ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 32/KH-UBND | Hà Nội, ngày 03 tháng 02 năm 2021 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2021-2025
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2016-2020
1. Tình hình chung
Tổng số THT trên địa bàn là 1.543 THT (tăng 755 THT so với năm 2016); trong đó có: 1.049 THT nông nghiệp, 417 THT công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và 77 THT thuộc các lĩnh vực khác, số thành viên THT là 4.629 thành viên. Doanh thu bình quân của THT đạt 220 triệu đồng/năm.
Tuy nhiên, THT trên địa bàn Thành phố có quy mô nhỏ, chủ yếu ở mức độ nhóm hộ và hoạt động khép kín trong một thôn, xã; ít có THT liên thôn, liên xã; chưa liên kết, hợp tác thường xuyên với các nhóm sản xuất kinh doanh, các nhà khoa học, doanh nghiệp... Các THT còn gặp nhiều khó khăn trong quan hệ giao dịch kinh tế nên chưa tranh thủ được các chính sách ưu đãi của Nhà nước; chưa thu hút được nhiều thành viên tham gia; thu nhập của thành viên từ hoạt động của THT chưa cao.
Thành phố có 2.164 HTX và quỹ tín dụng nhân dân - gọi chung là HTX (tăng 400 HTX so với năm 2016), trong đó số HTX đang hoạt động là 1.802 HTX. Giai đoạn 2016-2020, số lượng HTX thành lập mới là 555 HTX, số HTX giải thể là 202 HTX. Đến nay, đa số các HTX đã tiến hành chuyển đổi, đăng ký lại theo Luật HTX năm 2012; chưa có HTX nào chuyển sang loại hình kinh tế khác.
- Tổng số vốn của HTX là 14.008.423 triệu đồng; tổng giá trị tài sản của HTX là 3.201.000 triệu đồng.
- Tổng số nợ đọng của HTX: Theo số liệu thống kê từ các quận, huyện, thị xã, tính đến thời điểm 31/12/2018, số tiền nợ đọng của HTX ngừng hoạt động trên địa bàn Thành phố là: 42.958,895 triệu đồng.
- Số lượng cán bộ quản lý HTX là 7.682 HTX, trong đó số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ sơ, trung cấp là 5.378 người (chiếm 70%); số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 1.844 người. Năm 2020, số cán bộ HTX được đóng bảo hiểm xã hội là 3.078 người.
Đến nay, trên địa bàn Thành phố có 17 liên hiệp HTX (tăng 09 liên hiệp HTX so với năm 2016), trong đó số lượng LHHTX đang hoạt động 10 LHHTX, ngừng hoạt động 07 LHHTX. Giai đoạn 2016-2020 có 09 LH HTX thành lập mới và 01 LH HTX giải thể.
Tổng số vốn hoạt động của LH HTX là 143.158 triệu đồng, tăng 123.458 triệu đồng so với năm 2016.
Tuy nhiên, còn một số LHHTX chưa tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012, dẫn đến ngừng hoạt động là do đều gặp khó khăn trong hoạt động, trình độ quản lý điều hành còn thấp, thiếu phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, sự liên kết giữa các HTX thành viên chưa được nhiều. Khả năng tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất còn hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả.
(Chi tiết tại Phụ lục 1 và Phụ lục 2 đính kèm)
2.1. Lĩnh vực nông nghiệp
Hoạt động kinh doanh dịch vụ của các THT, HTX, LHHTX (gọi chung là HTX) thuộc lĩnh vực nông nghiệp cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất của các hộ thành viên; đã đưa cơ giới hóa, giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng, giá trị cao vào sản xuất. Các HTX nông nghiệp đã tổ chức trên 10 khâu dịch vụ, hầu hết các khâu dịch vụ phục vụ sản xuất đều được các hộ thành viên sử dụng; một số hộ đã mở rộng nhiều dịch vụ có lãi và thực hiện miễn các khoản dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp cho thành viên. Nhiều HTX đã mạnh dạn đầu tư trang thiết bị tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập cho HTX; tham gia, xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất, chế biến, lưu thông và phân phối, bước đầu đạt hiệu quả. Đến nay toàn Thành phố có 141 HTX tham gia liên kết chuỗi giá trị, đảm bảo đầu ra cho nông sản có thị trường tiêu thụ ổn định; nhiều HTX áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất Vietgap, hữu cơ, đã đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu tập thể như: gạo chất lượng cao T10 của HTX Đại Thắng - huyện Phú Xuyên, gạo nếp cái hoa vàng của HTX Liên Hà - huyện Đông Anh, khoai lang Hoàng Long của HTX Đồng Thái - huyện Ba Vì, ...
2.2. Lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN), thương mại, dịch vụ
- Lĩnh vực thương mại - dịch vụ: Có 253 HTX thương mại - dịch vụ (tăng 5 HTX so với năm 2016) và 04 LH HTX thương mại - dịch vụ (tăng 02 LH HTX so với năm 2016). Các đơn vị thuộc lĩnh vực thương mại - dịch vụ chủ yếu kinh doanh nước sạch, điện dân sinh, dịch vụ nhà ở, bãi đỗ xe, đầu tư xây dựng và quản lý kinh doanh khai thác chợ, dịch vụ vui chơi giải trí. Một số đơn vị mở rộng hợp tác, liên kết trong kinh doanh, phát triển thị trường, đã có kết nối giữa HTX với doanh nghiệp, HTX với HTX để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, góp phần tích cực trong thực hiện chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các HTX thương mại - dịch vụ hoạt động hiệu quả tiêu biểu là: HTX Láng Hạ (quận Đống Đa), HTX Thống Nhất (quận Nam Từ Liêm), HTX thương mại Việt Phương (huyện Gia Lâm),...
Trên địa bàn Thành phố có 23 HTX xây dựng (tăng 17 HTX so với năm 2016) và 02 LH HTX xây dựng (tăng 01 LH HTX so với năm 2016). Nhìn chung các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn, quy mô vốn nhỏ, năng lực về tài chính, nhân lực, máy móc thiết bị, phương tiện thi công chưa đầy đủ và chịu tác động, ảnh hưởng theo những đặc thù của ngành xây dựng nên khó trúng thầu các công trình lớn hoặc hiệu quả đầu tư thấp, chủ yếu nhận thầu các công trình dân dụng,
Hiện nay trên địa bàn Thành phố có 189 HTX vận tải (tăng 128 HTX so với năm 2016); có 4 LH HTX vận tải (tăng 3 LH HTX so với năm 2016); doanh thu bình quân của đơn vị 9,9 tỉ đồng/năm; thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên khoảng 4triệu đồng/tháng. Các HTX vận tải đều đã tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012 và tập trung đổi mới quản lý điều hành, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng mạng lưới kinh doanh; hoạt động tương đối hiệu quả, góp phần vào việc vận chuyển, hàng hóa hành khách tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa giữa các vùng miền. Tuy nhiên một số đơn vị thành lập mới chỉ có địa chỉ giao dịch (sử dụng chung với sinh hoạt gia đình), không có nhà xưởng, gara; một số đơn vị tuy có mặt bằng nhưng cơ sở vật chất, trang thiết bị cũ, lạc hậu, không phát huy được nội lực đơn vị.
Hiện nay, Thành phố có 98 quỹ tín dụng nhân dân (TDND) với tổng số khoảng 122.000 thành viên, tổng nguồn vốn trên 12.000 tỷ đồng, tỉ lệ nợ xấu đa số dưới 3%. Hoạt động của đa số quỹ tín dụng nhân dân ổn định và có hướng phát triển khá. Các quỹ đã thực hiện tái cơ cấu tổ chức và hoạt động theo Luật tổ chức tín dụng và Luật HTX năm 2012; tập trung kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy quản trị, điều hành, kiểm soát và hiệu quả hoạt động; tích cực xử lý nợ xấu, duy trì các tỷ lệ an toàn trong hoạt động, đảm bảo khả năng chi trả. Kết quả hoạt động của các quỹ TDND đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và hạn chế nạn cho vay nặng lãi tại các địa phương.
1. Khung khổ pháp lý
Ngoài ra, Thành phố đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hỗ trợ chung về kinh tế - xã hội, về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trong đó có đối tượng thụ hưởng là các HTX như: Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy về Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND ngày 05/12/2018 của HĐND Thành phố về một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội;...
2.1. Chính sách hỗ trợ chung đối với các HTX
Hàng năm, Thành phố đều bố trí ngân sách cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quản lý HTX; các lớp bồi có đối tượng ngày càng mở rộng (Chủ tịch HĐQT, giám đốc, kiểm soát, kế toán, ...) và nội dung bồi dưỡng đa dạng hơn (gồm kiến thức về luật, chuyên môn nghiệp vụ, các kỹ năng). Giai đoạn 2016-2020, các sở, ngành, Liên minh HTX Thành phố đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 18.000 lượt cán bộ HTX với tổng kinh phí là 14 tỷ đồng. Đến nay, cán bộ của các HTX đã được trang bị kiến thức cơ bản về HTX; nhận thức và trình độ của cán bộ HTX được cải thiện, từng bước hỗ trợ có hiệu quả cho việc tổ chức, quản lý và kinh doanh của HTX.
Từ năm 2016 đến nay, Thành phố đã hỗ trợ nhiều HTX tham gia hội chợ thương mại quốc tế tại Hà Nội và hội chợ tại các tỉnh, thành phố lớn trong nước; tham gia Chương trình bán hàng lưu động đến các khu công nghiệp, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn Thành phố và các tỉnh thành phố phía Bắc; hỗ trợ tổ chức các đoàn HTX đi tham quan mô hình điển hình tiên tiến, xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường ở trong và ngoài nước; thực hiện kết nối các HTX có nhu cầu cung ứng sản phẩm nông sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ liên doanh, liên kết với các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước tiêu thụ sản phẩm.
c) Chính sách ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới.
Sở Khoa học và Công nghệ đã tư vấn, cấp kinh phí hỗ trợ các huyện, quận triển khai các dự án xây dựng, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm đặc sản và sản phẩm của làng nghề truyền thống ở địa phương như: “Miến dong Minh Hồng - Ba Vì” của HTX Minh Hồng (huyện Ba Vì); “Làng nghề may Áo dài truyền thống Trạch Xá - Ứng Hòa” của HTX làng nghề may áo dài Trạch Xá (huyện ứng Hòa); “Chuối Cổ Bi” của HTX Cổ Bi (huyện Gia Lâm); “Chuối Vân Nam - Phúc Thọ” của HTX Vân Nam (huyện Phúc Thọ); “Rau cần Khai Thái” của HTX Phú Xuân (huyện Thường Tín),...
Việc hỗ trợ về ứng dụng khoa học công nghệ đã bước đầu tạo chuyển biến tích cực; một số HTX đã ứng dụng thành công vào sản xuất kinh doanh, tạo ra được sản phẩm chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, có thương hiệu, nhãn hiệu và ký kết được các hợp đồng xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cho HTX và thành viên.
Thành phố tạo điều kiện để các HTX tiếp cận nguồn vốn bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các HTX, LH HTX, THT và thành viên vay vốn ưu đãi đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Giai đoạn 2016-2020, Quỹ đã hỗ trợ cho vay được 1.143 dự án với tổng số tiền là 376,25 tỷ đồng; vốn vay chủ yếu đầu tư vào chăn nuôi gia súc, gia cầm, dịch vụ nông nghiệp, chế biến lâm sản, sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề. Thông qua hoạt động vay vốn từ Quỹ, nhiều HTX đã có vốn đầu tư vào máy móc, đổi mới trang thiết bị, phát triển thêm ngành nghề, dịch vụ và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều sản phẩm mới thích ứng với thị trường.
Thời gian qua, Thành phố đã tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có các nội dung về phát triển kinh tế tập thể, HTX như: Kế hoạch số 188/KH-UBND ngày 06/10/2016 của UBND Thành phố thực hiện Chương trình 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2016-2020” có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX xây dựng đề án củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động; hỗ trợ, khuyến khích phát triển và thành lập mới HTX để các HTX nông nghiệp thực sự là một tổ chức kinh tế có vai trò thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đáp ứng tiêu chí số 13 - Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới; Kế hoạch triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển 15.000 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Hà Nội” trên địa bàn thành phố Hà Nội (ban hành kèm theo Quyết định số 579/QĐ-UBND ngày 30/01/2019) xác định rõ nội dung nhiệm vụ “Tạo điều kiện cho các HTX tham gia hoạt động một số dịch vụ phục vụ sản xuất và xây dựng nông thôn mới”,... Qua quá trình triển khai thực hiện, các HTX hiện nay đã và đang từng bước trở thành nhân tố mới, tích cực tham gia và có nhiều đóng góp trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, đặc biệt trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Hàng năm, Thành phố đều bố trí ngân sách giao Liên minh HTX Thành phố, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai tư vấn hướng dẫn, hỗ trợ thành lập HTX, hướng dẫn tổ chức lại hoạt động cho HTX. Ước giai đoạn 2016- 2020, đã hỗ trợ thành lập mới cho 337 HTX với tổng số kinh phí hỗ trợ 5.531,46 triệu đồng và hướng dẫn tổ chức lại hoạt động cho 275 HTX với tổng kinh phí hỗ trợ 5.750,2 triệu đồng.
2.2. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với HTX nông nghiệp
Thành phố tập trung hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình thủy lợi cho phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, tạo điều kiện thuận lợi để các HTX, đặc biệt là HTX nông nghiệp phát triển theo Chương trình số 02-CTr/TU ngày 26/4/2016 của Thành ủy về Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2016-2020. Giai đoạn 2016-2020, tổng nguồn vốn huy động đầu tư cho khu vực nông thôn theo Chương trình số 02-CTr/TU là 56,512 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách Thành phố là 20,911 nghìn tỷ đồng.
b) Chính sách giao đất, cho thuê đất
Sự chỉ đạo và vào cuộc quyết liệt từ Thành phố đến cơ sở đã tạo điều kiện cho các hộ nông dân nói chung, HTX nói riêng có trụ sở ổn định để sản xuất kinh doanh; tập trung ruộng đất để sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn, thực hiện liên doanh, liên kết, sản xuất theo hướng chuyên canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao trong sản xuất, đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong sản xuất; và xây dựng những mô hình HTX liên kết sản xuất nông nghiệp hoạt động hiệu quả.
Thực hiện nội dung hỗ trợ cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh theo Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, UBND Thành phố đã ban hành và triển khai Quyết định số 2544/QĐ-UBND ngày 11/4/2013 về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trên địa bàn thành phố Hà Nội; theo đó, đối tượng áp dụng có các tổ hợp tác, HTX sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản trên địa bàn bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.
Ngày 05/12/2017, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định 8450/QĐ-UBND về phê duyệt đề án “Đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác trong HTX nông nghiệp trên địa bàn Thành phố đến năm 2020”, trong đó đưa ra nhiệm vụ hỗ trợ 60 HTX tham gia các chương trình, dự án chuyển giao tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Ngày 05/12/2018, HĐND Thành phố có Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND về “Một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội” quy định cụ thể về điều kiện, nội dung, mức hỗ trợ đối với dự án cải tạo, nâng cấp, xây mới cơ sở sơ chế, chế biến nông sản; các HTX là một trong những đối tượng hưởng lợi từ chính sách này.
Công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại Thành phố ngày càng được quan tâm, từ công tác tuyên truyền, quán triệt các chủ trương, chính sách; xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể, đến việc ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn; xây dựng các cơ chế, chính sách của địa phương và công tác kiểm tra, giám sát...
- Công tác kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về HTX: Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan được giao nhiệm vụ giúp UBND Thành phố thực hiện công tác quản lý nhà nước chung đối với KTTT trên địa bàn; tuy nhiên, hiện nay, Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố chưa có Phòng Doanh nghiệp, Kinh tế tập thể và Tư nhân. Ở cấp huyện, chức năng quản lý nhà nước về KTTT hiện được giao cho Phòng Tài chính - Kế hoạch, một số quận huyện giao Phòng Kinh tế. Cán bộ theo dõi KTTT ở các cấp hầu hết là kiêm nhiệm.
- Công tác kiểm tra, giám sát: Các sở, ngành Thành phố, các cơ quan chuyên môn của nhiều quận, huyện thuộc Thành phố đã quan tâm triển khai công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các văn bản pháp luật về HTX; thường xuyên phối hợp để thanh kiểm tra hoạt động của HTX, tập trung vào các nội dung: thực hiện đề án, kế hoạch sản xuất - kinh doanh, điều lệ HTX, tổ chức đại hội xã viên, quản lý tài chính HTX, nộp thuế... Thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX như: Quản lý hệ thống thông tin về HTX; hướng dẫn các HTX về thủ tục đăng ký HTX, xây dựng Điều lệ HTX, tổ chức đại hội thành viên, quản lý tài sản tài chính HTX; giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ HTX về đất đai, thuế, xử lý tài sản, tài chính... Hàng năm, UBND các quận, huyện, thị xã phối hợp với Liên minh HTX Thành phố tổ chức khảo sát, nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, những khó khăn và thực hiện đánh giá phân loại HTX để đưa ra giải pháp chỉ đạo thực hiện nghiêm Luật HTX năm 2012.
- Công tác tổ chức tổng kết, sơ kết: Thành phố đã tổ chức tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; sơ kết 3 năm thực hiện Luật Hợp tác xã 2012... và các hội nghị khác để đánh giá, rút kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX trên địa bàn.
4. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể và Liên minh HTX Việt Nam đối với phát triển KTTT, HTX
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể của Thành phố đã tham gia vận động, hướng dẫn, tạo điều kiện cho việc thành lập các tổ hợp tác, HTX mới trong các ngành nghề, lĩnh vực; tham gia vào nhiều hoạt động hỗ trợ, cung cấp dịch vụ, tư vấn giúp cho kinh tế tập thể, HTX ổn định và phát triển. Một số tổ chức đã có chương trình phối hợp hoạt động trong phát triển kinh tế tập thể với Liên minh HTX Thành phố.
Liên minh HTX Thành phố đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong phát triển KTTT, HTX, tích cực thực hiện các nhiệm vụ Thành phố giao, tổ chức triển khai hiệu quả các nhiệm vụ về phát triển kinh tế tập thể, HTX và có đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn Thành phố.
Liên minh HTX Thành phố đã thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ theo Luật HTX về: Tuyên truyền phát triển HTX; tư vấn hướng dẫn thành lập mới HTX, liên hiệp HTX; xây dựng các mô hình HTX (HTX nhà ở, HTX vệ sinh môi trường, HTX sản xuất - tiêu thụ rau an toàn, HTX chợ, mô hình liên hiệp HTX thủy sản chăn nuôi...); triển khai có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ; phối hợp với ngân hàng nhà nước chỉ đạo các Quỹ TDND trên địa bàn Thành phố tiếp tục thực hiện Đề án tái cơ cấu tổ chức hoạt động theo quy định Luật các Tổ chức tín dụng;...
1. Thành tựu, vị trí, vai trò của KTTT trong phát triển kinh tế - xã hội
Sự hợp tác, liên kết giữa các HTX với nhau và với các thành phần kinh tế khác ngày càng được coi trọng. Nhiều mô hình liên doanh, liên kết được xây dựng và phát triển; hình thức, nội dung liên kết, hợp tác đa dạng hơn như: cung ứng vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, giống cây trồng vật nuôi, sản phẩm hàng hoá, tạo vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy của các HTX nông nghiệp; liên kết ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất; liên kết tiêu thụ sản phẩm, nông sản cho các hộ thành viên. Nhiều HTX trên địa bàn các huyện đã chủ động phối hợp, liên kết với các doanh nghiệp giống - vật tư nông nghiệp của Trung ương và tại các tỉnh, thành phố trong nước để cung cấp giống, vật tư nông nghiệp cho các hộ nông dân; liên kết với các doanh nghiệp sản xuất sữa, chè trong việc tiêu thụ và chế biến sản phẩm của thành viên HTX. Các HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở làng nghề đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp trong việc cung cấp nguyên liệu, vật tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và xuất khẩu.
- Vai trò đối với phát triển kinh tế: Hoạt động của các HTX không những đóng góp trực tiếp vào GRDP chung của địa phương mà còn tác động đến phát triển kinh tế cá thể, hộ gia đình thông qua gần 570.000 thành viên tham gia HTX. HTX cung cấp đầu vào (giống cây trồng, vật nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi, dịch vụ làm đất, gặt hái, bảo quản sau thu hoạch; tạo công ăn việc làm); khâu trung gian (chuyển giao, hướng dẫn, đào tạo, tư vấn kỹ thuật) và đầu ra là thu mua sản phẩm nông nghiệp cho hơn các hộ gia đình, cá nhân là thành viên, nên thành viên giảm được chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, không sợ tư thương ép giá; qua đó, thu nhập không ngừng được cải thiện, hiệu quả sản xuất được nâng lên, đời sống người dân từng bước phát triển. Ngoài KTTT, HTX, còn có các hình thức khác như tổ hợp tác - trên địa bàn Thành phố hiện nay có 1.543 tổ hợp tác - thu hút khoảng 4.629 thành viên tham gia. Qua hình thức này, các thành viên tăng thu nhập, có việc làm ổn định. KTTT, HTX đang dần trở thành chỗ dựa vững chắc, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ trong sản xuất, kinh doanh, giữ vai trò liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm.
- Trong xây dựng nông thôn mới: Các tổ chức KTTT, HTX đã tham gia đóng góp xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế xã hội (giao thông, thủy lợi, điện, thương mại - dịch vụ, thể dục - thể thao, vui chơi, giải trí,...). Kết quả hoạt động của HTX hiện nay cũng là yếu tố quan trọng để đạt được Tiêu chí số 13 trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, qua đó góp phần vào kết quả xây dựng nông thôn mới chung trên địa bàn (hiện nay, trên địa bàn Thành phố có 382/382 xã đạt và cơ bản đạt Tiêu chí số 13).
- Vai trò về văn hóa: Thông qua HTX, các thành viên có thể cùng nhau giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống (hiếu, hỷ, ốm đau, ...) giúp cho cộng đồng cư dân đoàn kết hơn, góp phần giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc là đoàn kết, “lá lành đùm lá rách”. Hoạt động của một số HTX còn khắc phục một phần khó khăn về thị trường, thương hiệu sản phẩm, không những giúp các làng nghề truyền thống tồn tại, hoạt động mà còn đưa các sản phẩm làng nghề ra rộng rãi trên thị trường; một số sản phẩm làng nghề đã được đăng ký nhãn hiệu tập thể và được người tiêu dùng tin tưởng như: “Miến dong Minh Hồng - Ba Vì” của HTX Minh Hồng (huyện Ba Vì); “Áo dài truyền thống Trạch Xá - Ứng Hòa” của HTX làng nghề may áo dài Trạch Xá (huyện Ứng Hòa); “Chuối Cổ Bi” của HTX Cổ Bi (huyện Gia Lâm); “Rau cần Khai Thái” của HTX Phú Xuân (huyện Thường Tín);...
2. Tồn tại, hạn chế
- Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tập thể đối với nền kinh tế có xu hướng giảm dần. Mặc dù số lượng HTX tăng dần theo các năm nhưng tỷ lệ về số lượng HTX hiện còn nhỏ trong các thành phần kinh tế; tổng số vốn sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tập thể chiếm tỷ lệ khiêm tốn; quy mô HTX nhỏ; thu nhập bình quân đầu người một tháng tăng hàng năm nhưng vẫn ở mức thấp nhất so với các khu vực kinh tế khác.
- Việc tiếp cận với quyền sử dụng đất của đơn vị rất khó khăn, nhiều tổ chức KTTT chưa có đất đai, trụ sở, nhà máy, xí nghiệp hoặc đất nông nghiệp để có quy mô sản xuất tập trung; việc tích lũy vốn đầu tư phát triển còn thấp, nhiều đơn vị còn khó khăn về tiếp cận vốn ưu đãi.
3. Nguyên nhân
Luật HTX năm 2012, các văn bản hướng dẫn thi hành và nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức hoạt động và chính sách, hỗ trợ đối với khu vực KTTT, HTX là những khung khổ pháp lý tạo điều kiện cho KTTT, HTX phát triển. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện đã phát sinh bất cập (chức năng hỗ trợ, tỉ lệ dịch vụ nội bộ ...). Một số chính sách hỗ trợ phát triển HTX còn chậm triển khai và khó thực hiện trong thực tiễn.
- Thành phố đã triển khai nghiêm túc đầy đủ, các quy định của pháp luật, các cơ chế chính sách đối với khu vực KTTT, HTX nhưng nguồn lực thực hiện chủ yếu từ ngân sách địa phương, một số chính sách được lồng ghép với những hình thức khác; một số đối tượng thụ hưởng không có tư cách pháp nhân (THT), khó khăn cho việc tiếp cận thụ hưởng cơ chế, chính sách.
3.3. Về bản thân HTX
3.4. Về thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KTTT, HTX
- Một số quận, huyện chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước chung về KTTT giữa Phòng Tài chính - Kế hoạch với Phòng Kinh tế; một số chính quyền cơ sở còn can thiệp sâu vào công tác quản trị, tổ chức cán bộ và hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX.
Một là: Coi trọng công tác tuyên truyền, truyền thông, phổ biến sâu rộng, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các Nghị Quyết, Chỉ thị, Chương trình, Kế hoạch của Thành phố về phát triển kinh tế tập thể, về mô hình hợp tác xã kiểu mới tới cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân để nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất trong thực hiện.
Ba là: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KTTT, thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về phát triển KTTT ở Thành phố và cấp huyện. Quan tâm bố trí đủ nhân lực; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về KTTT. Xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với KTTT. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, Luật HTX, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thúc đẩy phát triển KTTT trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Năm là: Chú trọng xây dựng các mô hình điểm, điển hình tiên tiến, tổ chức hoạt động hiệu quả; ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh, có khả năng huy động nguồn lực từ thị trường, có vùng nguyên liệu, vùng sản xuất phù hợp năng lực và điều kiện để phát triển, tăng cường liên kết với doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân, tham gia chuỗi giá trị.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
1. Tình hình quốc tế
Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Thương mại thế giới năm 2020 giảm sâu do sự sụt giảm mạnh trong nhu cầu toàn cầu và gián đoạn các chuỗi nguồn cung thế giới. Nhiều nền kinh tế trên thế giới bị phong tỏa, phá hủy chuỗi cung ứng, làm giảm nhu cầu tiêu thụ và khiến hàng triệu người mất việc làm. Mặc dù chính phủ các nước đã triển khai các gói kích cầu để chống lại đại dịch và tác động của nó đến kinh tế xã hội, tuy nhiên, Covid-19 là một cuộc khủng hoảng y tế, xã hội và kinh tế chưa từng có tiền lệ, sự phục hồi của các nền kinh tế hậu Covid-19 được dự báo là sẽ rất chậm.
Việt Nam đã và đang có đà tăng trưởng khá vững chắc của cả quá trình đổi mới nói chung và cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh thời gian qua nói riêng. Theo đó, tăng trưởng GRDP phục hồi rõ nét sau giai đoạn 2011 - 2015, duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017 - 2019. Việt Nam đang có sự ổn định tích cực cả môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô. Kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được thực thi góp phần đẩy mạnh hơn nữa cải cách thể chế kinh tế trong nước, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện công nghiệp hóa.
3. Cơ hội và thách thức đối với khu vực KTTT, HTX
Thủ đô Hà Nội những năm tới tiếp tục đô thị hóa nhanh; dân số tiếp tục tăng mạnh; cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ từ nông nghiệp sang dịch vụ, công nghiệp chất lượng cao; chuyển dịch đất đai, lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác; chuyển dịch dân cư nông thôn sang dân cư thành thị với nhu cầu khác trước. Đây là yếu tố mà KTTT, HTX cần quan tâm để thực hiện tái cơ cấu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
3.2. Thách thức
Kinh tế tập thể của Thủ đô Hà Nội đã có bước phát triển tích cực song phần lớn các tổ chức kinh tế tập thể có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, tỷ trọng trong kinh tế Thủ đô còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chưa cao, năng lực quản lý, quản trị, của một bộ phận của HTX còn hạn chế. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân ngày được nâng cao; yêu cầu của thị trường về sản phẩm hàng hóa có đủ tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, có kiểm soát ngày càng “khắt khe” đòi hỏi việc quản lý, quản trị, ứng dụng khoa học công nghệ của kinh tế hợp tác trong sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chất lượng ngày càng cao hơn.
Đại dịch Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp tục tác động rất mạnh đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Thủ đô; nhất là ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, thu chi ngân sách, đầu tư và thương mại; làm gián đoạn các chuỗi giá trị sản xuất quan trọng; suy giảm tiêu dùng, dịch vụ và du lịch; đòi hỏi vừa phải chủ động phòng chống dịch, đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,vừa phải nhanh chóng phục hồi sản xuất, kinh doanh, tái cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển mạnh các ngành kinh tế...
KTTT, HTX có tác động quan trọng đến sự thành công của tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, trở thành chỗ dựa, phát huy vai trò kinh tế hộ, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, giữ vai trò liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm và hỗ trợ nâng cao phúc lợi, đảm bảo an sinh xã hội cho thành viên. Trong thời gian tới, các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi thành phố Hà Nội phải chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, vượt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập.
Các HTX từng bước hoạt động đúng bản chất, ngày càng tập trung hơn vào việc hỗ trợ kinh tế hộ thành viên thông qua cung cấp các dịch vụ hoặc việc làm cho thành viên, nhất là HTX nông nghiệp. Quy mô, vốn và các lĩnh vực hoạt động của HTX được mở rộng; có nhiều HTX quy mô toàn xã, huyện; nhiều loại hình HTX mới được thành lập như HTX môi trường, HTX trường học, HTX y tế... Trình độ cán bộ quản lý HTX được nâng cao; một số HTX có đội ngũ cán bộ tâm huyết, có kinh nghiệm, nhạy bén với cơ chế thị trường, mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh của HTX. Thông qua HTX, các hộ thành viên có điều kiện tham gia và được hỗ trợ của Nhà nước, của các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, thu nhập của người lao động cũng như của thành viên, hộ thành viên được cải thiện, góp phần giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Đáng chú ý, số lượng HTX nông nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị ngày càng gia tăng, đang dần trở thành phương thức sản xuất tối ưu để phát triển bền vững; nhiều HTX liên kết với các siêu thị, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, tổ chức sản xuất gắn với chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ cao, vệ sinh an toàn thực phẩm; Một số HTX đã chủ động nghiên cứu, mở rộng thị trường, không những trong nước mà còn đẩy mạnh xuất khẩu. Mô hình hợp tác liên kết theo nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi”, mô hình hợp tác, liên kết thời gian tới sẽ có ở các hình thức THT, HTX, LH HTX; tuy nhiên, trước mắt HTX sẽ là mô hình có sự lựa chọn để phát triển trước.
1. KTTT là thành phần kinh tế tất yếu và quan trọng trong các thành phần kinh tế của Thủ đô. Phát triển KTTT phải phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.
3. Khuyến khích phát triển các loại hình của KTTT, với sự liên kết đa dạng; ưu tiên phát triển tổ chức KTTT gắn với chuỗi giá trị, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và có tác động lớn với thành viên, cộng đồng. Khuyến khích phát triển bền vững KTTT, HTX với nhiều hình thức, hợp tác, liên kết, đa dạng, phong phú. Các loại hình kinh tế hợp tác phải phát triển theo nguyên tắc: tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đẩy mạnh phát triển KTTT, HTX phải căn cứ yêu cầu thực tế khách quan, tránh tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí.
Tiếp tục củng cố, đổi mới, phát triển KTTT cả chiều rộng và chiều sâu; phấn đấu KTTT, HTX có đóng góp tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế, đóng góp tích cực trong việc tái cơ cấu kinh tế, kinh tế nông nghiệp và thực hiện xây dựng nông thôn mới. Thông qua phát triển KTTT, HTX để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho thành viên HTX, nhân dân; góp phần giảm nghèo bền vững, ổn định chính trị - xã hội.
- Tuyên truyền, vận động, tư vấn, hỗ trợ thành lập mới khoảng 100 HTX mỗi năm, nâng tổng số HTX trên địa bàn là 2.498 HTX, trong đó có khoảng 150-200 HTX nông nghiệp. Thành lập mới 7 LHHTX.
- Doanh thu bình quân của HTX 3.525 triệu đồng.
(Chi tiết tại Phụ lục 3 và Phụ lục 4 đính kèm)
1. Định hướng chung
- Phát triển KTTT phải gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quy hoạch vùng sản xuất và gắn với công nghiệp chế biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ tài nguyên, môi trường và an sinh xã hội của địa phương phù hợp với tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực, xây dựng nông thôn mới.
- Phát triển KTTT phải đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi; phù hợp với điều kiện từng vùng. Phát triển KTTT không chỉ chú trọng hiệu quả về mặt kinh tế mà phải chú trọng hiệu quả về mặt chính trị, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng của Thành phố; nâng cao tỷ lệ đóng góp của khu vực KTTT vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền vững.
- Giải thể các HTX ngừng hoạt động, yếu kém kéo dài, không củng cố được trên địa bàn để tạo dư địa thành lập mới HTX.
2.1. Định hướng phát triển KTTT, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp
- Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, ứng dụng khoa học công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, đổi mới công nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến... Phát triển mô hình HTX chuyên canh (như : HTX rau sạch, HTX chăn nuôi gia súc, gia cầm, HTX chế biến nông sản, thực phẩm và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp có hàm lượng công nghệ, giá trị cao, có truy xuất nguồn gốc, ...); đẩy mạnh xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu các mặt hàng nông sản xuất khẩu, từng bước hình thành tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp dịch vụ công nghệ cao.
Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị ổn định bền vững từ cung cấp đầu vào cho sản xuất, sơ chế, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
2.2. Định hướng phát triển KTTT, HTX trong lĩnh vực phi nông nghiệp
- Tập trung ưu tiên các nguồn lực, đặc biệt là vốn, đất đai, mặt bằng hỗ trợ cho các HTX, LHHTX cung ứng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nhất là các mô hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm nông sản an toàn. Tăng cường liên doanh, liên kết giữa các HTX thương mại với nhau và giữa các HTX thương mại dịch vụ với các thành phần kinh tế khác, đổi mới phương thức kinh doanh dịch vụ theo hướng hiện đại.
- Phát triển HTX xây dựng và kinh doanh tổng hợp, vừa xây dựng, vừa sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; có năng lực đảm nhận các công trình xây dựng quy mô vừa và nhỏ, tham gia các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương; khuyến khích đẩy mạnh liên kết giữa các HTX và các doanh nghiệp trong ngành xây dựng có năng lực hoạt động cao, đủ sức cạnh tranh để có thể thực hiện các dự án có quy mô lớn và chất lượng cao.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân, trọng tâm là thực hiện tái cơ cấu tổ chức hoạt động. Tiếp tục củng cố, chấn chỉnh và nâng cao mức độ an toàn hiệu quả của quỹ TDND hiện có; đảm bảo quỹ TDND hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động và nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên.
V. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
Tiếp tục tổ chức quán triệt, học tập nâng cao nhận thức về KTTT, HTX, từ đó tạo sự thống nhất các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên về: Vai trò, vị trí quan trọng, tính tất yếu của KTTT, HTX; trách nhiệm của các cấp, các ngành; chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đối với phát triển KTTT, HTX; về sự cần thiết và yêu cầu khách quan cần phải tiếp tục củng cố, đổi mới, phát triển KTTT, HTX trong thời gian tới.
2. Về hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách
Xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển KTTT giai đoạn 2021-2025 theo ngành, lĩnh vực, địa bàn phụ trách. Trên cơ sở chính sách hỗ trợ của Trung ương tại Quyết định số 1804/QĐ-TW ngày 13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025, các cơ quan, đơn vị, nghiên cứu, xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án về hỗ trợ, phát triển KTTT, HTX giai đoạn mới của Thành phố, tập trung hỗ trợ về: Thành lập mới, củng cố tổ chức KTTT, HTX; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường;... Chủ động cân đối, bố trí nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với KTTT, HTX, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc chỉ đạo phát triển KTTT, HTX, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, lâu dài. Cấp ủy, chính quyền các cấp tiến hành xây dựng, chỉ đạo thực hiện các đề án, kế hoạch, chương trình về phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025 và hàng năm. Tập trung, quyết liệt hơn trong tổ chức quán triệt phổ biến Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Trung ương, chỉ đạo của Thành phố trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhằm tạo sự đồng thuận, sự nhận thức đúng đắn về bản chất, vị trí, vai trò của KTTT, mô hình HTX kiểu mới.
Thống nhất phân công Phòng Tài chính - Kế hoạch là cơ quan tham mưu giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước chung về KTTT, HTX; khắc phục tình trạng chồng chéo nhiệm vụ quản lý nhà nước về KTTT giữa Phòng Tài chính - Kế hoạch với Phòng Kinh tế cấp huyện; bố trí đủ cán bộ phụ trách, theo dõi về KTTT, HTX.
Hướng dẫn tổ chức, củng cố lại hoạt động của các HTX theo Luật HTX năm 2012. Phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bảo vệ lợi ích của thành viên trong HTX; đồng thời, tạo điều kiện cho HTX tham gia thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Các cơ quan quản lý tổ chức đánh giá, phân loại HTX hoạt động hiệu quả, trung bình, yếu kém để có biện pháp hỗ trợ, tư vấn cụ thể từng HTX thực hiện tái cơ cấu. Rà soát, tổng hợp các khó khăn của HTX; từng bước tháo gỡ rào cản nhằm nâng cao khả năng huy động và tiếp cận nguồn lực của HTX; vận động giải thể, giải thể bắt buộc, dứt điểm các HTX yếu kém, đã ngừng hoạt động để tạo dư địa cho thành lập HTX mới.
5. Về huy động nguồn lực xã hội để phát triển KTTT, HTX
Thành phố tiếp tục quan tâm hỗ trợ vốn hoạt động cho các tổ chức trong khu vực KTTT, HTX thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, các quỹ tín dụng, ngân hàng; nghiên cứu việc tiếp cận vốn thông qua hình thức tín chấp. Vận động, huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, nhà tài trợ trong nước, các tổ chức quốc tế.
Mặt trận Tổ quốc Thành phố có chương trình phối hợp hành động trong phát triển KTTT với các tổ chức đoàn thể, các thành viên và Liên minh HTX Thành phố. Tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng, hội viên, thành viên tham gia phát triển KTTT, HTX; thực hiện tốt công tác giám sát việc thực hiện Luật HTX 2012 và các chính sách phát triển KTTT, HTX; củng cố và phát triển tổ chức đoàn thể trong HTX, LHHTX.
Thành phố tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện cho Liên minh HTX Thành phố thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, mở rộng hoạt động trong một số lĩnh vực dịch vụ công.
8. Về tăng cường hợp tác quốc tế về KTTT
Khuyến khích các hợp tác xã chủ động nghiên cứu, xây dựng định hướng phát triển theo mô hình hợp tác xã kiểu mới để nhằm đáp ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ, hướng dẫn các mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất sản phẩm hàng hóa, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường.
1. Giám đốc, Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Liên minh HTX Thành phố; Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã: Trực tiếp chỉ đạo thực hiện các nội dung, nhiệm vụ thuộc lĩnh vực, địa bàn phụ trách; xây dựng chương trình hành động và kế hoạch hàng năm để triển khai; thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND Thành phố về việc thực hiện Kế hoạch của UBND Thành phố về phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021-2025.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư; (Để báo cáo) | TM. ỦY BAN NHÂN DÂN |
CHỈ TIÊU CƠ BẢN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2016-2020
(Kèm theo Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 03/02/2021 của UBND Thành phố)
TT | Chỉ tiêu | ĐVT | Thực hiện năm | Thực hiện giai đoạn 2016- 2020 | ||||
Năm 2016 | Năm 2017 | Năm 2018 | Năm 2019 | Năm 2020 | ||||
I |
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
% | 0,7 | 0,7 | 0,7 |
|
|
| |
2 |
HTX | 1.764 | 1.780 | 1.970 | 2.084 | 2.164 | 2.164 | |
3 |
|
|
|
|
|
|
| |
|
HTX | 1.493 | 1.506 | 1.666 | 1.782 | 1.802 | 1.802 | |
|
HTX | 271 | 274 | 304 | 302 | 362 | 362 | |
|
HTX | 336 | 119 | 100 | 555 | |||
|
HTX | 177 | 5 | 20 | 202 | |||
|
HTX | 821 | 883 | 999 | 1.158 | 1.175 |
| |
|
HTX |
| 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | |
4 |
Thành viên | 628.878 | 585.920 | 564.173 | 566.380 | 598.500 | 598.500 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
Thành viên | 1.140 | 1.260 | 3.320 | 3.428 | 3.200 | 12.348 | |
|
Thành viên | 271.675 | 257.805 | 253.878 | 254.871 |
| 0 | |
|
Thành viên | 357.203 | 328.000 | 310.180 | 311.394 |
| 0 | |
|
Thành viên |
| 115 | 115 | 115 | 115 | 115 | |
5 |
Người | 37.325 | 37.650 | 41.650 | 44.550 | 45.500 | 45.500 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
Người | 950 | 1.050 | 4.000 | 2.900 | 925 | 9.825 | |
|
Người | 34.712 | 35.015 | 38.735 | 41.432 | 44.875 | 44.875 | |
6 |
Triệu đồng | 11.984.849 | 13.087.780 | 13.729.632 | 13.923.432 | 14.008.432 | 14.008.432 | |
7 |
Triệu đồng | 2.931.768 | 2.491.882 | 2.719.754 | 3.126.000 | 3.201.000 | 3.201.000 | |
8 |
Tr đồng/năm | 2.084 | 2.188 | 2.263 | 2.495 | 2.750 | 2.356 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
Tr đồng/năm |
|
|
|
|
|
| |
9 |
Tr đồng/năm | 152 | 161 | 168 | 178 | 190 | 170 | |
10 |
Tr đồng/năm | 40 | 43 | 45 | 48 | 50 | 45 | |
11 |
Người | 6.774 | 7.033 | 7.092 | 7.502 | 6.603 | 6.603 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
Người | 4.537 | 4.750 | 4.893 | 5.252 | 4.462 | 4.462 | |
|
Người | 1.267 | 1.316 | 1.418 | 1.651 | 2.141 | 2.141 | |
12 |
Người |
|
| 2.169 |
| 3.078 |
| |
II |
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
LHHTX | 8 | 10 | 10 | 13 | 17 | 17 | |
2 |
|
|
|
|
|
|
| |
|
LHHTX | 2 | 2 | 0 | 3 | 3 | 10 | |
|
LHHTX | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 1 | |
|
LHHTX |
|
|
|
|
|
| |
3 |
HTX | 41 | 49 | 49 | 77 | 89 | 89 | |
4 |
Triệu đồng | 19.700 | 30.200 | 30.200 | 133.500 | 143.158 | 143.158 | |
5 |
Triệu đồng |
|
|
|
|
|
| |
6 |
Tr đồng/năm |
|
|
|
|
|
| |
7 |
Tr đồng/năm |
|
|
|
|
|
| |
III |
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
THT | 1.284 | 1.284 | 1.393 | 1.493 | 1.543 | 1.543 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
THT |
|
| 109 | 100 | 50 | 259 | |
|
THT | 1.284 | 1.284 | 1.393 | 1.493 | 1.543 | 1.543 | |
2 |
Thành viên | 3.852 | 3.852 | 4.181 | 4.485 | 4.629 | 4.629 | |
3 |
Người |
|
|
|
|
|
| |
4 |
Tr đồng/năm |
|
| 200 | 200 | 220 |
| |
5 |
Tr đồng/năm |
|
| 30 | 30 | 35 |
|
SỐ LƯỢNG HTX, LIÊN HIỆP HTX, TỔ HỢP TÁC PHÂN LOẠI THEO NGÀNH NGHỀ GIAI ĐOẠN 2016-2020
(Kèm theo Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 03 /02/2021 của UBND Thành phố)
TT | Chỉ tiêu | ĐVT | Thực hiện giai đoạn 2011-2015 | Thực hiện năm | ||||
Năm 2016 | Năm 2017 | Năm 2018 | Năm 2019 | Năm 2020 | ||||
I |
|
|
|
|
|
|
| |
|
HTX | 1.811 | 1.764 | 1.780 | 1.970 | 2.084 | 1.164 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
HTX | 1.085 | 1.048 | 1.054 | 1.134 | 1.214 | 1.262 | |
2 |
HTX | 263 | 260 | 260 | 280 | 284 | 293 | |
3 |
HTX | 15 | 6 | 6 | 13 | 14 | 23 | |
4 |
HTX | 98 | 98 | 98 | 98 | 98 | 98 | |
5 |
HTX | 230 | 248 | 260 | 304 | 319 | 253 | |
6 |
HTX | 56 | 61 | 63 | 80 | 87 | 189 | |
7 |
HTX | 50 | 29 | 25 | 47 | 52 | 46 | |
II |
|
|
|
|
|
|
| |
|
LHHTX | 6 | 8 | 10 | 11 | 14 | 17 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
LHHTX | 2 | 3 | 5 | 5 | 5 | 7 | |
2 |
LHHTX | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | |
3 |
LHHTX | 1 | 1 | 1 | 1 | 2 | 2 | |
4 |
LHHTX |
| 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | |
5 |
LHHTX | 1 | 2 | 2 | 2 | 3 | 4 | |
6 |
LHHTX | 1 | 1 | 1 | 2 | 3 | 3 | |
7 |
LHHTX |
|
|
|
|
|
| |
8 |
LHHTX |
|
|
|
|
|
| |
9 |
LHHTX |
|
|
|
|
|
| |
III |
|
|
|
|
|
|
| |
|
THT | 836 | 788 | 1.284 | 1.393 | 1.493 | 1.543 | |
|
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
THT | 568 | 544 | 899 | 951 | 1.006 | 1.049 | |
2 |
THT | 234 | 213 | 321 | 366 | 395 | 417 | |
3 |
THT |
|
|
|
|
|
| |
4 |
THT |
|
|
|
|
|
| |
5 |
THT |
|
|
|
|
|
| |
6 |
THT |
|
|
|
|
|
| |
7 |
THT |
|
|
|
|
|
| |
8 |
THT | 33 | 32 | 64 | 76 | 92 | 77 |
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
(Kèm theo Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 03/02/2021 của UBND Thành phố)
STT | Chỉ tiêu | Đơn vị tính | Kế hoạch | ||||
Năm 2021 | Năm 2022 | Năm 2023 | Năm 2024 | Năm 2025 | |||
I |
|
|
|
|
|
| |
1 |
HTX | 2.229 | 2.294 | 2.359 | 2.424 | 2.498 | |
2 |
|
|
|
|
|
| |
|
HTX | 1.879 | 1.964 | 2.049 | 2.124 | 2.218 | |
|
HTX | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | |
|
HTX | 35 | 35 | 35 | 35 | 35 | |
|
HTX | 1.287 | 1.394 | 1.495 | 1.593 | 1.707 | |
|
HTX | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | |
3 |
Tr đồng/năm | 2.900 | 3.045 | 3.197 | 3.357 | 3.525 | |
4 |
Tr đồng/năm | 190 | 200 | 210 | 220 | 230 | |
5 |
Tr đồng/năm | 54 | 57 | 60 | 63 | 66 | |
II |
|
|
|
|
|
| |
1 |
LHHTX | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | |
2 |
|
|
|
|
|
| |
|
|
|
|
|
|
| |
|
LHHTX | 2 | 2 | 2 | 2 | 2 | |
|
LH HTX | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | |
3 |
HTX | 96 | 101 | 106 | 111 | 116 | |
III |
|
|
|
|
|
| |
1 |
THT | 1.593 | 1.643 | 1.693 | 1.743 | 1.793 | |
|
|
|
|
|
|
| |
|
THT | 50 | 50 | 50 | 50 | 50 | |
|
| 1.543 | 1.593 | 1.643 | 1.693 | 1.743 | |
2 |
Thành viên | 4.780 | 4.930 | 5.080 | 5.230 | 5.380 |
SỐ LƯỢNG HỢP TÁC XÃ, LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ, TỔ HỢP TÁC PHÂN LOẠI THEO NGÀNH NGHỀ GIAI ĐOẠN 2021-2025
(Kèm theo Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 03/02/2021 của UBND Thành phố)
STT | Chỉ tiêu | Đơn vị tính | Kế hoạch | ||||
Năm 2021 | Năm 2022 | Năm 2023 | Năm 2024 | Năm 2025 | |||
I |
|
|
|
|
|
| |
|
HTX | 2.229 | 2.294 | 2.359 | 2.424 | 2.498 | |
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
HTX | 1.292 | 1.312 | 1.342 | 1.377 | 1.430 | |
2 |
HTX | 302 | 307 | 314 | 320 | 327 | |
3 |
HTX | 24 | 25 | 26 | 26 | 27 | |
4 |
HTX | 98 | 98 | 98 | 98 | 98 | |
5 |
HTX | 260 | 266 | 273 | 279 | 286 | |
6 |
HTX | 194 | 200 | 206 | 213 | 218 | |
7 |
HTX | 59 | 86 | 100 | 111 | 112 | |
II |
|
|
|
|
|
| |
|
LHHTX | 18 | 19 | 21 | 23 | 25 | |
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
LHHTX | 8 | 8 | 9 | 10 | 10 | |
2 |
LHHTX | 1 | 1 | 1 | 1 | 1 | |
3 |
LHHTX | 2 | 2 | 2 | 2 | 3 | |
4 |
LHHTX |
|
|
|
|
| |
5 |
LHHTX | 4 | 4 | 5 | 5 | 6 | |
6 |
LHHTX | 3 | 4 | 4 | 5 | 5 | |
7 |
LHHTX |
|
|
|
|
| |
8 |
LHHTX |
|
|
|
|
| |
9 |
LHHTX |
|
|
|
|
| |
III |
|
|
|
|
|
| |
|
THT | 1.593 | 1.643 | 1.693 | 1.743 | 1.793 | |
|
|
|
|
|
|
| |
1 |
THT | 1.115 | 1.150 | 1.185 | 1.220 | 1.255 | |
2 |
THT | 414 | 427 | 440 | 453 | 466 | |
3 |
THT |
|
|
|
|
| |
4 |
THT |
|
|
|
|
| |
5 |
THT |
|
|
|
|
| |
6 |
THT |
|
|
|
|
| |
7 |
THT |
|
|
|
|
| |
8 |
THT | 64 | 66 | 68 | 70 | 72 |
File gốc của Kế hoạch 32/KH-UBND năm 2021 về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2025 đang được cập nhật.
Kế hoạch 32/KH-UBND năm 2021 về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2025
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Thành phố Hà Nội |
Số hiệu | 32/KH-UBND |
Loại văn bản | Kế hoạch |
Người ký | Hà Minh Hải |
Ngày ban hành | 2021-02-03 |
Ngày hiệu lực | 2021-02-03 |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
Tình trạng |