ và Tp. Hồ Chí Minh). Các nhà tạm lánh là nơi giúp cho phụ nữ và trẻ em gái có thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tư vấn, giáo dục, dạy nghề và một số kỹ năng sống cần thiết. Từ tháng 3/2007 đến nay, nhà tạm lánh của Trung tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã cung cấp chỗ ở cho 149 nạn nhân bạo lực gia đình và 41 chị bị buôn bán trở về.
- Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật khác, trong đó có quy định liên quan tới bình đẳng giới; chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, đưa nội dung bình đẳng giới vào quá trình xây dựng các Chiến lược giai đoạn 2011 – 2020, Chương trình, Đề án giai đoạn 2011 – 2015. Nhiều Bộ, ngành địa phương đã xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền và các văn bản có liên quan nhằm triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới. Một số địa phương bước đầu đã quan tâm đến việc thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới như: bổ nhiệm nữ vào các chức dnah trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức đảng, đoàn thể; tạo điều kiện để cán bộ, công chức và lao động nữ tham gia học tập, bồi dưỡng; thu hút sinh viên tốt nghiệp loại giỏi vào làm việc tại các cơ quan của địa phương …
- Bộ máy tổ chức và cán bộ làm công tác bình đẳng giới, tổ chức phối hợp liên ngành vì sự tiến bộ phụ nữ từ trung ương đến cơ sở đã tiếp tục được kiện toàn.
2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
- Định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân, đặc biệt trong một bộ phận cán bộ, công chức. Tư tưởng coi nam giới là “trụ cột” còn phụ nữ luôn gắn với vai trò nội trợ, chăm sóc gia đình đã gây ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của mỗi giới, dẫn đến thiếu sự chia sẻ trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong công việc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội.
- Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật để tiến hành sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc ban hành văn bản mới nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới chưa thực sự được các cơ quan chức năng quan tâm.
- Còn khoảng cách giữa các quy định của pháp luật và việc thực thi trên thực tế, làm hạn chế khả năng thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới.
- Công tác thống kê số liệu có tách biệt giới chưa được thực hiện một cách đầy đủ, đặc biệt là rất thiếu số liệu tách biệt giới trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, văn hóa, gia đình, thể thao, gây nhiều trở ngại cho việc nghiên cứu, hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách pháp luật bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới.
+ Trong lĩnh vực chính trị: Hiện nay, ở hầu hết các chức danh lãnh đạo, tỷ lệ nữ hiện nay đều giảm so với nhiệm kỳ 1999 – 2004. Công tác quy hoạch cán bộ còn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến thiếu cán bộ nữ kế cận cho nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý. Việc cơ cấu tỷ lệ phụ nữ trong các kỳ bầu cử có lúc, có nơi còn hình thức, chiếu lệ và chưa thực chất. Nếu không kịp thời có những giải pháp quyết liệt thì những tồn tại này vẫn tiếp tục duy trì trong giai đoạn tới.
+ Trong lĩnh vực giáo dục: tình trạng bất bình đẳng không chỉ xảy ra giữa nam và nữ mà còn xảy ra ngay đối với phụ nữ ở khu vực thành thị và nông thôn. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 cho thấy, tỷ lệ dân số nữ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đạt 96% ở khu vực thành thị và 89,3% ở khu vực nông thôn; tỷ trọng dân số nữ chưa học xong tiểu học ở nông thôn cao hơn so với nam ở vùng khu vực và so với nữ ở thành thị (19,7% so với 14,3% và 10,8%); tỷ trọng dân số nữ có bằng đại học trở lên ở thành thị là 9,1% so với 1,2% ở nông thôn.
+ Trong lĩnh vực gia đình: Tình trạng bạo lực trên cơ sở giới mà đối tượng chịu tác động chính là phụ nữ. Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam công bố năm 2008, tình trạng bạo lực xảy ra với khoảng 20% cặp vợ chồng. Nạn nhân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Tình trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chưa có chiều hướng giảm ở một số địa phương và vấn đề nổi cộm là việc một số đối tượng lợi dụng hôn nhân với người nước ngoài để buôn bán trục lợi, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ Việt Nam.
b) Nguyên nhân của tồn tại:
- Việc xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể về bình đẳng giới còn lúng túng và ban hành các văn bản hướng dẫn kinh phí cho hoạt động bình đẳng giới chậm, dẫn đến khó khăn trong việc lập dự toán và bố trí kinh phí cho các hoạt động này của các Bộ, ngành, địa phương.
- Trong triển khai công tác bình đẳng giới, nhiều nơi chưa thực sự hiểu rõ yêu cầu nhiệm vụ cũng như thiếu kiến thức, kỹ năng nên sự phối hợp chưa nhịp nhàng, chưa hiệu quả.
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NĂM 2010 VÀ KIẾN NGHỊ
- Tổ chức tổng kết Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, tìm ra những bài học thành công, những tồn tại, khó khăn và nguyên nhân trong thực hiện Chiến lược trong 10 năm qua. Trên cơ sở đó, xây dựng và ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020.
- Triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ đã được quy định tại các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Xây dựng và ban hành các Chiến lược, Chương trình hành động, Đề án đảm bảo bình đẳng giới, gồm: Chiến lược an sinh xã hội, Chiến lược đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, Chương trình hành động quốc gia phòng chống bạo lực gia đình, Chiến lược dân số - sức khỏe sinh sản, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em, Chương trình mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, Đề án phát triển các dịch vụ hỗ trợ gia đình và cải thiện môi trường sống, Đề án phát triển dịch vụ gia đình và cộng đồng.
2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới
- Xây dựng và triển khai Đề án truyền thông về bình đẳng giới cho từng giai đoạn.
- Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ theo quy định tại Thông tư Liên tịch số 10/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 10 tháng 7 năm 2008 và Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Chỉ thị số 27/2004/CT-TTg ngày 15 tháng 7 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và nghiên cứu, đề xuất công tác kiện toàn tổ chức và cán bộ làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ ở các Bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương.
- Tổ chức triển khai thực hiện các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới, trong đó có Nghị định số 48/2009/NĐ-CP, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới và Nghị định 110/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình.
- Nghiên cứu, xây dựng mô hình thí điểm triển khai thực hiện bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ ở một số địa phương để tiến hành nhân rộng vào năm 2011.
- Nghiên cứu, thí điểm việc hỗ trợ bồi dưỡng kỹ năng cho các cán bộ nữ tiềm năng tham gia ứng cử Hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội nhiệm kỳ 2011 – 2015.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỚI QUỐC HỘI
2. Trong khi phê duyệt dự toán và phân bổ ngân sách hàng năm, bảo đảm đủ ngân sách cho việc thực hiện nhiệm vụ bình đẳng giới, trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2015 sau khi được phê duyệt.
- Như trên;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ: Lao động-Thương binh và Xã hội, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Y tế, Nội vụ, Tư pháp, Giáo dục và Đào tạo, Ngoại giao, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- UB về các Vấn đề xã hội của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- VPCP: BTCN, PCN: Nguyễn Hữu Vũ, Kiều Đình Thụ, các Vụ: TH, PL, TCCV, TKBT, Cổng TTĐT;
- Lưu: Văn thư, KGVX (5b).Q.
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG
BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
CÁC ĐƠN VỊ NỘP BÁO CÁO VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
(Đến ngày 10 tháng 4 năm 2010)
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Bộ Nội vụ
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo
7. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
9. Bộ Tài chính
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
13. Bộ Ngoại giao
15. Bộ Công Thương
17. Bộ Giao thông vận tải
1. Bạc Liêu
3. Bắc Ninh
5. Bình Dương
7. Cà Mau
9. Gia Lai
11. Hậu Giang
13. Khánh Hòa
15. Lai Châu
17. Nam Định
19. Phú Thọ
21. Quảng Nam
23. Quảng Ninh
25. Sóc Trăng
27. Thanh Hóa
29. Thái Nguyên
31. Trà Vinh
33. Tây Ninh
35. Yên Bái
Từ khóa: Báo cáo 36/BC-CP, Báo cáo số 36/BC-CP, Báo cáo 36/BC-CP của Chính phủ, Báo cáo số 36/BC-CP của Chính phủ, Báo cáo 36 BC CP của Chính phủ, 36/BC-CP
File gốc của Báo cáo 36/BC-CP thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2009 do Chính phủ ban hành đang được cập nhật.
Báo cáo 36/BC-CP thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2009 do Chính phủ ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Chính phủ |
Số hiệu | 36/BC-CP |
Loại văn bản | Báo cáo |
Người ký | Nguyễn Thị Kim Ngân |
Ngày ban hành | 2010-04-20 |
Ngày hiệu lực | 2010-04-20 |
Lĩnh vực | Văn hóa |
Tình trạng | Còn hiệu lực |