BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤC | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 417-NĐ | Hà Nội, ngày 10 tháng 09 năm 1946 |
BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤC
Chiếu theo sắc lệnh số 147 ngày 10 tháng 8 năm 1946 về sự tổ chức và chương trình đại cương bậc học cơ bản;
Sau khi Hội đồng Cố vấn học chính đã thảo hiệp.
NGHỊ ĐỊNH
Đ.L BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC GIA |
LỜI NÓI ĐẦU VỀ
Muốn đạt được mục đích đó, chương trình đức dục không thể là một mớ bài luân lý để nhồi vào sọ đứa trẻ những lý thuyết suông về những điều thiện điều ác; những bài học học thuộc lòng (rồi đọc như vẹt). Trái lại thầy giáo phải chú trọng vào sự thực hành để rèn các tập quán cần thiết cho một trẻ em bậc tiểu học, để khi ra khỏi trường em đó đã thành người có tư cách. Vì lẽ đó nên 2 lớp dưới (lớp tư và lớp ba), không phải cho bài lý thuyết, thầy giáo tùy lúc, tùy hoàn cảnh, tùy trạng thái, tùy những việc xảy ra trong và ngoài học đường mà gây cho trẻ em những tập quán tốt. Lên 2 lớp trên (lớp nhì và lớp nhất), thì học trò đã nhớn nên có thể thêm phần luận thuyết để chúng hiểu về lý do những hành vi của chúng, nhưng cũng như ở hai lớp dưới ông thầy cũng không thể nhãng bỏ được việc rèn luyện các tập quán (những tập quán ghi trong chương trình đức dục thực hành).
a) Khi khuyên bảo học trò tập một nết hay thì kiêng dùng chữ “phải” thí dụ: “em phải giữ gìn sách vở sạch sẽ”. Tại sao? Tại “phải” là bắt buộc mà đối với trẻ em thì những cái bắt buộc là những cái chúng không thích, trước mặt mình chúng miễn cưỡng phải theo, nhưng vắng mặt mình thì đâu lại hoàn đấy. Vậy thày giáo nên nói “em muốn đẹp thì giữ sách vở cho sạch sẽ vì có sạch sẽ mới đẹp”.
c) Những chuyện vặt thường ngày, những thí dụ rút ở sự thực hay ở chuyện danh nhân trong xử và trong sử sẽ là những tài liệu làm cho học trò nhận thấy giáo lý một cách rõ ràng, và sẽ có cái công kích thích lòng trẻ.
đ) Thày giáo nên giao thiệp mật thiết với gia đình để xem xét hành vi của trẻ lúc ở nhà và hợp tác với gia đình xây nền đức dục cho con trẻ. Hay nhất là tạo cho đoàn trẻ một hoàn cảnh tốt đẹp để chúng tự nhiên hướng về điều thiện và chính nghĩa.
g) Sau hết, các khẩu hiệu cũng giúp cho sự rèn luyện đức dục được nhiều, vậy thày giáo nên lợi dụng.
I. CHƯƠNG TRÌNH ĐỨC DỤC THỰC HÀNH
Thực hành – vui vẻ - sạch sẽ - ăn nói lịch sự - lễ phép (gọi dạ, bảo vâng, biết chào, biết xưng hô, biết cám ơn) – bạo dạn – vệ sinh chung (không nhổ bậy, không đại tiểu bậy, không đổ rác bậy…) vệ sinh về ăn uống (không ăn quà – không uống nước lã…) Ham thể dục.
Chương trình lớp tư. Thêm: đúng giờ, trật tự - thẳng thắn (không lấy của người – được vật gì của ai không giữ làm của mình). Yêu thương mọi người (không chơi ác, giúp đỡ lẫn nhau, không nói xấu…) – Yêu thương loài vật (vô cớ không đánh chó, đánh mèo, không bắt hay giết các con vật nhỏ…).
Chương trình hai lớp trên.
Trọng lời hứa trọng danh dự (không để cho bị mắng, bị phạt, ganh đua cho bằng anh em…) Chí tự lập (không chép bài của anh em…) Không cờ bạc (đánh đáo, đánh bài ăn tiền …) Tiết kiệm.
Chương trình ở lớp trên.
Cước chú: Trong bản chương trình đức dục thực hành chỉ kể những đức tính mà ông thày có thể hàng ngày rèn luyện cho trẻ trong phạm vi học đường. Còn những đức tính khác nói trong phần đức dục lý thuyết mà không kể trong bản chương trình đức dục thực hành, ông thày tùy theo trường hợp, tùy theo hoàn cảnh mà rèn luyện cho trẻ. Về việc thực hành ở những trường có nhiều giáo viên, các ông giáo phải đồng ý với nhau để cho việc rèn luyện được nhất trí. Thí dụ trong việc dạy về lễ phép các ông giáo phải đồng ý về cách xưng hô, cách xử trí, cách chào hỏi của học trò tất cả các lớp.
LỚP NHÌ.
Bổn phận đối với ông bà cha mẹ. Bổn phận đối với anh chị em. Trách nhiệm huynh trưởng. Bổn phận đối với họ hàng. Bổn phận đối với người giúp việc.
Bổn phận đối với thày: vâng lời, tôn trọng, yêu mến, biết ơn. Bổn phận đối với bạn: yêu mến nhau, giúp đỡ lẫn nhau – bênh vực kẻ yếu. Bổn phận đối với thày và bạn sau khi thôi họcl
Lễ phép. Giúp đỡ kẻ khó, kẻ tàng tật, giúp đỡ mọi người. Xã giao ở ngoài đường, ở nơi đông người. Trọng lời hứa. Khiêm tốn.
Sạch sẽ - thứ tự - điều độ - luyện tập thân thể. Biết phòng xa và tiết kiệm. Tập sống giản dị. Tránh thói xa hoa.
1) Bổn phận đối với bản thân.
2) Bổn phận đối với mọi người.
Công bằng, trọng tính mệnh, tài sản, danh dự của người khác.
3) Bổn phận đối với tổ quốc.
4) Bổn phận đối với nhân loại.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ
Lên lớp Nhì và lớp Nhất, trẻ em đã hiểu đôi chút, học đường có thể trau giồi cho chúng một ít trí thức dản dị về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, cách tổ chức của nước dân chủ cộng hòa cùng một vài vấn đề xã hội như là đời sống mới và hợp tác xã. Giáo viên vẫn tiếp tục công cuộc làm ở lớp dưới nhưng giảng thêm cho chúng những điều cần biết về mấy vấn đề kể trên. Trong sự giảng giậy, giáo viên sẽ cố sức dùng phương pháp cụ thể và lợi dụng các trường hợp thuận tiện để làm cho học sinh hiểu rõ quyền lợi của mình ở trong nước dân chủ cộng hòa và nghĩa vụ của mình đối với Quốc gia và dân tộc.
LỚP TƯ. – Không có.
LỚP NHÌ .
Bổn phận người công dân ở trong làng. Tham dự vào các việc công ích trong làng và các làng lân cận. Trọng của công. Giữ vệ sinh chung. Cách xử trí ở chỗ đông người. Chỉnh thể nước dân chủ cộng hòa. Bổn phận và quyền lợi của một người dân nước dân chủ công hòa.
Cách tổ chức nước Việt
LỜI NÓI ĐẦU VỀ
Từ nay, tất cả các khoa học đều dạy bằng tiếng Việt, vậy mục đích trực tiếp của khoa Việt ngữ là làm cho học trò có một công cụ cần thiết trong sự học tập.
Chương trình Việt ngữ gồm có:
2) Tập đọc và học thuộc lòng,
4) Tập làm văn,
Về môn ngữ vựng, có nhiều người sợ dạy nhiều chữ thường thấy và thường nghe làm trẻ chán và phụ huynh chúng coi thường những chữ học tập đều ở phạm vi đời sống hàng ngày, nhưng phần đông nói chưa được đúng, viết chưa được thạo vậy ta không nề hà gì mà không cho các em học cho kỹ, dùng cho đúng. Thày giáo nên tìm những tiếng thường dùng trong đời thực tế mà dạy cho học trò để chúng có đủ chữ dùng. Lên lớp nhất, nên để mỗi tháng một kỳ dạy riêng những tiếng mượn ở nước ngoài, những thuật ngữ, tân ngữ, những danh từ Việt Hán để cho học trò đọc các công văn, báo chí và sách mới có thể hiểu được.
Về chính tả và ám tả nên để ý từng chữ, bắt viết thật rõ rang và cũng như tập đọc phân biệt những chữ ch, tr, x, s, d, gi, …
Về việc tập làm văn, tuy ở chương trình lớp tư chưa có, nhưng trong những giờ ngữ vựng và tập đọc thày giáo cũng nên tập cho học trò nói cho quen. Ở lớp nhất, về các bài phê bình, giải thích, thày giáo nên để cho học trò tự tìm và làm lấy, đừng gà hộ, vì làm như thế là làm mất cả tính của trẻ, mà mình lại không thể hiểu được tính tình của chúng.
Muốn sự dạy Việt ngữ được dễ tấn tới, thày giáo nên nhớ:
2) Chương trình Việt ngữ không phải đứng tách hẳn với chương trình của các môn học khác như đức dục, công dân giáo dục, lịch sử, địa lý…
I. Ngữ vựng
Gia đình: Ông bà, cha mẹ, anh chị em, cô, dì, chú bác, cậu mợ, công ơn cha mẹ, bổn phận đối với các người trong gia đình, cách xưng hô.
Quần áo: Các thứ đồ rệt thường dùng (vải lụa …) Các thứ quần áo Việt
Ăn uống: Các thứ đồ ăn thường. Các thứ đồ uống thường. Các đồ dùng trong sự ăn uống. Vệ sinh về ăn uống.
Thời giờ: Tuần lễ, tháng, năm, 4 mùa, thời tiết (nắng, mưa, ấm, mát, nóng, rét) Các đồ dùng để biết ngày giờ: đồng hồ, lịch.
Thân thể: Các bộ phận bên trong, bệnh tật.
Ăn uống: Các thứ đồ ăn. Các thứ đồ uống. Cách làm các thức ăn, uống (xào, nấu, ninh…)
Súc vật: Dã thú, Ác thú. Chim. Cá. Rừng, núi. Chăn nuôi. Săn bắn. Bế. Nghề đánh cá.
Thành thị: Nhà cửa, phố xá, xe cộ.
Thương mại: Cửa hàng. Chợ, hàng hoá. Cách buôn bán. Các đồ dùng về đo lường. Cân.
Vũ trụ: Trời đất. Các hiện tượng trong trời đất. Thời tiết. Các khí cụ để biết thời tiết.
Lớp Nhất. Sự hoạt động về thể chất: Các môn thể thao.
Kỹ nghệ và thương mại: Đại kỹ nghệ. Tiểu kỹ nghệ. Thủ công nghệ. Xuất cảng. Nhập cảng. Hải cảng. Ngân hàng. Tiền tệ.
Binh bị: Quân nhân. Võ khí. Cơ quan binh bị. Chiến tranh. Hòa bình.
Lớp Tư. - Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng chữ một, từng âm tiết một, từng tiếng một, rồi đến câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau, học trò đã phải biết đọc từng bài ngắn. Cho học thuộc lòng những câu phương ngôn và ca dao có ý nghĩa, hoặc có tương quan đến chương trình ngữ vựng. Trong lúc học trò chưa biết đọc, biết chép bài thì thày giáo nên dùng lối dậy truyền khẩu mà tập cho học trò lặp đi lặp lại những câu nên nhớ, những bài học thuộc lòng.
Lớp Nhất. - Tập đọc, học thuộc lòng những bài trích ở tác phẩm của các văn sĩ thi sĩ và các nhà chí sĩ hiện đại, tập cho quen các lối văn để tập cho học trò phê bình giải thích. Đọc những tác phẩm khuynh hướng về công đức, về chủ nghĩa quốc gia, về đời sống tập thể, về chế độ dân chủ cộng hoà.
Lớp Tư. – Văn phạm (không có)
Lớp Ba. – Văn phạm (không có)
Câu hỏi: giải nghĩa những chữ thông thường, tìm ý nghĩa chính của bài chính tả, phân tích các tiếng và các mệnh đề.
Lớp Tư. – Không có.
1) lấy những tiếng đã học trong ngữ vựng mà diễn vào những câu thiếu.
3) tập đặt câu với những tiếng đã học về ngữ vựng (làm miệng rồi mới làm bài viết).
Lớp Nhì.- Tả cảnh, tả người, kể chuyện, viết thư rất dễ hợp với đời sống hàng ngày của học trò.
Lớp Nhất. - Nửa năm đầu, ôn lại các thể văn đã tập ở lớp nhì.
V. Viết tập
Lớp Ba. - Tập viết những tiếng, những câu ngắn lớn nửa dòng.
Lớp Nhì. - Tập viết những chữ thường và những chữ hoa lớn cả dòng, viết những câu ngắn có ý nghĩa.
Lớp Nhất. – Cũng như chương trình lớp nhì, thêm chữ rông.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CHƯƠNG TRÌNH TOÁN PHÁP
1) chỉ chọn lấy những điều cốt yếu cần cho đời sống mà dậy cho học trò,
Theo hai nguyên tắc ấy, chương trình sẽ gồm những điều cần thiết cho đời sống và các bài dạy toán pháp sẽ có liên lạc mật thiết với công việc hàng ngày. Những con số dùng phải là những danh số thường gặp chung quanh mình; những ti dụ, đề mục đều phải lấy trong sự kinh nghiệm hàng ngày. Ở các lớp bé, cần có nhiều vật nhỏ như hột ngô, hột đậu, thẻ tre cho trẻ đếm.
Ở tất cả các lớp, thầy giáo nên chú trọng về tính nhẩm, tập làm sao cho học trò làm thật nhanh, thật đúng, thì khi ra đời mới có ích. Vậy nên chia chương trình tính nhẩm như sau đây:
Lên lớp Nhì, nên dạy tính nhẩm có phương pháp đủ cả bốn phép cộng, trừ, nhân, chia.
Về đo lường và hình học, nên cho thực hành sát sự thực cho quen, thí dụ học về cân thì cho cân thật, học về đo ruộng thì cho ra vườn ra ruộng đo thật.
Tập viết những số từ 1 đến 100.
Gấp đôi, một nửa. Tiền tệ nước nhà.
Lớp Ba. - Tập đếm các đồ vật từ 100 đến 1000 (đếm ngược và đếm xuôi). Tập viết những số từ 100 đến 1000.
Học bảng cộng.
Một nửa, một phần ba, một phần tư.
Làm những tính đố nhỏ có tính cách thiết hực thuộc về cộng, trừ 3 con số.
Cộng trừ các số nguyên và số lẻ,
Nhân, chia các số nguyên và số lẻ.
Tính nhẩm về bốn phép có phương pháp.
Học các đường, các góc, hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác, hình chữ nhật lệch, hình thang, hình thoi.
Lớp Nhất. – Tính nhẩm có phương pháp.
Phân số và cộng, trừ, nhân, chia về phân số.
Tính tiền đặt lãi.
Tính cổ phần.
Thước khối.
Đường tròn, hình tròn, hình vành khăn, hình nhiều cạnh, khối vuông, khối chữ nhật, khối lăng trụ, khối viên trụ, khối ống, khối tháp, khối chóp, khối tròn.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ KHOA HỌC THƯỜNG THỨC
Vậy những bài khoa học thường thức phải có tính cách cụ thể nghĩa là dạy một hiện tượng gì, một con vật gì hay một đồ vật gì, muốn cho bài ấy thật bổ ích, đứa trẻ phải đứng trước hiện tượng ấy, phải có con vật, cái cây hay đồ vật ấy để nhận xét; muốn cho có sẵn tài liệu, mỗi trường cần có một học cụ khố thật đầy đủ.
Bài khoa học thường thức không những chỉ dạy ở trong lớp, nhiều khi giảng ở ngoài giời, nhất là trong những buổi học du ngoạn.
Câu hỏi phải rõ ràng cho trẻ dễ hiểu, phải cho đích sác cho trẻ để ý đến những điều quan hệ và có thứ tự cho trẻ có cái cảm giác đã có tiến bộ trong đường phát minh.
Lớp Tư. – Không có bài. Chỉ có những giờ để học trò nhận xét về:
b) những đồ vật trong nhà,
d) các giống vật thường,
Lớp Ba. – Thân thể người ta và các bộ phận
Bên trái, bên phải, luật đi đường.
Phương hướng, các mùa.
Lớp Nhì. – Thân thể người ta: ngũ quan, sự tiêu hoá, sự hô hấp, sự tuần hoàn, sự bài tiết, thần kinh hệ.
Thực vật: các bộ phận của cây, những cây có ích, quả đất, bầu giời, mặt giời, mặt giăng, sao, nhật thực, nguyệt thực, gió, bão, mây, mưa, sương mù, nước thuỷ triều, nước lũ, lụt.
Lớp Nhất. – Khoáng vật: đá, đất sét, cát, đá vôi, than đá, muối, dầu hoả.
Trọng lực, trọng lượng, nguyên tắc đòn bẩy, các thứ câ.
Nước, áp lực của nước, các vật nổi (thuyền, bè, tầu thuỷ), nguyên tắc bình thông nhau.
Hơi nóng, sự nở của các vật: hàn thử biểu.
Điện, sấm, chớp, đèn điện, xe điện, điện báo, điện thoại, chuông điện, vô tuyến điện, cột thu lôi.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CANH NÔNG, CHĂN NUÔI KỸ NGHỆ, THUỶ LÂM
Các trường tỉnh nên chú trọng về công nghệ.
Các trường thượng du nên chú trọng về thuỷ lâm.
Các môn này nên dạy bằng cách thực hành và cho học trò đi xem để nhận xét tận nơi.
NUÔI, KỸ NGHỆ, THUỶ LÂM
Chăn nuôi.- Cách chăn nuôi và săn sóc các gia súc như trâu, bò, ngựa, lợn, gà, vịt, chim bồ câu, thỏ - Cách nuôi tằm – Cách làm chuồng cho các gia súc.
Công nghệ miền bể. – Cách đánh cá – Cách làm muối – Cách làm nước mắm – Cách làm các thứ mắm – Cách ướp cá.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CHƯƠNG TRÌNH VỆ SINH
Muốn giữ được sức khoẻ cần hai điều cốt yếu:
b) đề phòng các bệnh tật.
Khoa vệ sinh không phải chỉ là một khoa học để mà biết về khoa này, sự thực hành là một sự bắt buộc.
Khi thực hành, cần chỉ rõ cách thức và xét từng li từng tí để tập cho trẻ tính thứ tự và cẩn thận.
Từ lớp Hai trở lên đã có bài và các bài phải ăn ý mật thiết với chương trình cách trí. Thí dụ: bài cách trí nói về tiêu hoá, tuần hoàn … thì vệ sinh tiêu hoá, tuần hoàn dạy ngay vào đấy.
Vệ sinh giúp cho sự cải tạo nòi giống và làm cho đời người được sung sướng hơn nhờ có một sức khoẻ đầy đủ. Vì lý do ấy, khoa vệ sinh là một khoa rất quan trọng trong chương trình vậy.
Lớp Tư. – Không có bài và giờ nhất định, hoàn toàn thực hành vào trường hợp thuận tiện để gây những tập quán về vệ sinh.
Quần áo - Quần áo giữ cho sạch sẽ. Quần áo bẩn bắt thay ngay.
Nhà cửa – Không nhổ bậy, không bôi bẩn ra tường, viết lên bàn ghế.
Chung quanh mình – Không ném giấy, rác.
Thân thể - Thở bằng mũi, không ngoáy mũi bằng ngón tay, không ngoáy tai bằng các vật cứng, tắm và kỳ cọ, không tắm và không chạy nhẩy lúc ăn no, có mồ hôi không đứng trong luồng gió và không tắm, đọc không được để sách gần mắt, ngủ dậy sớm.
Ăn uống – Nhai kỹ để ăn, không ăn no quá, không ăn đồ ăn sống hay thiu, uống nước lã đã đun sôi.
Lớp Nhì.- Có bài và có giờ nhất định.
Quần áo - Quần áo phải thế nào, cách dặt quần áo, cách giữ gìn quần áo.
Nhà cửa – Nhà cửa phải thế nào, cách giữ nhà cửa cho hợp vệ sinh.
Chung quanh mình – Không đổ rác, quẳng sác súc vật chết xuống hồ, ao, sông, bên hay gần nhà cửa.
Lớp Nhất. – Các bệnh thường: nhức đầu, sổ mũi, đau bụng, đầy bụng, đi ngoài, cảm thường. Ký sinh trùng và vi trùng.
Cứu thương và cấp cứu: Bỏng, bụi vào mắt, chảy máu cam, chết ngạt, chết đuối, ngắt, thở nhân tạo, đứt mạch máu, bong gân, trẹo chân, sai khớp xương, gẫy xương, rắn cắn, chó dại cắn, rửa và băng bó các vết cáng, khiêng người bị thương.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CHƯƠNG TRÌNH LỊCH SỬ
- gốc tích nước Việt
- làm phận sự người công dân với tổ quốc.
Nam cần biết nước Việt
Dạy sử phải bỏ hẳn lối cũ chuyên về tiểu sử các vua chúa. Trái lại, chỉ nên chú trọng đến sự nghiệp các vị anh hùng có công với đất nước và cần làm nổi bật tình hình xã hội trong từng thời đại một về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá cùng sự tranh đấu của quần chúng và ảnh hưởng của các cuộc tranh đấu ấy đối với sự tiến triển của dân tộc;
Ở lớp tư và lớp ba, trí trẻ còn non nớt chưa có thể học hẳn lịch sử theo thời đại. Ở lớp tư thì kể các chuyện cổ tích, chuyện các bật có tiếng trong vùng, chuỵên các nhà khoa học, chuyện các cuộc thám hiểm. Lên lớp ba thì kể chuyện các danh nhân trong lịch sử, và nếu trong vùng có nhiều nơi cổ tích thì cho học trò đi thăm, vừa làm cho trẻ vui thích lại vừa làm cho chúng cảm thấy những việc dĩ vãng hơn là hiểu biết.
Lớp Ba - Chuỵên danh nhân.
1. Cậu bé đuổi giặc Ân: Phù đổng Thiên vương.
3. Cái nỏ thần: Mỵ Châu, Trọng Thuỷ.
Chuyện Lữ gia.
6. Đầu voi phất ngọn cờ vàng: Bà Triệu.
8. Ngọn sóng Bạch đằng: Ngô Quyền.
10. Châu chấu đá voi: Lý Thường Kiệt.
12. Ông vua thương người: Lý Thánh Tôn.
14. Vì nước quên thù riêng: Trần Hưng Đạo.
16. Lời thề sông Hoá: Trần Hưng Đạo.
18. Đục thuyền quân Nguyên: Yết Kiêu.
20. Ngồi đan sọt mà lo việc nước: Phạm Ngũ Lão.
22. Làm quỉ nước
Trần Nhật Duật.
25. Tước hầu đuổi giặc: Lê Đắc.
Chu Văn An.
28. Mười năm bình định giặc Minh: Lê Lợi.
30. Trả thù cho cha, rửa hận cho nước: Nguyễn Trãi.
32. Trận Đống Đa: Quang Trung.
34. Thà chết không bỏ thành: Hoàng Diệu.
36. Vua Yên thế: Hoàng Hoa Thám.
38. Người ông chung của trẻ em: Hồ Chí Minh.
Lớp Nhì. – Lịch sử.
Ảnh hưởng về văn hoá và chính trị của Bắc thuộc.
Giết 5 sứ quân: Đinh Tiên Hoàng.
Đánh Tống, đánh Chiêm, việc nội trị và công việc nhân đạo của nhà Lý.
Văn nôm và Hàn thuyên.
Vì lẽ gì nhà Hồ bị giết và nhà Minh đặt nền đô hộ ở nước ta?
Mười năm bình định: Lê Lợi.
Công việc xã hội của nhà Lê. Cớ sao nhà Lê mất nước về nhà Mạc.
Lớp Nhất. - Lịch sử
Công và tội của Trịnh và Nguyễn.
Những cái nhầm của các vua nối nghiệp Gia Long. Tình hình Việt
Phong trào cách mệnh và các cuộc khởi nghĩa: phong trào cần vương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Đông kinh nghĩa thục, phong trào xuất dưỡng: Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phau Chu Trinh, Vua Bãi sậy: cụ Tán Thuật, Thái Nguyên khởi nghĩa, Yên Bái khởi nghĩa,Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA LÝ
Ở lớp Tư, học trò còn bé, không cần có bài, trong những lúc thuận tiện và nhất là trong những buổi đi chơi, ông thày chỉ cho học trò cái ao, cái hồ, đường xá, sông cái, sông con, tả ngạn, hữu ngạn, cầu cống,… Những cái mắt thấy tai nghe sẽ in xâu vào trí nhớ. Những bài khô khan trừu tượng với những định nghĩa phiền phức, tối tăm làm cạn óc trẻ, rất có hại cho sự phát triển của trí khôn.
Từ lớp Ba giở lên đã có bài, song bao giờ cũng cho quan sát trước, rồi giải thích sau, cần dẫn học trò từ chỗ gần đến chỗ xa, từ chỗ dễ đến chỗ khó.
Dạy địa lý cũng như dạy các khoa học khác, không nên quên cái mục đích thiết thực. Những điều dạy sẽ phải có ích cho đời sống và phải có tính cách “ giáo dục công dân”. Học trò có hiểu địa lý nước mình thì mới biết rõ công khai thác của tiền nhân. Nhờ vậy lòng yêu nước yêu nòi lại càng được phát triển.
Nhưng trong những cuộc đi chơi, tuỳ theo địa phương,thầy chỉ và giảng cho học trò biết: ao, hồ, đầm, sông đào, sông cái, sông con, lụt, lạch, suối, bể, đảo, bến thuyền, bến tầu, đèn bể, bờ đê, đường đất, đường đá, đường dựa, ngõ, cầu, cống, đập, chợ, tha ma, nhà hàng, điểm canh, đồng bằng, ruộng, vườn, nương mạ, bãi, đường hoả xa, nhà ga, nhà giây thép, đường giây thép, đường điện thoại, đường tầu điện, núi, đèo, đồi, gò, thung lũng, rừng, miểu, hầm mỏ.
Lớp Nhất.- Ôn lại nước Việt
Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn độ.
Ngũ đại châu.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CHƯƠNG TRÌNH VẼ
Trẻ có khiếu vẽ ngay từ bé. Vậy nhà trường có bổn phận làm nẩy nở khiếu ấy theo nguyên tắc sau đây:
b) khoa vẽ phải có tính cách giáo dục.
Tính cách giáo dục. – Khoa vẽ, không phải chỉ là ứng dụng vào thực tế mà còn có mục đích làm nẩy nở trí quan sát và khiếu thẩm mỹ nửa. Vậy thì vẽ một đồ vật gì thì phải để đồ vật ấy trước mắt cho trẻ được tự do quan sát, phân tích, so sánh, nhận định mầu sắc. Sự quan sát ấy ông thầy cần hướng dẫn để cho có qui củ. Đồ vẽ cần là một thứ thông dụng lại có hình thể dễ coi thì trẻ vẽ mới thấy ham thích.
Nên cho học trò có nhiều dịp vẽ tự do cùng vẽ trong trí (có tô mầu càng hay) để gây cho chúng tính thích vẽ.
Vẽ theo đường ngoài mục đích giáo dục lại còn ứng dụng vào nghề nghiệp, nên ở các lớp lớn khoa này phải được chú ý đến một cách đặc biệt.
Lớp Tư. - Vẽ đường thẳng, đường song hành, đường gẫy.
Vẽ tự do.
Vẽ trong trí với các đường.
Vẽ tự do.
Lớp Nhì. - Vẽ các đường, các góc, các hình đã học ở lớp hình. Lấy những hình ấy mà vẽ trong trí.
Vẽ theo trí nhớ các con vật, các hoa quả, cây cỏ (cho học trò nhận xét trước vài hôm).
Vẽ có kích thước (échelle) các đồ vật thường.
Vẽ theo trí nhớ.
Vẽ phong cảnh.
LỜI NÓI ĐẦU VỀ CHƯƠNG TRÌNH THỦ CÔNG
1) luyện cho trẻ khéo tay.
3) rèn cho trẻ làm việc kỷ càng không cẩu thả,
Sự học thủ công lại có thể giúp cho trẻ trong việc chọn nghề về sau.
Muốn đạt những mục đích trên, thầy giáo nên:
b) cho làm những cái vừa sức trẻ vì cho làm khó quá, chứng không làm được, chúng sẽ chán nản, sinh ra lười biếng và nói dối.
d) khi bày cho học trò làm cái gì thì thầy giáo nên cùng làm, thầy làm và giảng trước, học trò theo sau.
e) bảo làm cái gì thì bắt làm thật xong mới thôi, dù xấu cũng không bỏ dở để tập cho trẻ quen tính bền gan.
h) làm cái gì có kích thước thì bắt làm thật đúng, đừng có cái lối hơi đúng hay vừa vừa để tập cho trẻ tính đúng mực.
Chải đầu, cắt móng tay, thắt nút quần, học sách vở, kẻ vở, kẻ dòng đôi, làm nút lọ mực, gấp tờ báo, cuốn kèn, nối dây, gấp các đồ chơi, cắt, trổ, đan.
Gói hàng, buộc gói.
Cắt, trổ, đan.
Nặn các thứ đồ chơi bằng đất, hoa, quả, lá.
Lớp Nhất. – Quét nhà, lau bàn ghế, lau bảng, lau cửa kính, rửa chai, rửa lọ.
Làm khung ảnh, lồng kính, lịch, cặp, giá giầy.
Đan phên, đan giế.
Nặn các súc vật và người.
Ở hai lớp cuối (lớp Ba và lớp Tư) chương trình học còn nhẹ, có nhiều thì giờ, nên trong thời khoá biểu có để dành riêng mỗi tuần mấy kỳ chơi; thầy giáo nên lợi dụng chỗ đó mà rèn luyện các giác quan, các khiếu hay các đức tính con trẻ.
Khi cho chơi, thầy giáo nên nói rõ cách chơi và luật chơi cho các trò hiểu để chơi khỏi nhầm và mới hăng.
Ngày nay, để dự vào công cuộc cải tạo giống nòi, các giáo viên phải cực lực tẩy trừ cái quan nhiệm sai lầm đối với thể dục, phải nhận chân cái địa vị quan trọng đặc biệt của môn ấy trong nền giáo dục mới của nước Việt Nam.
Ngoài mục đích chính, thể dục có ảnh hưởng tốt về trí dục và đức dục. Môn này làm cho tinh thần trẻ minh mẫn hơn, gây cho chúng được nhiều đức tính, lòng quả cảm, tinh thần kỷ luật, tinh thần tập thể.
Tập thể dục phải ở nơi thoáng khí rộng rãi. Khi tập, về mùa nực, trẻ phải cởi trần, chỉ được mặc quần đùi. Về mùa lạnh, lúc bắt đầu tập, đừng bắt trẻ cởi trần ngay. Tuy vậy, đừng để cho chúng mặc quần chung với áo dài hay thứ quần áo khác làm cho chúng cử động không được dễ dàng.
Bậc thứ nhất: từ 7 đến 9 tuổi;
Bậc thứ ba: từ 13 đến 16 tuổi,
1) khởi động 2/10 thì giờ toàn thể
3) hồi tĩnh 1/10 thì giờ toàn thể
Dưới đây tóm tắt các điều cần thiết mà các giáo viên phải biết trong việc dạy thể dục:
2) Bài tập hợp với sức của học trò. Tập quá sức thì có hại, cho tập nhẹ quá thì vô ích.
4) Lần lượt tập các cử động của thân thể.
6) Bắt đầu tập nhẹ, rồi tập nặng dần lên sau lại cho tập nhẹ dần.
8) Các cử động phải làm cho mềm mại. Tránh lỗi tập có tính cách máy móc.
10) Sau mỗi buổi tập nên cho học trò tắm hay lau mình.
XV. HOẠT ĐỘNG THANH NIÊN VÀ PHÉP HÀNG ĐỘI
Đoàn phải có tên đoàn, bài hát chính thức của đoàn, châm ngôn của đoàn, luật lệ của đoàn, và nếu có thể được một dấu hiệu cho các đoàn sinh đeo. Trong đoàn lại có phó đoàn trưởng (do đoàn trưởng chọn), thư ký, thủ quỹ (do anh em bầu lên) để giúp việc đoàn trưởng.
Cách tổ chức hàng đội:
2) Cố xếp để sức học các đội không chênh lệch nhau quá.
4) Mỗi đội có 1 đội trưởng (do anh em trong đội bầu lên) và 1 phó đội trưởng (do đội trưởng chọn) và một đời sống riêng.
6) Mỗi đội có tiếng kêu, châm ngôn, nội lệ, cờ đội riêng, và nếu có thể được thì có tua vai và có dấu riêng.
8) Đối với các đội, đoàn trưởng không nên phạm đến đời sống riêng của họ, đoàn trưởng phải trọng đặc tính của từng đội; khi các đội có bày tỏ ý kiến gì, đoàn trưởng cũng nên để ý đến.
Các đội lần lượt làm công việc trong lớp: quét lớp, lau bàn ghế, bảng, tủ, cửa…
Ngoài công việc hàng ngày nói trên, đoàn trưởng có thể giao cho mỗi đội một công việc làm trong một tháng: giữ gìn các bản đồ, coi học cụ khố, tủ sách, trông nom cây cảnh…
Một thí dụ về cách cho điểm
Công việc chung của lớp . . . . . 16
Điểm số trung bình hàng tháng về việc
Thưởng . . . . . . . . . . . 5
Phạt . . . . . . . 7
Còn . . . 43,50
Mỗi tuần, nên cho họp đoàn một lần và họp đội một lần vào buổi hoạt động thanh niên. Đoàn họp trước, các đội họp sau hay các đội họp trước rồi đoàn họp sau đều được cả. Các buổi họp đó là để các em học chuyên môn, chơi hay hát với nhau. Cũng có khi dùng buổi hoạt động thanh niên để làm các công việc xã hội hay để đi điều tra một việc gì. Trong những trường hợp này nên cho các đội làm thi để thêm phần hăng hái.
1) Hát chính thức,
3) Hát hay làm tiếng reo,
5) Trò chơi,
7) Trò chơi,
9) Trò chơi hay hát hay làm tiếng reo,
11) Học hát,
Vậy mỗi tháng, mỗi giáo viên nên tổ chức cho học trò mình ít nhất là một kỳ trại một hay hai ngày và để ý đến các điều kiện sau đây:
1) Thầy giáo nên đi tìm trước,
3) tiện nước để tắm rửa,
5) chỗ đất phải cao ráo, ít gió, nhiều ánh sáng mặt giời,
7) nếu có phong cảnh đẹp hay gần một xưởng kỹ nghệ để các học trò được xem thì càng hay.
9) không có muỗi độc và bệnh truyền nhiễm,
1) sửa soạn các thứ trước rất cẩn thận, mang ít thôi, chỉ những thứ rất cần, những hộp cứu thương để phòng khi sẩy ra tai nạn hay ốm đau.
c) Tới trại
2) nếu có lều thì cho cắm chỗ khuất gió và thoát nước. Ở núi thì tránh đỉnh núi vì nhiều gió quá và chân núi thì ẩm thấp.
d) Về trại
XVII. CHƯƠNG TRÌNH NỮ CÔNG BẬC CƠ BẢN
1) coi phần thực hành trọng hơn lý thuyết nhất là ở hai lớp nhỏ chỉ chuyên dạy thực hành thôi.
3) dạy làm việc gì cũng bắt đến hoàn hảo mới thôi; nếu chưa được phải cho trẻ tập nhiều lần để tập tính làm việc chu đáo.
Lớp Tư. – Quét nhà, lau bàn ghế, xếp sách vở có thứ tự, bọc sách, kẻ vở, cắt móng tay, lau nút lọ mực, vót tăm, nối giây giút và gập khăn tay, nhặt rau, chẻ dưa, cắt nũm cà, gọt khoai.
Lớp Nhất. - Vệ sinh về sự ăn uống, tính chất các thứ ăn, các cách nấu, cách chọn thức ăn tươi tốt, sự cần thay đổi món ăn, cái hại ăn quà vặt, đi chợ, làm thực đơn, thổi cơm, đổ sôi, nấu chè, kho đậu, kho thịt, rán cá, nấu canh, nấu riêu, muối dưa cải, dưa giá, dưa cần, muối cà, muối kiệu.
Khâu
Lớp Ba – Ôn lại các đường luồn, đột thưa, đột mau, khâu đường cành cây, xúc xích. Khâu gấp nếp, gấp mép thẳng, đính cúc bầm, đan mũ.
Lớp Nhì – Ôn lại các đường học ở lớp ba, khâu sang sợi, khâu đè, khâu gấp mép chéo, vá áo, thùa khuyết chữa khuyết đứt khâu vài thứ dua dễ, khâu khăn tay, đo đan áo trẻ con.
Lớp Nhất - Mạng thẳng, mạng vuông, vá áo, thêu khăn tay, áo gối, cắt và may áo trẻ con, áo cánh, quần đùi, đan áo, bít tất.
Lớp Tư – Không có.
Lớp Nhất - Vệ sinh về người đàn bà có thai. Sự cần sửa soạn lót, áo cho đứa trẻ sắp sinh, giường nằm của đứa trẻ em, tắm rửa cho đứa trẻ, những điều lợi nuôi con bằng sữa mẹ, nuôi trẻ bằng sữa bò, pha sữa, bú sam, cần phải xem phân và cân đứa trẻ, giống đậu cho đứa trẻ, cho nó ra ngoài. Đứa trẻ mọc răng, thôi bú. Vài bệnh thông thường của trẻ sơ sinh, tưa, tướt, ho, đau mắt, sởi, thuỷ đậu.
THỜI GIỜ TỔNG CỘNG CỦA TỪNG KHOA HỌC TRONG MỘT TUẦN LỄ
LỚP TƯ | LỚP BA | LỚP NHÌ | LỚP NHẤT | |
Chính tả và văn phạm… Học thuộc lòng……….. Kể chuyện……………. Toán Pháp……………. Canh nông kỹ nghệ…… Địa dư………………… Vẽ…………………….. Thể thao………………. Hoạt động thanh nhiên...
3g 0g20 0g50 2g30 0 Dạy vào lúc đi chơi 0g40 2g 2g30
1g30 0g30 0g45 3g45 0 1g30 1g 3g 2g30
1g 0g30 0g 3g 0 1g30 1g 2g 2g30
|
2g 0g30 0 3g 0g45 1g30 1g 2g 2g30
25 giờ | 25 giờ | 25 giờ | 25 giờ |
File gốc của Nghị định 417-NĐ năm 1946 về Bậc học của nền giáo dục Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành đang được cập nhật.
Nghị định 417-NĐ năm 1946 về Bậc học của nền giáo dục Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | |
Số hiệu | 417-NĐ |
Loại văn bản | Nghị định |
Người ký | |
Ngày ban hành | 1946-09-10 |
Ngày hiệu lực | 1946-09-05 |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng | Đã hủy |