\r\n VIỆN KIỂM SÁT\r\n NHÂN DÂN | \r\n \r\n CỘNG HÒA XÃ HỘI\r\n CHỦ NGHĨA VIỆT NAM | \r\n
\r\n Số: 21/HD-VKSTC-V5 \r\n | \r\n \r\n Hà Nội, ngày 10\r\n tháng 04 năm 2015 \r\n | \r\n
\r\n\r\n\r\n\r\n
MỘT\r\nSỐ VƯỚNG MẮC TRONG THỰC HIỆN BLTTDS
\r\n\r\nĐể tiếp tục giải quyết những vướng mắc trong thực\r\ntiễn thực hiện BLTTDS thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự\r\ndo Viện kiểm sát các địa phương báo cáo, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 5)\r\ntổng hợp và trao đổi một số nội dung sau đây:
\r\n\r\n\r\n\r\n1. Điều\r\n165 BLTTDS quy định người khởi kiện phải gửi kèm\r\ntheo đơn các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, nhưng một số\r\ntrường hợp tài liệu, chứng cứ đó do bị đơn hoặc người liên quan cất giữ. Do đó,\r\nTòa án không thụ lý giải quyết theo Điều 171 BLTTDS thì Viện kiểm sát kiến nghị giải quyết thế nào ?
\r\n\r\nĐiều 6 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP\r\nngày 03/12/2012 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn Điều 165 BLTTDS\r\nnhư sau: “Về nguyên tắc, khi gửi đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện\r\nphải kèm theo chứng cứ để chứng minh họ có quyền khởi kiện và những yêu cầu của\r\nhọ là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan\r\nnên họ không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu chứng cứ, thì họ phải nộp các tài\r\nliệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ”.\r\nNhững tài liệu, chứng cứ ban đầu được hiểu là bản sao tài liệu, các căn cứ, tài\r\nliệu chứng minh có các chứng cứ, tài liệu gốc như chứng từ, hóa đơn thanh toán\r\ntheo hợp đồng, cam kết thanh toán nợ...Những chứng cứ, tài liệu gốc do đương sự\r\nkhác cất giữ hoặc cơ quan nhà nước quản lý mà người khởi kiện chưa cung cấp được.\r\nTrường hợp người khởi kiện đã nộp đơn và các chứng cứ ban đầu mà Tòa án không\r\nthụ lý giải quyết thì Viện kiểm sát phải căn cứ Điều 165 BLTTDS,\r\nĐiều 6 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP để kiến nghị Tòa án thụ\r\nlý giải quyết đơn khởi kiện của đương sự.
\r\n\r\n\r\n\r\nTrường hợp người khởi kiện không có các chứng cứ,\r\ntài liệu chứng minh do các bên thỏa thuận bằng lời nói thì chưa đủ cơ sở để Tòa\r\nán thụ lý giải quyết đơn khởi kiện theo Điều 165 BLTTDS. Do\r\nđó, Tòa án phải thông báo trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo Khoản\r\n1 Điều 168 BLTTDS.
\r\n\r\n3. Trường hợp đương sự khởi\r\nkiện “Đòi lại giấy chứng nhận quyền dụng đất” nhưng Tòa án áp dụng\r\nĐiểm d Khoản 1 Điều 168 BLTTDS cho rằng\r\nchưa đủ điều kiện khởi kiện nên không thụ lý giải quyết. Nhưng Tòa án không\r\nthông báo trả lại đơn khởi kiện có đúng không ?
\r\n\r\nĐiều 163 Bộ luật dân sự quy định:\r\n“Tài sản bao gồm tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”; đồng thời, Khoản 9 Điều 3 của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006\r\n(sửa đổi bổ sung năm 2012) hướng dẫn “Các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản\r\n(Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng\r\nký xe mô tô, xe máy, ô tô…) không phải là giấy tờ có giá”. Do đó, nếu đương\r\nsự khởi kiện đòi lại “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” thì Tòa án căn cứ Điểm đ Khoản 1 Điều 168 BLTTDS không thụ lý nhưng phải thông\r\nbáo trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo quy định tại Điểm c\r\nkhoản 4 Điều 7 và khoản 5 Điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày\r\n03/12/2012.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định của BLTTDS, nếu các cá nhân, cơ quan,\r\ntổ chức có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ và có các bên đương sự tham gia vào\r\nquan hệ tranh chấp, đó là vụ án dân sự. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh\r\nchấp về quyền và nghĩa vụ, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận\r\ncho mình quyền về dân sự, về nhân thân, đó là việc dân sự.
\r\n\r\nKhoản 2 Điều 101 Luật hôn nhân và\r\ngia đình năm 2012 quy định: “Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định\r\ncha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là\r\ncha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này”.
\r\n\r\nCăn cứ theo quy định trên, có các trường hợp như\r\nsau:
\r\n\r\n1) Tòa án giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong\r\ntrường hợp có các bên tham gia tranh chấp thì đó là vụ án hôn nhân và gia đình;
\r\n\r\n2) Người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã\r\nchết đó là việc hôn nhân và gia đình;
\r\n\r\n3) Trong trường hợp có yêu cầu về xác định cha, mẹ,\r\ncon mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu\r\nTòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết. Nếu có tranh chấp đó là\r\nvụ án hôn nhân và gia đình; không có tranh chấp đó là việc hôn nhân và gia\r\nđình.
\r\n\r\n5. Hiểu thế nào là “các\r\nyêu cầu khác về dân sự” thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án ?
\r\n\r\nCác yêu cầu khác về dân sự được quy định tại Khoản 8 Điều 26 BLTTDS chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng\r\ndẫn cụ thể. Tuy nhiên, vận dụng hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP\r\nngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về “Các trường hợp khác\r\ntheo quy định của pháp luật” (khoản 7 Điều 8), thì “Các\r\nyêu cầu khác về dân sự” thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án được\r\nhiểu là các yêu cầu về dân sự mà Điều 26 BLTTDS chưa quy định\r\nnhưng được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi\r\nBLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp\r\nluật ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ\r\nnghĩa Việt Nam tham gia.
\r\n\r\nVí dụ Điều 6 Luật công chứng năm\r\n2014 quy định “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với\r\ncác bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của\r\nmình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật,\r\ntrừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”.
\r\n\r\n\r\n\r\nTrường hợp bản án giải quyết việc ly hôn đã có hiệu\r\nlực pháp luật nhưng sau đó người vợ hoặc người chồng lại có yêu cầu giải quyết\r\nvề chia tài sản chung của vợ chồng thì đây là vụ án tranh chấp về tài sản. Tòa\r\nán phải thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp tài sản theo Điều 59\r\nLuật hôn nhân và gia đình năm 2014 nhưng không giải quyết lại về hôn nhân\r\nvà con chung đã được quyết định bởi bản án trước đó.
\r\n\r\n\r\n\r\nLuật Giám định tư pháp năm 2012 quy định “Tổ chức\r\ngiám định tư pháp công lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập trong\r\nlĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự (Khoản\r\n1 Điều 12); “Văn phòng giám định tư pháp là tổ chức giám định tư pháp\r\nngoài công lập, được thành trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật,\r\ndi vật, bản quyền tác giả” (khoản 1 Điều 14). Do đó, về\r\nnguyên tắc việc xác định trường hợp cần giám định tại các cơ sở công lập hay\r\nngoài công lập là căn cứ vào thẩm quyền, chức năng của tổ chức giám định và loại\r\nviệc cần yêu cầu giám định.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định tại Điều 181 BLTTDS\r\nnhững vụ án dân sự không được hòa giải trong các trường hợp sau: 1) Yêu cầu đòi\r\nbồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; 2) Những vụ án dân sự phát\r\nsinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
\r\n\r\nLuật bảo hiểm xã hội năm 2006 (sửa đổi năm 2014)\r\nquy định các hình thức bảo hiểm xã hội gồm: Bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm\r\nxã hội tự nguyện. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là hình thức bảo hiểm xã hội do Nhà\r\nnước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp\r\nvới thu nhập của mình. Như vậy, trường hợp xảy ra tranh chấp giữa doanh nghiệp\r\nsử dụng lao động với cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự\r\nnguyện thì các bên có thể tiến hành hòa giải để giải quyết tranh chấp nhưng phải\r\ntuân theo quy định của Điều 180 BLTTDS.
\r\n\r\nBảo hiểm xã hội bắt buộc là hình thức bảo hiểm xã hội\r\ndo Nhà nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.\r\nNghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều\r\ncủa Luật bảo hiểm xã hội, Điều 7 của Nghị định quy định về\r\ncác hành vi bị nghiêm cấm đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc, như sau:
\r\n\r\n1. Về đóng bảo hiểm
\r\n\r\na) Không đóng bảo hiểm xã hội
\r\n\r\nb) Đóng không đúng mức quy định;
\r\n\r\nc) Đóng không đúng thời gian quy định;
\r\n\r\nd) Đóng không đủ số người thuộc diện tham gia bảo\r\nhiểm xã hội.
\r\n\r\nDo vậy, đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi xảy\r\nra tranh chấp giữa doanh nghiệp sử dụng lao động và cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm\r\nxã hội mà nội dung tranh chấp liên quan đến các quy định tại Khoản\r\n1 Điều 7 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 thì khi giải quyết Tòa\r\nán không được tiến hành hòa giải.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định tại Điều 187 BLTTDS,\r\nhết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương\r\nsự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải\r\nhoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công giải quyết ra quyết định công\r\nnhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn nêu trên, nếu Tòa án bổ\r\nsung người tham gia tố tụng mà đương sự được bổ sung có liên quan đến quyền và\r\nnghĩa vụ của các bên đã tiến hành hòa giải và không đồng ý với kết quả hòa giải\r\nđó thì Tòa án phải tiến hành hòa giải lại (tham khảo Điều 17\r\nNghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012).
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định tại Khoản 3 Điều 184\r\nBLTTDS thành phần phiên hòa giải gồm: “3. Các đương sự hoặc người đại diện\r\nhợp pháp của các đương sự”. Nếu có đương sự đang bị tạm giam mà việc giải\r\nquyết vụ án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ, thì Tòa án phải yêu cầu người\r\nđang bị tạm giam ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng. Trường hợp người\r\nbị tạm giam không ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng thì đó là trường\r\nhợp “Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì lý do chính đáng” (Khoản 2 Điều 182 BLTTDS) và Tòa án cần tiến hành giải quyết vụ\r\nán theo thủ tục chung.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo Khoản 1 Điều 58 Bộ luật dân sự:\r\nGiám hộ là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ)\r\nđược pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ\r\nquyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi\r\ndân sự (gọi chung là người được giám hộ). Khoản 1 Điều 59 Bộ\r\nluật dân sự quy định: Người thân thích của người được giám hộ có trách nhiệm\r\ncử người đại diện làm người giám sát việc giám hộ để theo dõi, đôn đốc, kiểm\r\ntra người giám hộ trong việc thực hiện việc giám hộ...Theo quy định trên,\r\nngười giám sát việc giám hộ không phải là người trực tiếp bảo vệ quyền, lợi ích\r\nhợp pháp của người mất năng lực hành vi dân sự và không được BLTTDS quy định là\r\nngười tham gia tố tụng nên Tòa án không đưa người giám sát việc giám hộ tham\r\ngia tố tụng và không cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho họ.
\r\n\r\n12. Hiểu thế nào là “quyết\r\nđịnh cá biệt” quy định tại khoản 1 và 2 Điều 32a\r\nBLTTDS ? “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”\r\ncó phải là quyết định cá biệt không ? Khi đương sự yêu cầu hủy giấy chứng nhận\r\nquyền sử dụng đất thì có bắt buộc phải đưa UBND có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận\r\nquyền sử dụng đất tham gia tố tụng không ?
\r\n\r\nTheo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều\r\n2 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 hướng\r\ndẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS thì “quyết định cá biệt”\r\nlà: “quyết định hành chính được quy định tại Khoản 1 Điều 28\r\nLuật Tố tụng hành chính và hướng dẫn tại Điểm a và b Khoản\r\n1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng\r\nThẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố\r\ntụng hành chính” . Như vậy, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không phải\r\nquyết định cá biệt mà Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới là\r\nquyết định cá biệt. Trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nếu\r\nđương sự có đơn yêu cầu Tòa án hủy quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng\r\nđất có liên quan trong vụ án thì Tòa án phải gửi thông báo cho UBND ra quyết định\r\ncấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó tham gia tố tụng theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT hướng dẫn\r\nthi hành Điều 32a BLTTDS.
\r\n\r\n\r\n\r\nĐiểm g Khoản 2 Điều 58 BLTTDS\r\nquy định khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây: “g)\r\nTự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”. Theo quy định trên, người\r\ncó quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền từ chối quyền lợi nhưng không được từ\r\nchối nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp họ chuyển nghĩa vụ cho nguyên đơn, bị\r\nđơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác một cách tự nguyện, không trái\r\npháp luật và đạo đức xã hội thì phải được bên nhận thực hiện nghĩa vụ đồng ý\r\n(theo Khoản 2 Điều 374 BLDS nghĩa vụ dân sự chấm dứt nếu\r\ncác bên thỏa thuận được với nhau) khi đó Tòa án chấp nhận không đưa họ vào tham\r\ngia tố tụng.
\r\n\r\nTrường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan\r\nkhông có đề nghị gì về quyền lợi và nghĩa vụ của họ thì Tòa án vẫn phải đưa họ\r\nvào tham gia tố tụng theo Điều 58 và Điều 61 BLTTDS nếu họ\r\ncó liên quan đến quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn hoặc bị đơn.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định tại Khoản 1 Điều 62\r\nBLTTDS: “Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà\r\nquyền, nghĩa vụ tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng”.\r\nTheo đó, có thể hiểu là trường hợp nguyên đơn đang tham gia tố tụng chết thì chỉ\r\ncần một người trong số những người có quyền thừa kế tài sản của nguyên đơn đồng\r\ný tiếp tục khởi kiện thì Tòa án phải tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục\r\nchung.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo Điều 102 BLTTDS quy định\r\ncác biện pháp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó, Khoản\r\n6 Điều 102 BLTTDS quy định về việc kê biên tài sản đang tranh chấp; Khoản 7 Điều 102 BLTTDS quy định về việc cấm chuyển dịch về\r\ntài sản đối với tài sản đang tranh chấp; Khoản 8 Điều 102\r\nBLTTDS quy định về việc cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.\r\nTheo các quy định trên, Tòa án chỉ được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối\r\nvới tài sản đang có tranh chấp nhằm mục đích để giải quyết yêu cầu cấp bách của\r\nđương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại\r\nkhông thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
\r\n\r\nTrường hợp quyền sử dụng đất đã được chuyển giao\r\ncho bên thứ ba bằng hợp đồng công chứng hợp pháp nhưng tài sản này đang có\r\ntranh chấp và có căn cứ theo quy định của Điều 108 và Điều 109\r\nBLTTDS thì Thẩm phán có thể xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối\r\nvới quyền sử dụng đất đó.
\r\n\r\n\r\n\r\nNếu có căn cứ xác định tài sản mà vợ chồng đã phân\r\nchia trong thời kỳ hôn nhân và họ không có nghĩa vụ đối với người đang khởi kiện\r\nthì trong quá trình giải quyết yêu cầu của người khởi kiện Tòa án không được áp\r\ndụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đó (trừ trường hợp có căn cứ\r\nchứng minh việc phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân nhằm trốn tránh nghĩa\r\nvụ trong giao dịch dân sự).
\r\n\r\n\r\n\r\nKhoản 1 Điều 29 Nghị quyết số\r\n05/2012/NQ-HĐTP quy định “1. Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm\r\nkhông quá 30 ngày, kể từ ngày HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa. Nếu phiên tòa\r\nxét xử một vụ án bị hoãn nhiều lần, thì thời hạn của mỗi lần hoãn phiên tòa\r\nkhông được quá giới hạn cho phép là ba mươi ngày, kể từ ngày HĐXX ra quyết định\r\nhoãn phiên tòa của lần đó. Thời gian hoãn phiên tòa không tính vào thời gian\r\nchuẩn bị xét xử quy định tại Điều 179 BLTTDS và được hướng\r\ndẫn tại Điều 14 của Nghị quyết này”. Vì vậy, Tòa án hoãn phiên tòa nhiều lần\r\nvới thời gian cộng lại hơn 03 tháng thì không vi phạm nhưng hoãn một lần với thời\r\ngian hơn 03 tháng mà chưa mở lại phiên tòa là vi phạm thời hạn hoãn phiên tòa\r\ntheo quy định tại Điều 208 BLTTDS (tham khảo Điều\r\n29 của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP).
\r\n\r\n18. Hiểu thế nào là “những\r\ntrường hợp khác” thuộc các căn cứ hoãn phiên tòa theo quy định tại\r\nĐiều 208 BLTTDS ?
\r\n\r\nCác trường hợp khác được hoãn phiên tòa theo quy định\r\ncủa bộ luật này, được hiểu là ngoài các trường hợp cụ thể được hoãn phiên tòa\r\ntheo quy định tại Khoản 1 Điều 208 BLTTDS thì Hội đồng xét\r\nxử không được quyết định hoãn phiên tòa nếu không có căn cứ khác được quy định\r\ntrong BLTTDS. Chính vì vậy, Khoản 4 Điều 29 Nghị quyết số\r\n05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 quy định: “Hội đồng xét xử không được\r\nhoãn phiên tòa vì lý do tại phiên tòa đương sự yêu cầu hoãn phiên tòa để nhờ\r\nngười bảo vệ quyền và ích hợp pháp của đương sự hoặc để ủy quyền cho khác tham\r\ngia tố tụng thay mình”.
\r\n\r\n19. Đối với trường hợp bác\r\nđơn yêu cầu chia thừa kế thì tính án phí theo Khoản\r\n1 Điều 131 BLTTDS hay áp dụng theo Điều 12 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/06/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân\r\ndân tối cao ?
\r\n\r\nTheo Khoản 1 Điều 131 BLTTDS: “Đương\r\nsự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ\r\ntrường hợp được miễn nộp án phí sơ thẩm hoặc không phải nộp án phí sơ thẩm”.\r\nTuy nhiên, Điều 12 của Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày\r\n13/6/2012 hướng dẫn: “Khi các bên đương sự không xác định được phần tài sản\r\ncủa mình hoặc người xác định phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, phần\r\ndi sản của mình trong khối di sản thừa kế là khác nhau và có tranh chấp thì mỗi\r\nbên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần\r\ntài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối tài sản chung hoặc trong khối di\r\nsản thừa kế. Đối với phần Tòa án bác đơn yêu cầu thì người yêu cầu chia tài sản\r\nchung, tài sản thừa kế không phải chịu án phí sơ thẩm”. Do vậy, trường hợp\r\nTòa án bác đơn yêu cầu chia thừa kế thì tính án phí theo Điều\r\n12 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/06/2012 là đúng.
\r\n\r\n\r\n\r\nĐiều 24 Pháp lệnh án, lệ phí Tòa án\r\nquy định: “2. Vụ án dân sự không có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của\r\nđương sự không phải là một số tiền hoặc không thể xác định được giá trị bằng một\r\nsố tiền cụ thể; 3. Vụ án dân sự có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu\r\ncủa đương sự là một số tiền hoặc tài sản có thể xác định được bằng một số tiền\r\ncụ thể”.
\r\n\r\nKhoản 2 Điều 17 Nghị quyết số\r\n01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh\r\nvề án phí, lệ phí Tòa án: “Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản thì\r\nphân biệt như sau: a) Trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu tài sản mà Tòa án\r\nkhông xem xét giá trị, chỉ xem xét quyền sở hữu tài sản của ai thì đương sự phải\r\nchịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch; b)\r\nTrường hợp tranh chấp về quyền sở hữu tài sản mà Tòa án phải xác định giá trị\r\ntài sản hoặc xác định quyền sở hữu theo phần thì đương sự phải chịu án phí dân\r\nsự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án có giá ngạch đối với phần giá trị mà\r\nmình được hưởng”. Vận dụng hướng dẫn trên, trường hợp Tòa án giải quyết vụ\r\nán tranh chấp quyền sử dụng đất mà phải xem xét quyền sử dụng đất thuộc về ai\r\nvà phải xác định giá trị quyền sử dụng đất đang tranh chấp bằng số tiền cụ thể\r\n(thông qua định giá hoặc thỏa thuận giá trị) thì Tòa án áp dụng án phí dân sự\r\nsơ thẩm như trường hợp vụ án có giá ngạch.
\r\n\r\n\r\n\r\nTại Khoản 4 Điều 17 Nghị quyết\r\n01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 hướng dẫn: “ Trường hợp tranh chấp hợp đồng\r\nmua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, một bên yêu cầu trả tiền đặt\r\ncọc và phạt cọc, một bên chấp nhận trả số tiền cọc đã nhận và không chấp nhận\r\nphạt cọc, mà Tòa án chấp nhận phạt cọc thì bên không chấp nhận phạt cọc phải chịu\r\nán phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch. Trường hợp Tòa án không chấp\r\nnhận phạt cọc thì bên yêu cầu phạt cọc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường\r\nhợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với phần phạt cọc”.
\r\n\r\nTrong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án phải căn cứ\r\nquy định của Điều 17 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày\r\n13/6/2012 để tính án phí trong từng trường hợp cụ thể.
\r\n\r\nII. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN\r\nTRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định tại Khoản 2 Điều 21\r\nBLTTDS, Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự có đối tượng\r\ntranh chấp là tài sản công. Mục a Khoản 2 Điều 7 Thông tư\r\nliên tịch số 04/2012/TTLT ngày 01/08/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối\r\ncao và Tòa án nhân dân tối cao (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 04)\r\nhướng dẫn “Tài sản công là tài sản thuộc hình thức sở nhà nước tại các cơ\r\nquan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức\r\nchính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính xã hội-nghề nghiệp, tổ chức\r\nxã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, được hình thành từ nguồn do ngân sách nhà\r\nnước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước”.
\r\n\r\nVí dụ: Vụ án dân sự tranh chấp về tài sản của cơ\r\nquan nhà nước mà tài sản đó được mua sắm từ nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp.\r\nTrong trường hợp này, Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm.
\r\n\r\nTheo quy định trên, Viện kiểm sát chỉ tham gia\r\nphiên tòa sơ thẩm khi đối tượng tranh chấp trong vụ án được xác định là tài sản\r\ncông. Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với vụ án tranh chấp\r\nmà chủ thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh giữa nhà nước và\r\ntư nhân, doanh nghiệp cổ phần hoặc các nông, lâm trường có vốn của nhà nước.
\r\n\r\n\r\n\r\nĐiểm 5 Khoản 27 Điều 1 Luật sửa đổi,\r\nbổ sung một số điều của Luật luật sư (công bố ngày 20/11/2012) quy định: “Cơ\r\nquan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước khác và tổ chức, cá nhân có trách nhiệm\r\ntạo điều kiện thuận lợi cho luật sư thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư khi\r\nhành nghề, không được cản trở hoạt động hành nghề của luật sư”.
\r\n\r\nĐể bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mỗi\r\ncơ quan, Khoản 3 Điều 8 Quy chế số 01/2011/QCPH/VKSTC-LĐLSVN\r\nngày 14/04/2011 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Liên đoàn luật sư Việt\r\nNam quy định: “Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Đoàn luật sư cùng cấp\r\ncăn cứ vào Quy chế này và tình hình thực tiễn để xây dựng quy chế phối hợp công\r\ntác trong phạm vi địa phương mình”.
\r\n\r\nVận dụng các quy định trên, trường hợp hồ sơ vụ án\r\ndân sự đã chuyển cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia phiên tòa, nếu luật\r\nsư có yêu cầu và xuất trình đủ các giấy tờ theo quy định thì Viện kiểm sát tạo\r\nđiều kiện cho luật sư nghiên cứu hồ sơ. Tuy nhiên, thời hạn nghiên cứu hồ sơ của\r\nViện kiểm sát chỉ được 15 ngày, nên khi xây dựng Quy chế phối hợp hoặc giải quyết\r\ncác trường hợp cụ thể, Viện kiểm sát cần phải xác định rõ thời gian luật sư\r\nnghiên cứu hồ sơ, không được cản trở hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát.
\r\n\r\n\r\n\r\nVề nội dung này, văn bản số 35/HD-VKSTC-V5 ngày\r\n29/11/2013 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 5) đã hướng dẫn: Theo Điều 273a BLTTDS, Điều 10 Thông tư liên tịch số\r\n04/2012/TTLT ngày 1/8/2012, tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên phát biểu\r\ný kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng,\r\nngười tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm;\r\nvề việc giải quyết đối với bản án, quyết định sơ thẩm hoặc một phần bản án, quyết\r\nđịnh sơ thẩm bị kháng cáo, bị kháng nghị. Như vậy, tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm\r\nsát viên không phát biểu ý kiến đối với những vi phạm pháp luật trong quá trình\r\ngiải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, nếu vi phạm đó không liên quan đến nội\r\ndung kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát. Những vi phạm đó có\r\nthể được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
\r\n\r\n\r\n\r\nNếu người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo và Tòa án\r\ncấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử theo Điểm b Khoản 1\r\nĐiều 260 BLTTDS. Như vậy, bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật\r\nkể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử. Nếu sau đó đương\r\nsự có đơn khiếu nại bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật và Viện kiểm sát thấy\r\nbản án sơ thẩm có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết mới\r\nthì phải báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét kháng nghị\r\ntheo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo Khoản 1 Điều 269 BLTTDS:\r\nTrước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện,\r\nbị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và\r\nđình chỉ giải quyết vụ án. Khoản 3 Điều 18 Nghị quyết số\r\n06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn Điều 269 BLTTDS\r\nnhư sau “Trường hợp đương sự có kháng cáo (bao gồm cả nguyên đơn) hoặc Viện\r\nkiểm sát có kháng nghị, nhưng trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm\r\nnguyên đơn rút đơn khởi kiện, thì Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo\r\nquy định tại Khoản 1 Điều 269 BLTTDS”. Trong trường hợp\r\nnày, nếu Viện kiểm sát kháng nghị về nội dung mà nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện\r\nthì Viện kiểm sát rút kháng nghị; nếu Viện kiểm sát kháng nghị về vấn đề án phí\r\nthì Viện kiểm sát yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm tiếp tục xem xét kháng nghị\r\ncủa Viện kiểm sát, bởi vì khi đó Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải quyết định đương\r\nsự nào phải chịu án phí và mức án phí theo quy định tại Khoản 4\r\nĐiều 18 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP.
\r\n\r\n\r\n\r\nTheo quy định tại Điều 9 Thông tư\r\nliên tịch số 04/2012/TTLT ngày 01/08/2012, Kiểm sát viên tham gia phiên họp\r\nxét kháng cáo quá hạn phát biểu quan điểm về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận\r\nkháng cáo quá hạn. Trường hợp Viện kiểm sát đề xuất quan điểm chấp nhận kháng\r\ncáo quá hạn nhưng Tòa án không chấp nhận kháng cáo quá hạn của đương sự thì căn\r\ncứ Điều 284 BLTTDS báo cáo Viện kiểm sát có thẩm quyền xem\r\nxét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định giải quyết kháng\r\ncáo quá hạn của Tòa án.
\r\n\r\nTrường hợp tại phiên họp xét kháng cáo quá hạn, Viện\r\nkiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo quá hạn nhưng Tòa án ra quyết định\r\nchấp nhận kháng cáo quá hạn thì Viện kiểm sát vẫn phải tham gia phiên tòa phúc\r\nthẩm và tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về tính có căn cứ, hợp\r\npháp của kháng cáo quá hạn của đương sự.
\r\n\r\n\r\n\r\nTrường hợp bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực\r\npháp luật bị Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ\r\ntục tố tụng (Ví dụ Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất chưa\r\nqua hòa giải ở cơ sở) hoặc do vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật\r\n(chia tài sản chung không đủ điều kiện theo Điểm a Tiểu mục 2.4\r\nMục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa án\r\nnhân dân tối cao) thì Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ\r\nnội dung của quyết định giám đốc thẩm để giải quyết lại vụ án. Nếu Tòa án không\r\ntiếp tục giải quyết thì căn cứ quyết định giám đốc thẩm và quy định của BLTTDS,\r\nViện kiểm sát kiến nghị Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
\r\n\r\nTrên đây là một số vấn đề Viện kiểm sát địa phương\r\nbáo cáo vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết\r\ncác vụ, việc dân sự; Vụ 5 tổng hợp và hướng dẫn một số nội dung để các Viện kiểm\r\nsát địa phương nghiên cứu vận dụng trong thực tiễn./.
\r\n\r\n\r\n\r\n
\r\n
| \r\n \r\n TL. VIỆN TRƯỞNG | \r\n
\r\n\r\n
File gốc của Hướng dẫn 21/HD-VKSTC-V5 năm 2015 về một số vướng mắc trong thực hiện Bộ Luật tố tụng dân sự do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành đang được cập nhật.
Hướng dẫn 21/HD-VKSTC-V5 năm 2015 về một số vướng mắc trong thực hiện Bộ Luật tố tụng dân sự do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Viện kiểm sát nhân dân tối cao |
Số hiệu | 21/HD-VKSTC-V5 |
Loại văn bản | Hướng dẫn |
Người ký | Nguyễn Văn Quảng |
Ngày ban hành | 2015-04-10 |
Ngày hiệu lực | 2015-04-10 |
Lĩnh vực | Thủ tục Tố tụng |
Tình trạng | Còn hiệu lực |