Thông tư liên bộ 04-TT-LB năm 1965 thi hành chính sách thuế sát sinh đối với thương nghiệp quốc doanh kinh doanh thịt do Bộ Tài Chính- Bộ Nội Thương ban hành
Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nghị quyết số 37-NQ-TVQH ngày 20-11-1964 sửa đổi chính sách thuế sát sinh và Thủ tướng Chính phủ đã có thông tư số 125-TTg-TN ngày 31-12-1964 thi hành trước Tết âm lịch 1965.
Căn cứ quyết nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội và thông tư của Thủ tướng Chính phủ, Liên bộ Tài chính - Nội thương quy định việc thi hành chính sách thuế sát sinh đối với kinh doanh thịt của thương nghiệp quốc doanh thực phẩm và hợp tác xã mua bán huyện như sau:
I. VỀ CÁCH THU THUẾ SÁT SINH
Theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, trong khi chờ đợi thu quốc doanh vào thương nghiệp kinh doanh thịt, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm và hợp tác xã mua bán huyện mổ thịt vẫn tiếp tục nộp thuế sát sinh theo tỷ lệ 10% tính trên trọng lượng thịt xô và lòng của con vật giết thịt và theo giá chỉ đạo bán lẻ của Mậu dịch thực phẩm.
II. VỀ CÁCH THU NỘP THUẾ SÁT SINH, MIỄN THUẾ SÁT SINH CHO NGƯỜI CHĂN NUÔI VÀ PHÂN PHỐI THUẾ SÁT SINH CHO NGÂN SÁCH CÁC CẤP
...
2. Nộp phần tiền thuế sát sinh dành cho ngân sách xã.
Khi thu mua súc vật ở xã, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện phải làm giấy xác nhận với Ủy ban hành chính xã số súc vật đã mua trong xã. và tuần kỳ 15 ngày phải thanh toán với Ủy ban hành chính xã bằng chuyển khoản số tiền thuế sát sinh dành cho ngân sách xã theo mức sau đây (ở đồng bằng cũng như ở miền núi):
2đ20 một con trâu hay bò,
0,80 một con lợn.
0,40 một con dê.
Đối với súc vật thu mua ký gửi trong nhân dân từ trước nhưng giao cho cơ quan thu mua sau ngày thi hành chính sách thuế sát sinh mới, thì ngân sách xã cũng vẫn được một phần tiền thuế sát sinh theo mức quy định trên đây.
Đối với súc vật của các trại chăn nuôi của Nhà nước, của nông trường quốc doanh giao cho Mậu dịch quốc doanh thực phẩm để dự trữ giết thịt hoặc để chuyển đi tỉnh khác, thì không trích thuế cho ngân sách xã.
3. Nộp tiền thuế sát sinh cho ngân sách tỉnh chăn nuôi.
Để việc hạch toán của cơ quan thương nghiệp kinh doanh thịt được tiện lợi, việc nộp thuế sát sinh cho ngân sách tỉnh chăn nuôi sẽ tiến hành như sau:
a) Ở kho chuẩn bị để giết thịt:
Đối với súc vật thu mua của nhân dân và hợp tác xã để giết thịt hoặc để điều đi tỉnh khác, hoặc để xuất khẩu, các Công ty thực phẩm phải nộp cho cơ quan tài chính địa phương phần tiền thuế sát sinh dành cho ngân sách tỉnh chăn nuôi (ở đồng bằng cũng như ở miền núi) theo mức sau đây:
Trâu, bò: 8đ00 một con
Lợn: 2,80 một con
Dê: 1,40 một con
Như vậy, nếu cộng thêm phần thuế sát sinh phải trả cho người chăn nuôi và trả cho ngân sách xã, thì Công ty thực phẩm phải trả trước:
Ở đồng bằng:
1 con trâu hay bò:
8đ00 + 2đ70 + 2đ20 = 12đ90
1 con lợn: 2,80 + 0,90 + 0,80 = 4,50
1 con dê: 1,40 + 0,45 + 0,40 = 2,25
Ở miền núi:
1 con trâu hay bò:
8đ00 + 3đ60 + 2đ20 = 13đ80
1 con lợn: 2,80 + 1,20 + 0,80 = 4,80
1 con dê: 1,40 + 0,60 + 0,40 = 2,40
Riêng đối với súc vật thu mua của các nông trường quốc doanh hoặc do các trại chăn nuôi thuộc ngành thương nghiệp quốc doanh chuyển sang kho dự trữ để giết thịt, vì không phải trả tiền giảm thuế cho người chăn nuôi và tiền thuế cho ngân sách xã, nên mức thuế nộp cho ngân sách tỉnh chăn nuôi đối với từng loại súc vật là:
Ở đồng bằng: Trâu, bò: 12đ90 một con
Lợn: 4,50 một con
Dê: 2,25 một con
Ở miền núi: Trâu, bò: 13đ80 một con
Lợn: 4,80 một con
Dê: 2,40 một con
Đối với súc vật thu mua từ trước và tồn kho đến ngày thi hành chính sách thuế sát sinh mới, vì khi thu mua, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện không phải trả trước tiền thuế sát sinh cho người chăn nuôi và cho các ngân sách xã và tỉnh chăn nuôi, nên Mậu dịch quốc doanh hay hợp tác xã mua bán huyện có súc vật tồn kho đến ngày đó cũng sẽ nộp cho ngân sách tỉnh chăn nuôi số tiền thuế như sau:
Ở đồng bằng: Trâu, bò: 12đ90 một con
Lợn: 4,50 một con
Dê: 2,25 một con
Ở miền núi: Trâu, bò: 13đ80 một con
Lợn: 4,80 một con
Dê: 2,40 một con
Tóm lại đối với súc vật ở kho dự trữ để giết thịt hay để điều đi địa phương khác, bất kỳ là súc vật thu mua hay điều ở các trại chăn nuôi của Nhà nước về, Mậu dịch quốc doanh thực phẩm đều phải trả trước:
Ở đồng bằng: Trâu hay bò: 12đ90 một con
Lợn: 4,50 một con
Dê: 2,25 một con
Ở miền núi: Trâu hay bò: 13đ80 một con
Lợn: 4,80 một con
Dê: 2,40 một con
Ở kho giết thịt: Khi giết con vật, Công ty thực phẩm hay hợp tác xã mua bán huyện phải nộp thuế sát sinh 10% theo trọng lượng thịt xô và lòng tính trên giá chỉ đạo bán thịt và được trừ đi số thuế đã trả trước cho người chăn nuôi, cho ngân sách xã và tỉnh chăn nuôi.
Công thức tính số thuế sát sinh phải nộp như sau:
Tổng số thuế sát sinh = giá bán bình quân 1kg thịt x trọng lượng thịt và lòng x 10%.
Số thuế còn phải nộp= Tổng số thuế sát sinh - số thuế đã trả trước (số miễn cho người chăn nuôi và số trả cho xã và tỉnh chăn nuôi).
Ví dụ:
Mậu dịch thực phẩm Hà Nội mổ 50 con lợn trọng lượng thịt và lòng là 1.500kg, giá tính thuế (giá chỉ đạo bán ra) bình quân 1kg thịt là 2đ20. thuế tính như sau:
Tổng số thuế sát sinh phải nộp là:
2đ20 x 1.500 x 10% = 330đ
Trừ số thuế đã trả trước là:
4đ50 X 50 con = 225đ
Số thuế còn phải nộp là: 105đ
b) Đối với súc vật xuất khẩu: Đối với súc vật mua của nhân dân cũng như của nông trường quốc doanh, của các trại chăn nuôi của thực phẩm khi giao sang Ngoại thương xuất khẩu, Công ty thực phẩm sẽ tính cộng vào giá giao súc vật sống một số tiền như sau:
Súc vật thu mua ở đồng bằng:
Trâu, bò: 12đ90 một con
Lợn: 4,50 một con
Dê: 2,25 một con
Súc vật thu mua ở miền núi: Trâu, bò: 13đ80 một con
Lợn: 4,80 một con
Dê: 2,40 một con
Vì số súc vật này không giết thịt nên cơ quan tài chính ở nơi xuất khẩu không thu thêm phần chênh lệch thuế sát sinh.