Quyết định 1277/QĐ-BNV năm 2017 Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh Lưu trữ viên chính (hạng II) do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành
Cơ quan ban hành | Bộ Nội vụ | Số hiệu | 1277/QĐ-BNV |
Loại văn bản | Quyết định | Người ký | Triệu Việt Cường |
Ngày ban hành | 12/04/2017 | Ngày hiệu lực | Đã biết Tính năng này chỉ dành cho tài khoản Cơ bản hoặc nâng cao. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký tài khoản. |
Lĩnh vực | Hành chính | Tình trạng | Đã biết Tính năng này chỉ dành cho tài khoản Cơ bản hoặc nâng cao. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký tài khoản. |
BỘ NỘI VỤ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1277/QĐ-BNV | Hà Nội, ngày 12 tháng 04 năm 2017 |
BAN HÀNH TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH LƯU TRỮ VIÊN CHÍNH (HẠNG II)
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Căn cứ Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ;
Căn cứ Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
Căn cứ Thông tư số 13/2014/TT-BNV ngày 31 tháng 10 năm 2014 của Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành lưu trữ;
Căn cứ Thông tư số 19/2014/TT-BNV ngày 04 tháng 12 năm 2014 của Bộ Nội vụ quy định, hướng dẫn công tác đào tạo, bồi dưỡng viên chức;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh Lưu trữ viên chính (hạng II).
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các cơ quan liên quan, Chánh Văn phòng - Bộ Nội vụ, Vụ trưởng Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức - Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
| KT. BỘ TRƯỞNG |
THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH LƯU TRỮ VIÊN CHÍNH (HẠNG II)
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1277/QĐ-BNV ngày 12 tháng 4 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ)
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước
1.1. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước
Mặc dù quản lý là một vấn đề đã được các học giả nghiên cứu từ rất lâu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều khác biệt trong cách hiểu và dẫn đến có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Có tác giả cho rằng, quản lý là việc đạt tới mục tiêu thông qua hoạt động của những người khác. Tác giả khác lại coi quản lý như là hoạt động thiết yếu bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân để đạt tới mục tiêu của nhóm.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy các nhà nghiên cứu đều thống nhất quan điểm cho rằng quản lý xuất hiện cùng với nhu cầu của con người, gắn liền với quá trình phân công và phối hợp người lao động của con người, C. Mác khi nói tới vai trò của quản lý trong xã hội đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên một quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”1. Theo đó, quản lý xã hội là hoạt động gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, với sự liên kết con người với nhau để sống và làm việc.
Hoạt động quản lý gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tổ chức trong xã hội với tư cách là tập hợp những người được điều khiển, định hướng, phối hợp với nhau theo một cách thức định trước nhằm đạt tới một mục tiêu chung nào đó. Trong tất cả các tổ chức đều có những người làm nhiệm vụ gắn kết những người khác, điều khiển người khác giúp cho tổ chức hoàn thành mục tiêu của mình. Những người đó chính là các nhà quản lý. Để một hoạt động quản lý có thể diễn ra, bên cạnh chủ thể quản lý cần có các yếu tố khác như đối tượng quản lý, cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và những mục tiêu mà hoạt động quản lý hướng tới.
Trong quá trình quản lý, nhà quản lý bằng các quyết định quản lý của mình tác động lên một hay một nhóm đối tượng nhất định để buộc đối tượng đó thực hiện những hành động theo ý chí của nhà quản lý.
Như vậy, có thể hiểu quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất định. Mục tiêu này có thể do các thành viên trong tổ chức tự thống nhất với nhau, cũng có thể do người đứng đầu tổ chức xây dựng và giao cho tổ chức thực hiện. Nhưng cũng có những tổ chức được hình thành để thực hiện những mục tiêu được xác định trước. Khi đó, bản thân tổ chức không thể tự mình làm thay đổi mục tiêu.
Theo đối tượng quản lý, các hoạt động quản lý có thể phân chia thành ba nhóm chủ yếu: quản lý giới vô sinh, quản lý giới sinh vật và quản lý xã hội. Như vậy, quản lý xã hội với tư cách là quản lý các hoạt động của con người, giữa con người với nhau trong xã hội loài người là một bộ phận của quản lý chung.
Trong hoạt động quản lý xã hội, có rất nhiều chủ thể tham gia: các đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp, trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng. Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó chính là hoạt động quản lý gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước - bộ phận quan trọng của quyền lực chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. Quản lý nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động của các cơ quan nhà nước thực thi quyền lực nhà nước.
Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước hiện nay ở mọi quốc gia trong quá trình thực thi đều được chia thành ba bộ phận cơ bản là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quan hệ giữa các cơ quan thực thi ba nhánh quyền lực nhà nước này, trước hết là quan hệ giữa cơ quan thực thi quyền lập pháp và cơ quan thực thi quyền hành pháp, xác định cách thức tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và tạo nên sự khác biệt trong cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở các nước khác nhau.
- Quyền lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi luật, tức là quyền xây dựng các quy tắc pháp lý cơ bản để điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội theo định hướng thống nhất của nhà nước. Quyền lập pháp do cơ quan lập pháp thực hiện.
- Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, tức là quyền chấp hành luật và tổ chức quản lý các mặt của đời sống xã hội theo pháp luật. Quyền này do cơ quan hành pháp thực hiện, bao gồm cơ quan hành pháp trung ương và hệ thống cơ quan hành pháp ở địa phương.
- Quyền tư pháp là quyền bảo vệ pháp luật do cơ quan tư pháp (trước hết là hệ thống tòa án) thực hiện.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo cơ chế đó, quyền lập pháp được trao cho Quốc hội. Theo Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Nhân dân trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao. Quyền hành pháp được trao cho Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện bao gồm quyền lập quy và điều hành hành chính. Quyền tư pháp được trao cho hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp và hệ thống Tòa án nhân dân các cấp thực hiện.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất của nhà nước.
Quản lý nhà nước, theo nghĩa hẹp còn gọi là quản lý hành chính nhà nước, là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý xã hội; là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, có thể hiểu quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp gồm ba nội dung cơ bản:
- Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp: hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước: Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và có định hướng: Trong quản lý nhà nước, chức năng tổ chức rất quan trọng, vì không có tổ chức thì không thể quản lý. Quản lý nhà nước có tính định hướng vì thông qua tác động quản lý của mình các chủ thể quản lý nhà nước định hướng hành vi con người và các quá trình xã hội theo những quỹ đạo, mục tiêu nhất định.
- Quản lý nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế: Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước nhưng phải trong khuôn khổ của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền.
Trong nội dung chuyên đề này, quản lý nhà nước được tiếp cận theo nghĩa hẹp là quản lý hành chính nhà nước.
1.2. Các đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước ở nước ta
Khi nói đến đặc điểm của quản lý nhà nước là nói đến những nét đặc thù của quản lý nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý xã hội khác. Với cách tiếp cận như trên, quản lý nhà nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta có các đặc điểm cơ bản sau đây:
1.2.1. Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước
Hoạt động quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước. Tính quyền lực là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt hoạt động quản lý nhà nước với các hoạt động quản lý mang tính xã hội khác.
1.2.2. Quản lý nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu
Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ bản. Mục tiêu quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động thích hợp với những hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt mục tiêu mà Đảng đề ra, các cơ quan hành chính nhà nước cần phải xây dựng chương trình kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn và tổ chức thực hiện.
1.2.3. Quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành - điều hành trên cơ sở pháp luật nhưng có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành và xử lý các công việc cụ thể
Hoạt động quản lý là hoạt động chấp hành pháp luật và điều hành trên cơ sở luật, tức là các quyết định ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước phải phù hợp với pháp luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, nếu mâu thuẫn sẽ bị đình chỉ và bãi bỏ. Tuy nhiên, hoạt động quản lý nhà nước có tính chủ động, sáng tạo, thể hiện ở hoạt động xây dựng các văn bản pháp quy hành chính điều chỉnh các hoạt động quản lý, điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh chưa ổn định và chưa được luật điều chỉnh. Nó được quy định bởi chính bản thân sự phức tạp, phong phú đa dạng của khách thể quản lý. Những khách thể đó là mọi mặt của đời sống xã hội luôn biến động và phát triển, đòi hỏi phải ứng phó nhanh nhạy kịp thời, vận dụng sáng tạo pháp luật, tìm kiếm biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả.
1.2.4. Quản lý nhà nước có tính liên tục và tương đối ổn định trong tổ chức và hoạt động
Nền hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ nhân dân một cách thường xuyên cho nên quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo tính liên tục để thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân, của xã hội và phải có tính ổn định cao để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị - xã hội nào.
1.2.5. Quản lý nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là một hệ thống thông suốt từ Trung ương đến cơ sở, cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên
Đặc điểm này khác với hệ thống các cơ quan dân cử và hệ thống các cơ quan xét xử.
1.2.6. Quản lý nhà nước dưới chế độ XHCN không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý
Đặc điểm này xuất phát từ lý do cơ bản sau: thứ nhất, trong quản lý xã hội thì con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quản lý. Mặt khác, dưới chế độ CNXH, nhân dân là chủ thể quản lý đất nước.
1.2.7. Quản lý nhà nước XHCN mang tính không vụ lợi
Hoạt động quản lý nhà nước XHCN không chạy theo lợi nhuận mà nhằm phục vụ lợi ích công, lợi ích nhân dân.
1.2.8. Quản lý nhà nước XHCN mang tính nhân đạo
Xuất phát từ bản chất nhà nước dân chủ XHCN, tất cả các hoạt động của nền hành chính nhà nước đều có mục tiêu phục vụ con người, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và lấy đó làm xuất phát điểm của hệ thống pháp luật, thể chế, quy tắc và thủ tục hành chính.
1.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Quản lý nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quản lý nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động thực thi quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước, tức là quyền thực thi pháp luật có tính cưỡng bức đối với xã hội. Thông qua hoạt động hành chính nhà nước, các quy phạm pháp luật đi vào đời sống xã hội, điều chỉnh, duy trì trật tự của xã hội theo định hướng mong muốn của nhà nước. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính nhà nước còn đảm bảo cung cấp các dịch vụ công thiết yếu phục vụ cho sự phát triển của cộng đồng và xã hội. Thiếu những dịch vụ này, đời sống của người dân không được đảm bảo, sự phát triển của xã hội không được duy trì và do đó có thể làm lung lay vai trò thống trị của giai cấp thống trị.
Tầm quan trọng của quản lý nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
- Quản lý nhà nước góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa các mục tiêu, ý tưởng, chủ trương, đường lối chính trị của đảng cầm quyền trong xã hội.
- Quản lý nhà nước giữ vai trò định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội theo một định hướng thống nhất thông qua hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách của nhà nước.
- Quản lý nhà nước giữ vai trò điều hành xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo những định hướng thống nhất.
- Quản lý nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, kích thích phát triển, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội: củng cố và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, can thiệp vào sự phát triển xã hội qua hệ thống chính sách.
Ngoài ra, quản lý nhà nước còn giữ vai trò trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô.
2. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước
2.1. Khái niệm nguyên tắc
Nguyên tắc là những quy định mà cá nhân, tổ chức bắt buộc phải tuân thủ trong quá trình thực hiện các hoạt động của mình. Nói cách khác, đó là các tiêu chuẩn định hướng cho hành vi của con người, tổ chức trong quá trình hoạt động để giúp con người hay tổ chức đó đạt được mục tiêu của mình.
Cũng như mọi tổ chức khác, để đạt được mục tiêu của mình, Nhà nước cần phải đặt ra những nguyên tắc định hướng cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Nguyên tắc quản lý nhà nước được hình thành dựa trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan, qua kết quả nghiên cứu các điều kiện thực tế về kinh tế - xã hội, dựa trên bản chất chính trị - xã hội của nhà nước trong thời gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể.
Nguyên tắc quản lý nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo mọi hành động, hành vi quản lý của các cơ quan và cán bộ, công chức trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ. Nói cách khác, đó là các quy tắc, những tư tưởng chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi đòi hỏi các chủ thể hành chính nhà nước phải tuân thủ trong quá trình tổ chức và hoạt động hành chính nhà nước.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước phản ánh các quy luật của hành chính nhà nước và cần phù hợp với sự phát triển của xã hội nên vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan.
2.2. Các nguyên tắc quản lý nhà nước cơ bản
Ngoài những nguyên tắc cơ bản có tính phổ quát đối với mọi nền hành chính, tại mỗi quốc gia khác nhau, do có những khác biệt về nền tảng chính trị, đặc điểm văn hóa, truyền thống, tập quán nên có thể có những quy định mang tính nguyên tắc khác chi phối hoạt động quản lý nhà nước. Ở Việt Nam hiện nay, quản lý nhà nước tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
2.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và đảm bảo sự tham gia, kiểm tra, giám sát của Nhân dân đối với quản lý nhà nước
Đảng lãnh đạo hoạt động quản lý nhà nước bằng việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách; công tác tổ chức và cán bộ; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết Đảng cũng như pháp luật của nhà nước trong các hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Đảng lãnh đạo quản lý nhà nước nhưng không làm thay các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, việc phân định chức năng lãnh đạo của các cơ quan Đảng và chức năng quản lý của cơ quan nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng và cũng là điều kiện cơ bản để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay.
Sự tham gia của Nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ. Quyền tham gia vào hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân được quy định tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội”. Nhân dân lao động tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước bằng nhiều hình thức phong phú như: bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự án luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và nhân viên cơ quan nhà nước, tham gia hoạt động xét xử của tòa án…
Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia giải quyết những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước, địa phương hoặc đơn vị. Ngoài việc tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, những hình thức tham gia trực tiếp khác của nhân dân vào quản lý nhà nước là: Thảo luận, góp ý kiến vào quá trình xây dựng những đạo luật hoặc các quyết định quan trọng khác của nhà nước hoặc của địa phương; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước...Nhân dân còn gián tiếp tham gia vào quản lý nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan, các đại biểu do mình bầu ra (Quốc hội, HĐND các cấp).
Một hình thức tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nước rất quan trọng khác là thông qua các tổ chức xã hội. Pháp luật Việt Nam trao cho các tổ chức xã hội quyền giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để đảm bảo sự tham gia vào quản lý nhà nước của nhân dân có hiệu quả, cần phải thể chế hóa các quyền đó một cách cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của các đại biểu nhân dân và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân.
2.2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định trước hết sự lãnh đạo tập trung đối với những vấn đề cơ bản chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Bên cạnh việc yêu cầu phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, cũng cần phải đảm bảo tính sáng tạo, quyền chủ động nhất định của địa phương và cơ sở. Cấp trung ương giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản, đồng thời thực hiện phân cấp quản lý, giao quyền hạn, trách nhiệm cho các địa phương, các ngành trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện các văn bản của cấp trên.
Trong hoạt động quản lý nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực, nhiều cấp quản lý, từ vấn đề tổ chức bộ máy đến cơ chế vận hành của bộ máy. Chẳng hạn như quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý nhà nước trước cơ quan dân cử; phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý nhà nước các cấp; nguyên tắc “hai chiều trực thuộc” đảm bảo kết hợp tốt quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, kết hợp hài hòa lợi ích của cả nước với lợi ích của từng địa phương...
Tập trung dân chủ đối lập với xu hướng cơ quan cấp trên “làm thay” “lấn sân” vào thẩm quyền của cơ quan cấp dưới, đồng thời hạn chế việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho cấp trên, tức là phải khắc phục bệnh tập trung quan liêu, đồng thời chống biểu hiện tùy tiện, tự do vô chính phủ, cục bộ địa phương, ngành.
2.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là một nguyên tắc Hiến định. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Điều đó có nghĩa là hệ thống hành chính nhà nước phải chấp hành luật và các quyết định của Quốc hội trong chức năng thực hiện quyền hành pháp; Khi ban hành các quyết định quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật và các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Để thực hiện nguyên tắc này, cần làm tốt các nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật
- Tổ chức thực hiện tốt pháp luật đã ban hành
- Xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật
- Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho toàn dân.
2.2.4. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là hai mặt không tách rời nhau mà phải kết hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế nào, nằm trên địa bàn quản lý đều thuộc một ngành kinh tế - kỹ thuật nhất định và chịu sự quản lý của ngành (Bộ). Mặt khác, các đơn vị kinh tế thuộc các ngành kinh tế - kỹ thuật khác nhau đều được phân bổ trên những địa bàn nhất định, chúng có quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế và gắn bó với nhau trên các mặt xã hội, tạo nên một cơ cấu kinh tế - xã hội và chịu sự quản lý của chính quyền địa phương. Đây là sự thống nhất giữa hai mặt: Cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung.
Các hoạt động quản lý theo ngành của cơ quan nhà nước nhằm đề ra các chính sách phát triển toàn ngành, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh tế phát huy tính chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách, xây dựng chiến lược, sử dụng các đòn bẩy... còn quản lý sản xuất kinh doanh là quyền chủ động của đơn vị sản xuất kinh doanh.
Nội dung quản lý theo lãnh thổ nhằm tổ chức sự điều hòa phối hợp các hoạt động của các ngành, các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... trên phạm vi cả nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ với mục tiêu bảo đảm pháp chế XHCN, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
2.2.5. Nguyên tắc phân biệt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh.
Nhà nước ta nắm quyền sở hữu với những tư liệu sản xuất chủ yếu, có khả năng, nhiệm vụ tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô cả nước, trực tiếp tổ chức và quản lý các thành phần kinh tế nhưng nhà nước không phải là người trực tiếp kinh doanh. Nhà nước tôn trọng tính độc lập, tự chủ của các đơn vị kinh doanh. Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế hiện nay, trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Định hướng và hỗ trợ phát triển thông qua kế hoạch và chính sách kinh tế
- Hoạch định và thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia
- Tổ chức nền kinh tế và điều chỉnh bằng các công cụ và biện pháp vĩ mô.
- Tổ chức và giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh tế.
Nhà nước thực hiện các chức năng trên thông qua một hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; thông qua việc tổ chức hệ thống các tổ chức kinh tế của nhà nước; thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh bình đẳng với nhau trước pháp luật; có quyền tự chủ về tài chính và thực hiện hạch toán kinh tế; có nhiệm vụ phát huy năng lực kinh doanh có hiệu quả đạt mục tiêu thu lợi nhuận cao trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý bằng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
Việc phân biệt và kết hợp tốt hai chức năng này với nhau trong một hệ thống thống nhất tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế và hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.
2.2.6. Nguyên tắc công khai, minh bạch
Tổ chức hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước ta là nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức nên phải công khai hóa, thực hiện đúng chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tạo điều kiện thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động hành chính nhà nước.
3. Chủ thể và khách thể của quản lý nhà nước
Trong hoạt động quản lý nhà nước luôn luôn có chủ thể và khách thể.
3.1. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý là các cá nhân, tổ chức có quyền lực nhất định buộc các đối tượng quản lý phải tuân thủ các quy định do mình đề ra để đạt được những mục tiêu đã định trước.
Chủ thể quản lý nhà nước về mặt chính trị là nhân dân lao động; Nhà nước là tổ chức chính trị do Nhân dân bầu ra, ủy quyền, trao quyền để quản lý xã hội. Chủ thể quản lý về mặt pháp lý là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, các cán bộ, công chức trong hệ thống đó.
Chủ thể quản lý nhà nước có tính quyền lực nhà nước, phải gắn liền thẩm quyền, tách rời thẩm quyền thì không có chủ thể. Lĩnh vực hoạt động quản lý rất rộng, bao gồm tất cả lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội. Quản lý chủ yếu thông qua các quyết định quản lý và hành vi hành chính.
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ thì cơ quan hành chính nhà nước gồm có:
+ Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm Chính phủ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ, các Bộ và cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng của ngành, lĩnh vực mà mình đảm nhiệm.
+ Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương gồm Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực trong phạm vi địa giới hành chính nhất định của địa phương mình. Các cơ quan hành chính nhà nước này có mối liên hệ mật thiết, thống nhất, chặt chẽ với nhau khi tham gia vào các hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
- Căn cứ vào chức năng quản lý, có thể phân chia thành cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực và cơ quan quản lý theo lãnh thổ.
3.2. Khách thể quản lý
Khách thể quản lý là những gì mà hoạt động quản lý hướng tới, tác động tới, bao gồm: các quá trình kinh tế - xã hội và các hành vi của con người hoặc các tổ chức.
Khách thể của quản lý nhà nước có các đặc điểm sau:
- Đa dạng, phong phú, nhiều loại khác nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, bao gồm nhiều loại hành vi, quá trình thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau;
- Luôn luôn vận động và biến đổi theo chiều hướng tích cực và tiêu cực;
- Tính liên tục vận động, biến đổi và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau;
- Tính tách biệt tương đối với chủ thể quản lý nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với chủ thể quản lý.
Khách thể được phân thành nhiều loại, mỗi loại có đặc điểm riêng. Phân loại khách thể để có phương pháp quản lý riêng cho từng loại. Khách thể luôn luôn vận động, có khả năng tự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh và môi trường của điều kiện hoạt động. Hiểu được các mặt của khách thể, công tác quản lý nhà nước tạo được sự vững chắc và ổn định XH, tạo điều kiện cho khách thể luôn luôn vận động và phát triển.
* Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý
Chủ thể quản lý làm nảy sinh ra các tác động quản lý. Khách thể quản lý chịu tác động của chủ thể để sản sinh ra các giá trị vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Chủ thể quản lý tồn tại chính là vì nhu cầu xã hội và vì khách thể quản lý, nếu không quan tâm đến khách thể thì chủ thể tồn tại và hoạt động không có mục đích.
Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý, nhân dân lao động vừa là chủ thể vừa là khách thể.
Bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, một công chức lãnh đạo nào dù ở vị trí cao nhất cũng vừa là chủ thể, vừa là khách thể.
Thứ nhất, chủ thể của quản lý xã hội có nhiều chủ thể tham gia quản lý khác nhau (tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội…).
Thứ hai, đối tượng quản lý của quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ nhân dân, mọi cá nhân sống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia và công dân làm việc bên ngoài lãnh thổ quốc gia, phạm vi của nó mang tính toàn diện trên mọi lĩnh vực. Còn đối tượng quản lý của quản lý xã hội nó bao gồm các cá nhân, các nhóm trong phạm vi một tổ chức.
Thứ ba, quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu để duy trì trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Quản lý xã hội mang tính quyền lực xã hội sử dụng các quy phạm quy chế nội bộ để điều chỉnh các quan hệ.
Thứ tư, quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao.
Thứ năm, mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
4. Các hình thức và phương pháp quản lý nhà nước
4.1. Hình thức quản lý hành chính
Hình thức hoạt động quản lý nhà nước được hiểu là sự biểu hiện của các hoạt động quản lý của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Quản lý nhà nước có nhiều hình thức hoạt động. Việc lựa chọn hình thức hoạt động cần phải được tiến hành trên cơ sở những quy luật sau:
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với chức năng quản lý.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với nội dung và tính chất của những nhiệm vụ quản lý cần giải quyết.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với những đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể.
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với mục đích cụ thể của tác động quản lý.
Hình thức quản lý nhà nước có thể được chia thành 2 loại là: hình thức pháp và hình thức không pháp lý.
4.1.1. Hình thức pháp lý
- Ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (lập quy)
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy định những quy tắc xử sự chung; những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền, thủ tục tiến hành hoạt động quản lý nhà nước.
+ Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan nhà nước. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một trường hợp cụ thể, trong điều kiện cụ thể. Việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật làm pháp sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
Thông qua việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật, các chủ thể quản lý nhà nước tác động một cách tích cực và trực tiếp đến mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Các hoạt động mang tính chất pháp lý khác như:
+ Áp dụng những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật (như kiểm tra giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…)
+ Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký phương tiện giao thông…
+ Lập và cấp các giấy tờ nhất định như lập biên bản về vi phạm hành chính.
+ Hoạt động công chứng, chứng thực...
4.1.2. Hình thức không pháp lý
- Tổ chức hội nghị
- Sử dụng các phương tiện kỹ thuật
- Hình thức phối hợp, kết hợp..
4.2. Phương pháp quản lý nhà nước
Phương pháp quản lý nhà nước là cách thức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết.
Trong quá trình hoạt động, các chủ thể quản lý nhà nước sử dụng rất nhiều phương pháp quản lý. Có thể phân thành 2 nhóm phương pháp quản lý nhà nước:
4.2.1. Nhóm thứ nhất gồm phương pháp của các khoa học khác được quản lý nhà nước vận dụng cụ thể là:
- Phương pháp kế hoạch hóa:
Các cơ quan hành chính nhà nước dùng phương pháp này để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, lập quy hoạch tổng thể và chuyên ngành; dự báo xu thế phát triển; đặt chương trình mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Sử dụng phương pháp này để tính toán các chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
- Phương pháp thống kê:
Phương pháp này được các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng để tiến hành điều tra khảo sát, sử dụng các phương pháp tính toán để phân tích tình hình và nguyên nhân của hiện tượng quản lý, làm căn cứ khoa học cho việc ra quyết định quản lý.
Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu, tổng hợp và chỉnh lý để tính toán tốc độ phát triển của các chỉ tiêu, kế hoạch nhất định.
- Phương pháp toán học:
Với phương pháp này, cơ quan hành chính nhà nước ứng dụng ma trận, vận trù học, sơ đồ mạng…trong quản lý; sử dụng các máy điện toán để thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin; toán học hóa các chương trình mục tiêu kinh tế xã hội; tính toán các cân đối liên ngành trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý.
- Phương pháp tâm lý - xã hội:
Phương pháp tâm lý xã hội nhằm tác động vào tâm tư, tình cảm của người lao động, tạo cho họ không khí hồ hởi, yêu thích công việc, gắn bó với tập thể lao động, hăng hái làm việc, giải quyết cho họ những vướng mắc trong công tác, động viên, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn về cuộc sống. Do vậy, tác động tâm lý - xã hội là phương pháp quản lý rất quan trọng.
- Phương pháp sinh lý học:
Trên cơ sở phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước tạo ra các điều kiện làm việc phù hợp với sinh lý của con người, tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết kiệm các thao tác không cần thiết nhằm tăng cường năng suất lao động như: bố trí phòng làm việc; bàn làm việc, ghế ngồi; vị trí điện thoại; vị trí để tài liệu; màu sắc và ánh sáng…
4.2.2. Nhóm thứ hai gồm 4 phương pháp chủ yếu, đặc thù của bản thân quản lý nhà nước:
- Phương pháp thuyết phục (còn gọi là phương pháp tuyên truyền, giáo dục);
- Phương pháp kinh tế;
- Phương pháp hành chính;
- Phương pháp cưỡng chế;
Phương pháp thuyết phục: Thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
Nội dung của phương pháp thuyết phục:
+ Phương pháp thuyết phục do chủ thể QLNN sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
+ Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
+ Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh... làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.
Phương pháp kinh tế: là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người.
- Đặc điểm của phương pháp kinh tế.
+ Đây là phương pháp tác động gián tiếp đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế như việc quy định chế độ thưởng, xử phạt.
+ Phương pháp kinh tế được thể hiện trong việc sử dụng đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
Phương pháp hành chính: là phương thức tác động tới cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý bằng cách quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh dựa trên quyền lực nhà nước và phục tùng.
Đặc điểm của phương pháp hành chính
+ Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng cách đơn phương quy định nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.
+ Phương pháp này được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật. Các quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể quản lý do pháp luật quy định. Ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp chỉ được ra chỉ thị, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khuôn khổ, chức năng, quyền hạn của mình do pháp luật quy định.
Tóm lại, phương pháp hành chính là phương thức tác động đến cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý thông qua quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh và sự phục tùng.
Phương pháp cưỡng chế: Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế về mặt tài sản hoặc tự do thân thể.
Nội dung của phương pháp cưỡng chế:
+ Chủ thể áp dụng phương pháp cưỡng chế phải là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như: cơ quan công an, ủy ban nhân dân…
+ Đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định như: cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
+ Biểu hiện của phương pháp cưỡng chế là buộc cá nhân, tổ chức phải chấp hành các quyết định đơn phương của chủ thể quản lý. Cụ thể là buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định về mặt tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc tự do thân thể của cá nhân.
- Phân loại: Có bốn loại cưỡng chế nhà nước: Cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự, cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hành chính.
+ Cưỡng chế hình sự: là biện pháp cưỡng chế do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi phạm tội.
+ Cưỡng chế dân sự: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm dân sự, gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể hoặc công dân.
+ Cưỡng chế kỷ luật: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với những cán bộ công chức có hành vi vi phạm kỷ luật nhà nước.
+ Cưỡng chế hành chính: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục đích ngăn chặn hay phòng ngừa các vi phạm pháp luật…
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong 4 phương pháp của nhóm thứ hai này thì phương pháp thuyết phục được coi trọng hàng đầu, đòi hỏi phải được sử dụng thường xuyên, liên tục và nghiêm túc; phương pháp tổ chức là hết sức quan trọng và có tính cấp bách; phương pháp kinh tế là cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lý nhà nước; phương pháp hành chính là rất cần thiết và khẩn trương nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn.
5. Cải cách hành chính nhà nước
5.1. Sự cần thiết phải cải cách hành chính ở Việt Nam
5.1.1. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN
Cải cách hành chính hướng tới việc nâng cao khả năng hoạt động của bộ máy hành chính để giúp cho quá trình quản lý xã hội của Nhà nước được tốt hơn, trước hết là quản lý nền kinh tế, định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước. Mỗi nền kinh tế cần phải được quản lý theo cách thức riêng. Quản lý nhà nước đối với kinh tế là để cho nền kinh tế phát triển ổn định, theo đúng định hướng, khắc phục và giảm thiểu những nhược điểm của cơ chế thị trường.
Sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới đòi hỏi Nhà nước, mà trực tiếp là nền hành chính phải hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực pháp lý theo cơ chế mới để đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt phải điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính trong việc thực hiện chức năng quản lí nhà nước.
5.1.2. Những hạn chế, bất cập của nền hành chính
Nền hành chính nhà nước ở nước ta trong quá trình đổi mới chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế quản lý mới cũng nhu cầu của nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao, thể hiện trên các mặt:
- Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định rõ và phù hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa rành mạch;
- Hệ thống thể chế hành chính thiếu đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương chưa nghiêm;
- Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý hành chính thiếu thông suốt; cơ chế, chính sách tài chính đối với với hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công chưa hợp lý;
- Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức hạn chế về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân còn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, công chức;
- Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động khi xử lý các tình huống phức tạp.
- Chế độ quản lí tài chính chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Việc sử dụng và quản lí nguồn tài chính công thiếu chặt chẽ, lãng phí và kém hiệu quả.
5.1.3. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa là một quá trình khách quan có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các quốc gia. Quá trình này khiến cho các quốc gia trên toàn thế giới trở nên gần nhau hơn, quan hệ với nhau chặt chẽ hơn và sự thẩm thấu, phụ thuộc vào nhau cũng nhiều hơn. Các quốc gia đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới ở tầm quốc tế.
Hội nhập quốc tế là một đòi hỏi đối với các quốc gia để có thể tận dụng được cơ hội, đồng thời hạn chế những thách thức trong toàn cầu hóa để có thể phát triển. Bộ máy hành chính của các quốc gia phải vận động nhanh nhạy hơn để tăng cường khả năng cạnh tranh của quốc gia trong quá trình hội nhập và phân công lao động mang tính toàn cầu. Điều đó đòi hỏi thể chế hành chính và đội ngũ cán bộ phải thích ứng với pháp luật và thông lệ quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia.
5.1.4. Sự phát triển của khoa học - công nghệ
Những ảnh hưởng của cách mạng kỹ thuật - công nghệ có ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động quản lý. Những biến đổi này đặt ra trước nền hành chính truyền thống những thách thức mới. Điều đó đòi hỏi phải cải cách nền hành chính, sắp xếp lại bộ máy, đổi mới phương pháp quản lí nhân sự để theo kịp những tiến bộ chung của thế giới.
5.1.5. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với Nhà nước ngày càng cao
Công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu, nâng cao mức sống và nhận thức của người dân. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi của người dân đối với các hoạt động của nhà nước ngày càng cao hơn. Nhân dân đòi hỏi và mong muốn được thực hiện quyền làm chủ hợp pháp một cách đầy đủ, được yên ổn sinh sống, làm ăn trong môi trường an ninh, trật tự và dân chủ, không bị phiền hà, sách nhiễu, được đảm bảo cung cấp các dịch vụ công một cách đầy đủ và có chất lượng. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải phát huy dân chủ, thu hút sự tham gia của người dân vào quản lí nhà nước và phải công khai, minh bạch trong các hoạt động của mình.
5.2. Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam (2011 - 2020)
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 theo Nghị quyết số 3oC/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ đã đề ra mục tiêu:
1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
2. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
3. Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước.
4. Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Theo đó, Chương trình xác định 6 nội dung cơ bản của cải cách hành chính:
- Cải cách thể chế hành chính nhà nước.
- Cải cách thủ tục hành chính
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
- Cải cách tài chính công
- Hiện đại hóa hành chính
Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện giai đoạn 2011 - 2015 và tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn II (2016 - 2020), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó, tập trung thực hiện các trọng tâm cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020 là: Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công. Các nhiệm vụ được xác định là:
1) Cải cách thể chế
a) Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện đồng bộ cải cách hành chính, cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, vận hành một cách hiệu lực và hiệu quả, thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và xây dựng xã hội dân chủ.
b) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tuân theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
c) Hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật của nền hành chính phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
d) Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013 và các chuẩn mực quốc tế, mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
đ) Đến năm 2020, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với chi phí tuân thủ thấp, dựa trên hệ thống chính sách đã được hoạch định trong từng lĩnh vực phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
e) Thể chế hóa nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước; phòng, chống tham nhũng; tăng cường hiệu quả quản trị nhà nước; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị.
g) Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế về sở hữu, doanh nghiệp nhà nước; xác định rõ vai trò quản lý của Nhà nước đối với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà nước.
h) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
i) Thực hiện bước chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ việc đặt trọng tâm vào xây dựng và hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật.
k) Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quá trình tham mưu, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ tình trạng lợi ích cục bộ trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2) Cải cách thủ tục hành chính
a) Tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc quy định thủ tục hành chính ngay từ khâu dự thảo; thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cải cách thủ tục hành chính.
b) Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; ưu tiên các thủ tục hành chính phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực trọng tâm: Đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở; thuế; hải quan; xuất khẩu; nhập khẩu; y tế; tiếp cận điện năng; quản lý thị trường, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế trong môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng, góp phần giải phóng nguồn lực xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
c) Tăng cường xây dựng và hoàn thiện các hình thức công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính; chú trọng việc công bố thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý hoặc thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành, địa phương; công khai thủ tục hành chính trên cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính và trên trang thông tin điện tử; niêm yết thủ tục hành chính tại trụ sở cơ quan, đơn vị nơi trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính.
d) Triển khai thiết lập và đưa vào vận hành Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền.
đ) Xây dựng Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; nghiên cứu, nhân rộng mô hình hay, cách làm mới trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính trên phạm vi toàn quốc.
e) Tiếp tục tổ chức thực hiện có kết quả Đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020.
g) Tập trung cải cách thủ tục hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập, dịch vụ công và các thủ tục hành chính liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
3) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
a) Nghiên cứu rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, sắp xếp lại các cơ quan, tổ chức bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển.
b) Phân loại các cơ quan hành chính làm cơ sở xác định tổ chức, bộ máy phù hợp với yêu cầu quản lý và nâng cao chất lượng cung ứng các nhu cầu cơ bản thiết yếu phục vụ nhân dân.
c) Nghiên cứu xây dựng và đưa vào áp dụng mô hình đánh giá tổ chức.
d) Hoàn thiện các quy định về phân cấp quản lý Trung ương - địa phương trên các lĩnh vực quản lý nhà nước theo nguyên tắc cơ quan hành chính nhà nước cấp trên thực hiện những việc mà cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới làm không hiệu quả. Xác định rõ ràng, minh bạch các mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc, điều kiện và chế tài các quy định phân cấp.
đ) Tiếp tục cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020.
e) Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực. Phân loại đơn vị sự nghiệp để thực hiện các hình thức chuyển đổi phù hợp (hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, cổ phần hóa, hợp tác công tư...). Đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập có khả năng tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, nhân sự và khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài nhà nước. Tăng cường kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước và nhân dân đối với hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
g) Quy định chặt chẽ điều kiện, tiêu chí thành lập, giải thể, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp theo hướng khuyến khích sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, bảo đảm cơ bản không tăng số lượng đơn vị hành chính ở địa phương.
4) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
a) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; 100% các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm.
b) Đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công vụ của cán bộ, công chức.
c) Bổ sung và hoàn thiện các chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của công chức, viên chức.
d) Đổi mới phương thức tuyển dụng công chức, viên chức về quy trình, thẩm quyền, trách nhiệm và có quy định về xử lý các vi phạm; tổ chức thí điểm đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo, quản lý.
đ) Đổi mới công tác thống kê, báo cáo và quản lý hồ sơ công chức, viên chức.
e) Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế.
g) Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
h) Tổ chức thực hiện việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức theo các quy định của pháp luật, gắn với các nội dung khác của công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức.
i) Áp dụng công nghệ thông tin, các mô hình, phương pháp, công nghệ hiện đại trong công tác tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.
k) Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống ở mức trung bình khá trong xã hội.
5) Cải cách tài chính công
a) Kiểm soát chặt chẽ ngân sách nhà nước chi thường xuyên và đầu tư công.
b) Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn vị hành chính và sự nghiệp.
c) Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài.
d) Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ.
đ) Tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện có hiệu quả cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.
e) Đẩy mạnh xã hội hóa, hoàn thiện thể chế và tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hình thức công - tư (PPP) đối với việc cung cấp dịch vụ công trong y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng.
g) Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công.
6) Hiện đại hóa hành chính
a) Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin hành chính điện tử của Chính phủ; xây dựng Cổng dịch vụ công Quốc gia để tích hợp tất cả các dịch vụ công trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương.
b) Triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính quyền điện tử; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân.
c) Phát triển các hệ thống thông tin thiết yếu cho công tác ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp; bảo đảm triển khai đồng bộ với việc phát triển các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia; tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin, trao đổi, xử lý hồ sơ qua mạng.
d) Nâng cao chất lượng phục vụ và tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông qua đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, tổ chức; cung cấp các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ cá nhân và tổ chức mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau.
đ) Kết hợp chặt chẽ với triển khai các nội dung cải cách hành chính để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm tăng tốc độ xử lý công việc, giảm chi phí hoạt động.
e) Nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan hành chính thông qua việc sử dụng hiệu quả mạng thông tin điện tử hành chính.
g) Xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tại các cơ quan hành chính theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008, ưu tiên triển khai ISO điện tử.
h) Tổng kết, đánh giá hoạt động của Trung tâm hành chính tập trung, mô hình trung tâm hành chính công của một số địa phương. Tiếp tục đầu tư xây dựng trụ sở cơ quan hành chính, đặc biệt là trụ sở cấp xã.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ: Nghị quyết số 3oC/NQ-CP ngày 08/11/2011 Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia. HN. 2011;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII. NXB.Chính trị Quốc gia. HN. 2016;
4. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013;
5. Học viện Hành chính Quốc gia: Giáo trình hành chính học;
6. Quốc hội: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015;
7. Quốc hội: Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015;
8. Quốc hội: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2015;
9. Quốc hội: Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2015;
10. Quốc hội: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
11. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020;
12. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam;
13. Nguyễn Cửu Việt: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia. HN. 2007.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Trình bày các đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước ở nước ta;
2. Phân tích vai trò của quản lý nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội;
3. Phân tích các nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước;
4. Trình bày những nội dung cơ bản của Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020;
5. Nêu các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020.
1. Khái niệm, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển xã hội.
Cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm cụ thể cho “pháp luật lưu trữ”. Xuất phát từ khái niệm chung về pháp luật là các quy tắc được đặt ra mang tính bắt buộc chung cho mọi thành viên trong xã hội và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, có thể hiểu khái niệm pháp luật lưu trữ “là hệ thống các quy tắc, các quy định được nhà nước đặt ra liên quan đến việc bảo quản, sử dụng, bảo hộ và tổ chức lưu trữ trong một nước…nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực lưu trữ”.
1.2. Phạm vi điều chỉnh (Điều 1): Pháp luật lưu trữ điều chỉnh các mối quan hệ giữa nhà nước, xã hội và công dân trong lĩnh vực lưu trữ. Điều 1 của Luật Lưu trữ qui định: “Luật này quy định về hoạt động lưu trữ; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động lưu trữ; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ lưu trữ; hoạt động dịch vụ lưu trữ và quản lý về lưu trữ”.
1.3. Đối tượng áp dụng (Điều 1): Luật này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) và cá nhân.
2. Vai trò và đặc điểm của pháp luật lưu trữ
2.1. Vai trò của Pháp luật lưu trữ (PPLT)
Thứ nhất: PLLT là công cụ thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ
Hoạt động lưu trữ nhằm mục đích đảm bảo cho việc quản lý, bảo quản, bảo vệ an toàn và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ. Để thực hiện được điều đó, nhà nước cần hoạch định chính sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Việc thực hiện chính sách đó cần được dựa trên cơ sở pháp lý chặt chẽ và minh bạch. Pháp luật lưu trữ chính là công cụ để thực hiện các đường lối chính sách nhà nước hoạch định nhằm phát triển ngành lưu trữ.
Thứ hai: PLLT là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực lưu trữ
Tài liệu lưu trữ là một loại tài sản của quốc gia, cũng là của nhân dân và mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tài liệu lưu trữ. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền lợi cũng như nghĩa vụ của từng cá nhân và tổ chức trong việc bảo quản an toàn, phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ cũng như sử dụng tài liệu lưu trữ vào những mục đích khác nhau, cần được dựa trên những quy định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật lưu trữ là cơ sở để các tổ chức và cá nhân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với tài liệu lưu trữ.
Thứ 3: PLLT là công cụ thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ
Tài liệu lưu trữ là tài sản quốc gia, hơn nữa, đây là một loại tài sản đặc biệt bởi giá trị của tài liệu lưu trữ là giá trị thông tin. Do là một loại tài sản đặc biệt của quốc gia nên việc quản lý tài liệu lưu trữ thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Nói cách khác, công tác lưu trữ là một lĩnh vực của quản lý nhà nước và bất cứ một lĩnh vực quản lý nhà nước nào cũng cần được dựa trên những quy định của pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật lưu trữ là công cụ thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực LT.
2.2. Đặc điểm của pháp luật lưu trữ:
- Tính xã hội của pháp luật lưu trữ:
Bản chất của pháp luật là đề ra những quy tắc xử sự chung cho mọi thành viên trong xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, khiến xã hội phát triển trong một khuôn khổ và trong sự ổn định và mọi thành viên “đều bình đẳng trước pháp luật”. Như vậy, pháp luật lưu trữ, trước hết cũng mang đặc điểm chung đó của pháp luật. Tức là có “tính xã hội”. Bởi lẽ: Tài liệu lưu trữ là sản phẩm của các cơ quan, tổ chức và các tầng lớp nhân dân và được coi là tài sản của Quốc gia, của toàn dân. Tính xã hội của pháp luật lưu trữ được thể hiện ở chỗ:
+ Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng tài liệu lưu trữ cho mục đích chính đáng của mình.
+ Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ bảo vệ tài liệu lưu trữ.
+ Tài liệu lưu trữ cần được sử dụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho Quốc gia, cho cơ quan, tổ chức và nhân dân.
+ Mọi thành viên trong xã hội đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về lưu trữ
- Tính thống nhất trong luật pháp lưu trữ: Bên cạnh tính xã hội, pháp luật lưu trữ còn mang tính thống nhất. Tính thống nhất được hiểu là những quy định, chế tài của pháp luật lưu trữ được áp dụng thống nhất cho các đối tượng và trên toàn lãnh thổ của mỗi quốc gia.
- Tính dân tộc của pháp luật lưu trữ: Tài liệu lưu trữ là tài sản chung của một quốc gia, của một dân tộc. Pháp luật lưu trữ, trước hết là công cụ bảo vệ tài liệu lưu trữ là tài sản quốc gia, bảo vệ thông tin tài liệu lưu trữ. Những thông tin này có thể là những bí mật quốc gia, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc phòng và vận mệnh quốc gia
3. Khái quát lịch sử phát triển của pháp luật lưu trữ Việt Nam
3.1. Pháp luật lưu trữ thời phong kiến
Dưới thời phong kiến, đặc biệt là thời kỳ trước Nguyễn, công tác lưu trữ chưa nhận được sự quan tâm của các triều đại, chưa có các văn bản quy phạm cũng như các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn thư- lưu trữ. Tuy nhiên, dưới thời Lê sơ, đã bắt đầu có những quy định đầu tiên về công tác lưu trữ. Trong bộ “Quốc triều hình luật” ban hành năm 1483 dưới triều vua Lê Thánh Tông đã có hai điều khoản quy định về vấn đề này. Đó là điều 195 và Điều 521. Nội dung của các điều khoản này đã đề ra những chế tài nghiêm ngặt nếu vi phạm những quy định về công tác bảo quản và lưu trữ sổ sách. Điều đó cho thấy, triều Lê đã bắt đầu ý thức được vai trò của văn bản, tài liệu và tầm quan trọng của việc bảo quản chúng, đã có những quy định mang tính quy phạm đầu tiên. Tuy nhiên, vào thời gian này, công tác lưu trữ và công tác văn thư chưa tách biệt và nội dung của những điều khoản pháp luật chưa xuất phát từ ý thức về vai trò của công tác lưu trữ như một lĩnh vực của hoạt động quản lý. Những quy định còn ít và sơ sài.
Đến thời kỳ nhà Nguyễn, triều đình đã ý thức rõ ràng hơn về vai trò của văn bản, giấy tờ và công tác lưu trữ đã bắt đầu hình thành như một lĩnh vực hoạt động riêng biệt. Năm 1829, Minh Mệnh đã cho thành lập Tào Biểu bạ với chức năng chuyên trách lưu trữ tài liệu hình thành trong hoạt động của nhà Vua và Nội các do Tào Thượng bảo và Tào Ký chú giao nộp hàng tháng. Có thể nói, Tào Biểu bạ cũng là cơ quan lưu trữ chuyên trách đầu tiên của Việt Nam. Triều Nguyễn cũng đã ban hành nhiều hơn những văn bản quy phạm quy định trách nhiệm và hình phạt trong công tác lưu trữ. Nhìn chung, triều Nguyễn đã tạo ra sự phát triển nhảy vọt và là bước ngoặt trong công tác lưu trữ Việt Nam thời kỳ này. Tuy nhiên, các qui định mang tính quy phạm pháp luật vẫn không tập trung vào một vài văn bản mà rải rác ở các sắc, chỉ, dụ…của các hoàng đế.
Thời Pháp thuộc (từ năm 1858-1945)
Năm 1858, Pháp bắt đầu quá trình xâm lược Việt Nam. Cùng với quá trình đó, chính quyền Pháp cũng có những hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ nhằm mục đích bảo quản tài liệu phục vụ những mục đích củng cố và khai thác thuộc địa. Ngày 3/10/1868 Quyền thống đốc Nam Kỳ đã ký Quyết định 134 qui định thành phần tài liệu được sản sinh ra trong quá trình hoạt động của các cơ quan ở Nam Kỳ phải nộp lưu vào lưu trữ của thanh tra thuộc địa. Sau đó là hàng loạt các văn bản quy định về trách nhiệm của các cơ quan lưu trữ. Đặc biệt, ngày 26/4/1909 quyền phó Thống đốc Nam Kỳ đã ký ban hành Nghị định thành lập Kho lưu trữ Nam Kỳ. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử lưu trữ Đông Dương.
Ngày 29/11/1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Nha Lưu trữ -Thư viện Đông Dương trực thuộc Phủ toàn quyền Đông Dương. Nha có nhiệm vụ tổ chức lại các kho lưu trữ, chỉ đạo, thanh tra công tác lưu trữ, tổ chức thư viện và thanh tra thư viện.
Ngày 26/12/1918, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương.
Hai Nghị định này đã làm thay đổi diện mạo của công tác lưu trữ thời Pháp thuộc trên lãnh thổ Đông Dương và để lại dấu ấn lịch sử trong quá trình phát triển của công tác lưu trữ Việt Nam.
3.2. Pháp luật lưu trữ Việt Nam từ năm 1945 đến nay
- Giai đoạn 1945-1954
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập, Chính phủ lâm thời đã chú ý đến việc củng cố công tác công văn, giấy tờ. Ngày 13/11/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ký sắc lệnh số 65 qui định về nhiệm vụ của Đông Dương bác cổ học viện. Đến ngày 3/1/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời ký thông đạt số 1-C/VP về giữ gìn và cấm tiêu hủy công văn, hồ sơ cũ. Đây là một văn bản quan trọng, đánh dấu sự phát triển mới trong công tác lưu trữ. Ngày 3/1/1946 cũng đã trở thành ngày truyền thống của ngành Lưu trữ Việt Nam.
+ Giai đoạn 1954-1975
Sau năm 1954, Việt Nam bước sang một giai đoạn lịch sử mới. Miền Bắc khôi phục nền kinh tế sau kháng chiến chống Pháp và làm hậu phương cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Trong hoàn cảnh đó, công tác lưu trữ chưa phải là mối quan tâm đầu tiên của Chính phủ. Mặc dù vậy, Hội đồng Chính phủ cũng đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật, trong đó, quan trọng nhất là Điều lệ về công tác công văn, giấy tờ và công tác lưu trữ ban hành kèm Nghị định số 142-CP ngày 28/9/1963 và Thông tư số 09-BT ngày 15/3/1965 về tổ chức lưu trữ ở các Bộ và kho lưu trữ địa phương.
Điều lệ và Nghị định số 142-CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký là văn bản quy phạm pháp luật tương đối hoàn chỉnh về công tác văn thư và lưu trữ, được áp dụng lâu dài (đến năm 2004). Trong tổng số 44 điều thì có tới 20 điều quy định về công tác lưu trữ: về tổ chức lưu trữ, nhiệm vụ lưu trữ các ngành và vấn đề thực hiện nghiệp vụ lưu trữ
Văn bản pháp luật về lưu trữ của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dù tồn tại trong một thời gian rất ngắn nhưng cũng đã để lại những dấu ấn nhất định trong lịch sử công tác lưu trữ Việt Nam. Điển hình là sự ra đời của bộ Luật về Văn khố tại Việt Nam. Luật được ban hành ngày 26/12/1973, gồm 4 chương, 14 điều, quy định những vấn đề cơ bản về công tác lưu trữ, như: khái niệm “tài liệu lưu trữ”, trách nhiệm của các cơ quan về giữ gìn, bảo quản tài liệu lưu trữ; tổ chức và điều hành công tác lưu trữ, xử lý vi phạm; quyền lợi và chế độ khai thác, sử dụng tài liệu…
+ Giai đoạn 1975-1986
Ngày 26/12/1981 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 168-HĐBT về việc thành lập Phông lưu trữ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Phông lưu trữ QGVN). Đây là dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật lưu trữ Việt Nam. Tại Điều 2 của Quyết định đã quy định: “Phông LTQGVN là toàn bộ khối tài liệu có ý nghĩa về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, xã hội, lịch sử…của nước CHXHCNVN không kể thời gian, văn tự, chế độ xã hội, xuất xứ, nơi bảo quản, phương pháp và kỹ thuật làm ra. Đó là tài sản XHCN…”. Điều 4 của Quyết định quy định Cục Lưu trữ là cơ quan quản lý Phông LTQGVN.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ Quốc gia (được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 30/11/1982 và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh ký công bố ngày 11/12/1982) là một bước phát triển mới trong công tác lưu trữ nói chung, trong pháp luật lưu trữ nói riêng. Pháp lệnh đã làm rõ khái niệm tài liệu LTQG, tài liệu lưu trữ cá nhân, gia đình, dòng họ và điều chỉnh các các vấn đề về quản lý tài liệu, xác định giá trị tài liệu, bảo quản, bảo vệ an toàn và khai thác, sử dụng TLLTQG.
+ Giai đoạn từ 1986 đến nay
Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia ban hành năm 1982 là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất tính cho đến thời điểm đó. Pháp lệnh có hiệu lực đến năm 2001 và được thay thế bởi Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia (được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 04 tháng 4 năm 2011). Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia được ban hành đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý thống nhất công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ quốc gia. Pháp lệnh gồm 5 chương với 31 điều, đã điều chỉnh những vấn đề cơ bản trong công tác lưu trữ, như quản lý nhà nước, thực hiện nghiệp vụ lưu trữ, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ... Sau khi Pháp lệnh được ra đời, năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia. Những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ trong lĩnh vực lưu trữ.
Tuy nhiên, xã hội luôn vận động và phát triển. Những quy định của Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia năm 2001 đã không còn phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh cũng bộc lộ những bất cập, nhiều quan hệ pháp luật mới phát sinh… Những điều đó cho thấy sự cần thiết phải ban hành văn bản cao hơn Pháp lệnh.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, ngày 11 tháng 11 năm 2011, Quốc Hội nước CHXHCN VN đã thông qua Luật Lưu trữ. Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2012. Ngày 03 tháng 01 năm 2013, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ. Những văn bản quy phạm pháp luật này đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng và vượt bậc trong công tác lưu trữ nói chung và pháp luật lưu trữ nói riêng. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh mọi hoạt động của công tác lưu trữ.
4. Nội dung cơ bản của pháp luật lưu trữ
4.1. Nguyên tắc quản lý lưu trữ
Luật LT 2011 xác định “Phông LT Quốc gia VN là toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình thành, nơi bảo quản, chế độ chính trị - xã hội, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin”. Như vậy, tài liệu lưu trữ là toàn bộ tài liệu của nước Việt Nam. Là tài sản của toàn dân, có giá trị to lớn về các mặt của đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, tài liệu lưu trữ cần được nhà nước thống nhất quản lý. Điều 3, Luật Lưu trữ 2011 quy định:
1. Nhà nước thống nhất quản lý tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam. Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam được xác định gồm có phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam và phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam. Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam do Cục Văn thư- Lưu trữ Nhà nước trực tiếp quản lý. Phông Lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam do Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng quản lý. Nhưng cả hai phông này đều chịu sự quản lý nhà nước thống nhất của Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Hoạt động lưu trữ được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật Lưu trữ, “Hoạt động lưu trữ là hoạt động thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, sử dụng tài liệu lưu trữ”. Như vậy, hoạt động lưu trữ được xác định bao gồm các nghiệp vụ của công tác lưu trữ. Hầu hết việc thực hiện các nghiệp vụ này đều được quy định tại Luật Lưu trữ 2011. Ngoài ra, mỗi nghiệp vụ còn được quy định tại các văn bản dưới luật và các văn bản hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ. Các cơ quan lưu trữ từ trung ương đến địa phương cần thực hiện các nghiệp vụ một cách thống nhất theo quy định của pháp luật.
3. Tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam được Nhà nước thống kê. Tài liệu lưu trữ là tài sản quốc gia, chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước. Để việc quản lý, bảo quản tài liệu lưu trữ được thực hiện thống nhất và hiệu quả, tài liệu lưu trữ cần được thống kê. Kết quả của công tác thống kê sẽ chỉ rõ số lượng cũng như hiện trạng tài liệu lưu trữ… Từ kết quả thống kê nhà nước sẽ hoạch định chính sách quản lý vào bảo quản tài liệu phù hợp
4.2. Chính sách của nhà nước về lưu trữ
Luật pháp lưu trữ đã quy định sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước đối với công tác lưu trữ. Như vậy, vai trò trung tâm trong quản lý về lưu trữ thuộc nhà nước. Nhằm mục đích huy động mọi nguồn lực cho hoạt động lưu trữ nhằm phát huy tối đa giá trị của tài liệu lưu trữ, đồng thời để các đối tượng được điều chỉnh bởi luật lưu trữ hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn của mình đối với tài liệu lưu trữ thuộc Phông Lưu trữ quốc gia, Luật đã quy định về chính sách của nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ. Chính sách này được quy định rõ tại điều 4 Luật Lưu trữ.
4.3. Chủ thể, khách thể quản lý nhà nước về lưu trữ
Chủ thể quản lý nhà nước về lưu trữ: Chủ thể quản lý nhà nước về lưu trữ là các cơ quan quản lý nhà nước về lưu trữ từ trung ương đến địa phương. Điều 38 Luật Lưu trữ quy định Chính phủ là chủ thể cao nhất quản lý nhà nước về lưu trữ. Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lưu trữ. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng quyền hạn của mình là chủ thể quản lý nhà nước về lưu trữ trong phạm vi cơ quan, đơn vị mình. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể quản lý nhà nước về lưu trữ là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp được quy định tại Thông tư số 02/2010/TT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Văn thư, Lưu trữ Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
Khách thể quản lý nhà nước về lưu trữ:
Đối tượng quản lý nhà nước về lưu trữ là tài liệu lưu trữ và những mối quan hệ pháp luật liên quan đến các vấn đề bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ. Như vậy, có thể hiểu khách thể quản lý nhà nước về lưu trữ chính là mọi vấn đề luật định liên quan đến bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ. Khách thể quản lý nhà nước về lưu trữ gồm có:
+ Quản lý tài liệu lưu trữ:
Tài liệu lưu trữ là đối tượng điều chỉnh trực tiếp của Luật lưu trữ. Mọi quy định được đề ra trong pháp luật lưu trữ đều nhằm mục đích quản lý, bảo quản an toàn và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ. Tài liệu lưu trữ cũng là khách thể đầu tiên của quản lý nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ.
+ Quản lý việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ:
Để tài liệu lưu trữ được bảo quản an toàn và phát huy tối đa giá trị, một loạt các nghiệp vụ được thực hiện, từ khi tài liệu được sản sinh ra cho đến khi tài liệu được đưa ra khai thác sử dụng với vai trò là tài liệu lưu trữ. Những quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thực hiện nghiệp vụ lưu trữ gồm có:
a) Thu thập tài liệu lưu trữ:
Tài liệu lưu trữ được sản sinh ra trong quá trình hoạt động của các cơ quan tổ chức và các cá nhân. Luật đã xác định tài liệu lưu trữ là tài sản chung của quốc gia, thuộc quyền quản lý của nhà nước và tài liệu lưu trữ cần được thu thập về các cơ quan lưu trữ và quản lý tập trung thống nhất. Luật Lưu trữ đã đề ra những quy định về thu thập tài liệu vào lưu trữ cơ quan và lưu trữ lịch sử và trách nhiệm của lưu trữ cơ quan và lưu trữ lịch sử trong việc thực hiện thu thập tài liệu lưu trữ. Những quy định của pháp luật làm cơ sở để nhà nước quản lý cũng như thực hiện nghiệp vụ thu thập tài liệu lưu trữ.
b) Xác định giá trị tài liệu lưu trữ:
Tài liệu lưu trữ trong Phông Lưu trữ quốc gia chứa đựng những thông tin phản ánh mọi mặt khác nhau của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trước khi tài liệu trở thành thành phần của Phông lưu trữ Quốc gia và được đưa vào bảo quản tại các cơ quan lưu trữ, tài liệu lưu trữ phải trải qua quá trình xác định giá trị. Do đây là nghiệp vụ trọng yếu của công tác lưu trữ, ảnh hưởng trực tiếp đến số phận của tài liệu lưu trữ, nên cần được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và dưới sự quản lý của nhà nước. Tại điều 16,17,18 của Luật Lưu trữ đã quy định cụ thể về nghiệp vụ xác định giá trị tài liệu. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền quản lý hoạt động xác định giá trị tài liệu lưu trữ.
c) Bảo quản, thống kê tài liệu lưu trữ
Tài liệu lưu trữ, sau khi thu thập về các cơ quan lưu trữ được xác định giá trị và đưa vào bảo quản. Tuổi thọ của tài liệu dài bao lâu phụ thuộc vào nghiệp vụ bảo quản tài liệu lưu trữ. Trách nhiệm của các cơ quan lưu trữ là thực hiện đúng kỹ thuật bảo quản tài liệu. Điều 25 Luật Lưu trữ đã quy định rõ trách nhiệm bảo quản tài liệu lưu trữ của người đứng đầu các cơ quan lưu trữ.
Để công tác bảo quản, quản lý cũng như tổ chức khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ được thực hiện tốt, tài liệu lưu trữ cần được thống kê. Điều 27 Luật Lưu trữ quy định: “Tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam phải được thống kê tập trung trong hệ thống sổ sách, cơ sở dữ liệu, hồ sơ quản lý” trách nhiệm thống kê nhà nước về lưu trữ cũng như quy trình và thời hạn thống kê tài liệu lưu trữ.
d) Quản lý khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ
Mục đích cuối cùng của công tác lưu trữ là đưa tài liệu lưu trữ ra sử dụng nhằm phát huy tối đa giá trị của tài liệu. Tuy nhiên, vấn đề khai thác sử dụng tài liệu cần được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và dưới sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Luật Lưu trữ đã quy định khá chi tiết về vấn đề khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ. Những quy định của pháp luật trong khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ là công cụ để thực hiện quản lý nhà nước trong khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ.
4.4. Nội dung quản lý nhà nước về lưu trữ
Công tác lưu trữ bao gồm các hoạt động quản lý và hoạt động nghiệp vụ và là một lĩnh vực của quản lý nhà nước. Luật Lưu trữ hiện nay không quy định những nội dung của quản lý nhà nước, tuy nhiên, điều 25 Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001 đã quy định rất rõ về vấn đề này và cho đến nay, đây vẫn là những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước trong công tác lưu trữ. Những nội dung này gồm có:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển lưu trữ;
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lưu trữ;
- Quản lý thống nhất tài liệu lưu trữ quốc gia;
- Thống kê nhà nước về lưu trữ;
- Quản lý thống nhất chuyên môn, nghiệp vụ về lưu trữ;
- Tổ chức, chỉ đạo việc nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong hoạt động lưu trữ;
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức văn thư, lưu trữ; quản lý công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt động lưu trữ;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về lưu trữ;
- Hợp tác quốc tế về lưu trữ.
5. Hoàn thiện pháp luật về lưu trữ
5.1. Thực trạng pháp luật về lưu trữ
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, pháp luật lưu trữ Việt Nam cho đến nay cũng đã đạt được những kết quả nhất định, Việt Nam đã có một Hệ thống pháp luật lưu trữ tương đối hoàn chỉnh. Văn bản cao nhất trong Hệ thống pháp luật lưu trữ Việt Nam là Luật Lưu trữ được Quốc Hội nước CHXHCNVN thông qua ngày 01 tháng 11 năm 2011. Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2012. Việc ban hành Luật lưu trữ của Việt Nam đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực lưu trữ nói riêng. Luật đã điều chỉnh hầu hết các vấn đề của công tác lưu trữ. Sau sự ra đời của Luật Lưu trữ, hàng loạt các văn bản dưới luật đã được ban hành. Ngày 03 tháng 01 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ. Nội dung của Nghị định tập trung điều chỉnh vấn đề quản lý tài liệu điện tử, quản lý tài liệu của một số bộ ngành đặc thù (Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng). Nghị định cũng đã quy định cụ thể vấn đề hành nghề lưu trữ. Bên cạnh đó, từ năm 2011 đến 2015, Bộ Nội vụ ban hành 14 thông tư quy định về quản lý và hướng dẫn thực hiện công tác lưu trữ; Thông tư số 13/2014/TT-BNV ngày 31 tháng 10 năm 2014 quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành lưu trữ; Thông tư số 14/2014/TT-BNV ngày 31 tháng 10 năm 2014 quy định chức danh, mã số và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch công chức chuyên ngành văn thư và Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31 tháng 10 năm 2014 hướng dẫn chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Nội vụ thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh…
Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã xây dựng và ban hành một số văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về lưu trữ: Công văn hướng dẫn phương hướng, nhiệm vụ công tác văn thư, lưu trữ hàng năm; Quyết định số 310/QĐ-VTLTNN ngày 21 tháng 12 năm 2012 Ban hành Quy trình tạo lập cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ.
Như vậy, nhìn chung, Pháp luật lưu trữ Việt Nam cũng đã điều chỉnh những vấn đề cơ bản trong hoạt động lưu trữ, tuy nhiên, từ thực tế phân tích các nội dung chính của Luật Lưu trữ và Nghị định số 01/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ, có thể nhận thấy một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật:
Về phạm vi điều chỉnh: Khoản 1, Điều 1 Luật Lưu trữ qui định: “về hoạt động lưu trữ; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động lưu trữ; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ lưu trữ; hoạt động dịch vụ lưu trữ và quản lý về lưu trữ”. Như vậy, Luật điều chỉnh mối quan hệ của 3 loại hình chủ thể là cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hoạt động lưu trữ. Có thể nhận thấy, mọi quy định của Luật Lưu trữ đều phủ quát cả ba loại hình chủ thể được nêu. Tuy nhiên, về cách thức quy định “quyền”, “nghĩa vụ” của các chủ thể trong hoạt động lưu trữ chưa có sự tách bạch. Các điều khoản chủ yếu tập trung quy định trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ.
Về đối tượng áp dụng: Khoản 2, Điều 1 Luật Lưu trữ qui định: Luật áp dụng đối với các đối tượng là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân…Như vậy, đối tượng áp dụng của luật là khá rộng. Tuy nhiên, trong thực tế pháp luật hiện hành nói chung chưa quy định thống nhất về các khái niệm: “tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp”, “tổ chức xã hội - nghề nghiệp”. Luật lưu trữ hiện hành cũng mới chỉ đưa ra tên gọi các loại hình tổ chức, mà chưa có khái niệm cụ thể. Đây là một vấn đề còn đang bỏ ngỏ của Luật Lưu trữ.
Thứ hai: Về quyền sở hữu tài liệu lưu trữ:
Tại Khoản 3, Điều 4 Luật Lưu trữ 2011 quy định: “thừa nhận quyền sở hữu đối với tài liệu lưu trữ”. Đây là một bước phát triển vượt bậc trong pháp luật lưu trữ Việt Nam. Việc thừa nhận quyền sở hữu đối với tài liệu lưu trữ là sự khẳng định tài liệu lưu trữ như một loại tài sản. Tuy nhiên, vẫn cần có những quy định cụ thể, chi tiết hơn về vấn đề sở hữu tài liệu lưu trữ, như quy định về hình thức sở hữu, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, trách nhiệm của Nhà nước trong việc quản lý khối tài liệu lưu trữ không thuộc sở hữu nhà nước…
Thứ ba: Về chế tài pháp luật và xử lý vi phạm. Luật Lưu trữ hiện nay chưa kèm theo các chế tài và các điều khoản quy định về xử lý vi phạm.
Thứ tư: Một số vấn đề khác: Dù đã ban hành hàng loạt văn bản dưới luật quy định và hướng dẫn thực hiện công tác lưu trữ, nhưng vẫn còn những vấn đề cần có những quy định cụ thể như văn bản quy định về danh mục tài liệu hạn chế sử dụng…
5.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về lưu trữ
Luật Lưu trữ được Quốc hội thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2012. Như vậy, đến nay Luật Lưu trữ đã chính thức có hiệu lực được 5 năm và đang trong giai đoạn triển khai thực hiện. Do đó hoàn thiện pháp luật về lưu trữ đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và cần tiến hành khẩn trương. Việc hoàn thiện pháp luật về lưu trữ phải được tiến hành trên cơ sở quan điểm tiếp cận sau:
Thứ nhất: Việc hoàn thiện pháp luật về lưu trữ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
Thứ hai: Việc hoàn thiện pháp luật về lưu trữ phải trên nguyên tắc đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân và các chủ thể khác với tài liệu lưu trữ;
Thứ ba: Việc hoàn thiện pháp luật về lưu trữ phải xuất phát nguyên tắc chung trong xây dựng pháp luật đó là tạo cơ chế để pháp luật đảm bảo quyền hợp pháp của nhân dân trong lĩnh vực lưu trữ;
Thứ tư: Việc hoàn thiện pháp luật về lưu trữ phải xuất phát từ yêu cầu đặc thù của công tác lưu trữ và gắn với từng nghiệp vụ lưu trữ cụ thể;
Thứ năm: Việc hoàn thiện pháp luật phải phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển của ngành đã được đặt ra (tại Quyết định số 579/QĐ-BNV phê duyệt Quy hoạch ngành văn thư- lưu trữ
5.3. Các giải pháp cụ thể
Trên cơ sở đánh giá thành tựu và những vấn đề đặt ra trong thực hiện pháp luật lưu trữ, hướng tới xây dựng hệ thống pháp luật lưu trữ toàn diện, hiện đại, minh bạch, phục vụ nhân dân trong nhà nước pháp quyền trong giai đoạn hiện nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần kịp thời ban hành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện Luật lưu trữ đối với những vấn đề Luật Lưu trữ chưa điều chỉnh hoặc chưa có hiệu lực trực tiếp như:
- Ban hành các văn bản hướng dẫn xử lý vi phạm, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động lưu trữ. Hiện nay, Luật Lưu trữ chưa quy định về vấn đề này; Ban hành các Nghị định qui định về các vấn đề về sở hữu tài liệu lưu trữ;
Thực tế cho thấy, sự “thừa nhận quyền sở hữu đối với tài liệu lưu trữ” chưa thể là cơ sở pháp luật đầy đủ để thực thi vấn đề sở hữu tài liệu lưu trữ. Để hiện thực hóa vấn đề sở hữu tài liệu lưu trữ nhằm quản lý và phát huy tối đa giá trị của tài liệu lưu trữ rất cần những quy định cụ thể hơn nữa, về hình thức sở hữu, trách nhiệm và quyền lợi của chủ sở hữu, những chế tài đối với những trường hợp vi phạm. Cũng cần quy định rõ trách nhiệm của nhà nước trong việc quản lý nguồn tài liệu lưu trữ không phải sở hữu nhà nước.
- Tiếp tục hướng dẫn thực hiện Nghị định số 01/2013/NĐ-CP; sửa đổi Thông tư số 30/2004/TT-BTC; ban hành các văn bản liên quan để tổ chức thực hiện Thông tư 09/2014/TT-BNV và ban hành các văn bản thay thế các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ lưu trữ không còn phù hợp.
- Ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết thực hiện thống nhất các nội dung về thu thập tài liệu của các ngành Công an, Quốc phòng, Ngoại giao; thu thập tài liệu khoa học kỹ thuật, tài liệu nghe nhìn, tài liệu điện tử và lưu trữ điện tử; kinh phí sưu tầm tài liệu quý hiếm.
- Ban hành văn bản chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết tài liệu tồn đọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Lưu trữ 2011;
2. Nghị định số 01/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ;
3. Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000 về bảo vệ bí mật Nhà nước;
4. Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
5. Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg về việc tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ;
6. Quyết định số 89/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và CCTC của Cục VTLTNN;
7. Thông tư số 02/2010/TT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Văn thư, Lưu trữ Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Bằng hiểu biết thực tiễn, phân tích vai trò của Pháp luật trong hoạt động lưu trữ;
2. Phân tích sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của Pháp luật về sở hữu tài liệu lưu trữ;
3. Trình bày thực tiễn và những thuận lợi, khó khăn trong triển khai Luật lưu trữ tại cơ quan công tác của anh (chị);
4. Giải quyết một tình huống pháp luật trong hoạt động lưu trữ (giảng viên sẽ đặt tình huống cụ thể);
5. Quan điểm của anh (chị) về hoàn thiện thể chế chính sách về lưu trữ (chuyên đề tiểu luận).
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại quyết định hành chính
1.1 Khái niệm quyết định hành chính
Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo hình thức và thủ tục do pháp luật qui định, mang tính bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước.
Hiện nay có nhiều cách hiểu về quyết định hành chính. Theo Từ điển luật học: “quyết định hành chính thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của người có chức vụ, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật qui định hướng tới việc thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước” [4].
Nếu xuất phát từ góc độ pháp luật hiện hành, khái niệm quyết định hành chính được xác lập tại các văn bản qui phạm pháp luật chỉ dừng lại ở dạng quyết định hành chính cụ thể, cá biệt. Khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 đưa ra khái niệm: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”. Khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”. Khoản 6 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 có thêm một quy định như sau: “Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài sản được giao; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, chính sách, pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức. Như vậy mặc dù nội hàm khái niệm quyết định hành chính trong các văn bản qui phạm pháp luật hiện nay chưa thống nhất song các văn bản này đều thống nhất ở một số dấu hiệu cơ bản của quyết định hành chính như: do cơ quan nhà nước (chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước) hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước ban hành để giải quyết một vấn đề cụ thể; được áp dụng một lần đối với một cá nhân hay một nhóm đối tượng xác định (các quyết định áp dụng pháp luật); có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của công dân hoặc tổ chức.
Tuy nhiên trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, các chủ thể tham gia quản lí hành chính nhà nước không chỉ ban hành quyết định cá biệt cho dù các quyết định này chiếm số lượng lớn. Các cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể cơ bản, chủ yếu thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội. Bởi thế trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước không chỉ có các quyết định cá biệt mà còn có các quyết định chủ đạo, qui phạm. Các quyết định này không chỉ được thể hiện ở hình thức văn bản. Quyết định hành chính có thể được thể hiện ở hành vi vật chất của chủ thể ra quyết định - các hành vi hành chính cho dù văn bản vẫn là hình thức thể hiện cơ bản và quan trọng nhất. Tuy nhiên trong phạm vi chuyên đề này, quyết định hành chính được đề cập là các quyết định được thể hiện ở hình thức văn bản và do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành.
Từ những cơ sở nêu trên có thể đưa ra khái niệm quyết định hành chính như sau: Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục theo qui định của pháp luật trong đó chứa đựng các qui phạm pháp luật hoặc được áp dụng một lần nhằm giải quyết vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, nghĩa vụ, lợi ích của một hoặc một số đối tượng xác định hoặc nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến lợi ích công cộng, được nhà nước bảo đảm thực hiện.
1.2. Đặc điểm của quyết định hành chính
1.2.1. Là một dạng của quyết định pháp luật, quyết định hành chính có các đặc điểm chung của quyết định pháp luật
+ Quyết định hành chính mang tính quyền lực nhà nước.
+ Quyết định hành chính mang tính pháp lí.
1.2.2. Các đặc điểm riêng của quyết định hành chính
a. Quyết định hành chính mang tính dưới luật.
Quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước. Tính dưới luật của các quyết định hành chính gắn với địa vị pháp lí của các chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, đây là những cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước do đó các quyết định hành chính được ban hành mang tính dưới luật.
b. Chủ thể chủ yếu ban hành quyết định hành chính là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước là các cơ quan có chức năng quản lí hành chính nhà nước. Do đó quản lí hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước. Điều 94, Hiến pháp năm 2013 qui định địa vị pháp lí của Chính phủ trong quản lí hành chính nhà nước: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Cùng với Chính phủ, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung ương đến cơ sở để thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước. Hệ thống các cơ quan này trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền có quyền ban hành các quyết định hành chính qui phạm hoặc cá biệt. Bởi vậy số lượng các quyết định hành chính được ban hành là rất lớn.
c. Quyết định hành chính có mục đích, hình thức và nội dung phong phú do được ban hành bởi những chủ thể có thẩm quyền khác nhau và để giải quyết những yêu cầu khác nhau trong quản lí hành chính nhà nước. Theo kết quả rà soát đối với các quyết định hành chính cụ thể, cá biệt cho thấy, “trong hệ thống pháp luật hiện hành không có một quy định minh thị về hình thức của quyết định hành chính, không nói rõ một quyết định hành chính phải được thể hiện dưới dạng văn bản, lời nói, hay một hình thức cụ thể nào khác. Tuy nhiên, hầu hết các quy định của pháp luật hiện hành đều thể hiện quyết định hành chính phải được thể hiện dưới dạng văn bản viết… Khi được thể hiện dưới hình thức một văn bản viết, thì trong các văn bản pháp luật hiện hành, quyết định hành chính được ban hành dưới rất nhiều tên gọi khác nhau như: Quyết định, Giấy phép, Giấy chứng nhận, Văn bản công nhận, Văn bản chấp thuận, Kết luận, Thông báo v.v...” [5]. Đối với các quyết định hành chính qui phạm về nguyên tắc, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được qui định cụ thể trong Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015. So với các các quyết định hành chính cụ thể, cá biệt các quyết định hành chính qui phạm có số lượng ít hơn.
1.3. Phân loại quyết định hành chính
1.3.1. Căn cứ vào tính chất pháp lí của quyết định hành chính
Với tiêu chí này, quyết định hành chính được chia thành 3 loại: quyết định chủ đạo, quyết định qui phạm và quyết định cá biệt.
Quyết định chủ đạo giữ vị trí quan trọng trong quản lí hành chính vì mặc dù không làm thay đổi trực tiếp các qui phạm pháp luật song đây là loại quyết định mà các chủ thể có thẩm quyền ban hành để đưa ra các chủ trương, chính sách, giải pháp lớn về quản lí hành chính nhà nước và là “cơ sở để ban hành các quyết định qui phạm hoặc quyết định cá biệt” [6]. Do đó không phải mọi chủ thể tham gia quản lí hành chính đều có thẩm quyền ban hành loại quyết định này. Thông thường các quyết định chủ đạo được ban hành dưới dạng nghị quyết của Chính phủ ví dụ như Nghị quyết 3oC/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 của Chính phủ Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
Quyết định hành chính qui phạm: Việc ban hành quyết định hành chính qui phạm là hoạt động đặc trưng gắn với hoạt động lập qui của các chủ thể thực hiện quyền hành pháp. Trên cơ sở luật, pháp lệnh…các cơ quan hành chính có thẩm quyền ban hành các văn bản qui phạm nhằm cụ thể hóa luật và pháp lệnh để tổ chức hoạt động quản lí hành chính nhà nước trên từng ngành và lĩnh vực. Theo qui định của Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015, thẩm quyền ban hành quyết định hành chính qui phạm của các cơ quan hành chính được xác định như sau: Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Quyết định của Ủy ban nhân dân…
Quyết định hành chính cá biệt: Đây là các quyết định hành chính mang tính áp dụng pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, được áp dụng một lần nhằm giải quyết vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Các quyết định này có thể làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, nghĩa vụ, lợi ích của một hoặc một số đối tượng xác định. Do vậy việc ban hành các quyết định hành chính cụ thể, cá biệt này là hoạt động thường xuyên của mọi chủ thể có thẩm quyền trong quản lí hành chính nhà nước và nhờ đó các vấn đề cụ thể phát sinh trong trật tự quản lí hành chính nước cơ bản được giải quyết. Đây là các quyết định mà việc ban hành dựa trên các quyết định chủ đạo. Vì lí do này các quyết định hành chính cụ thể, cá biệt được xác định là một dạng sự kiện pháp lí trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
1.3.2. Căn cứ theo chủ thể ban hành quyết định hành chính
Căn cứ theo dấu hiệu này chúng ta có các loại quyết định hành chính sau:
- Quyết định hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
- Quyết định hành chính của của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
- Quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân;
- Quyết định hành chính của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân;
- Quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước khác...
Các quyết định hành chính do nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành. Có chủ thể chỉ có thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính cụ thể, cá biệt song có những chủ thể vừa có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính qui phạm vừa có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính cụ thể, cá biệt.
2. Các yêu cầu đối với quyết định hành chính nhà nước
2.1. Yêu cầu về tính hợp pháp của quyết định hành chính
Đây là yêu cầu bắt buộc của quyết định hành chính và là một trong những tiêu chuẩn quyết định hiệu lực pháp lí và giá trị của chính quyết định đó. Để đảm bảo yêu cầu này, quyết định hành chính phải thỏa mãn các dấu hiệu sau:
- Quyết định hành chính phải được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo qui định của pháp luật;
- Quyết định hành chính phải được ban hành đúng căn cứ pháp lí;
- Quyết định hành chính phải có nội dung hợp pháp;
- Quyết định hành chính phải được ban hành đúng qui định của pháp luật về thủ tục xây dựng, ban hành và quản lí văn bản;
- Quyết định hành chính phải tuân thủ đúng qui định của pháp luật về thể thức, kỹ thuật trình bày
2.2. Yêu cầu về tính hợp lí của quyết định hành chính
Tính hợp lí của quyết định hành chính sẽ góp phần đảm bảo hiệu lực thực tế và giá trị khách quan của chính quyết định. Tính hợp lý của quyết định hành chính đòi hỏi quyết định hành chính phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
- Quyết định hành chính phải có nội dung phù hợp với thực tiễn. Việc ban hành quyết định hành chính phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của hoạt động quản lí hành chính nhà nước;
- Quyết định hành chính đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của nhân dân; không tách biệt giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của nhân dân;
- Quyết định hành chính phải được xem xét hiệu quả không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị - xã hội, cả mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa hiệu quả trực tiếp và gián tiếp, kết quả ngắn hạn và kết quả dài hạn hoặc kết quả cuối cùng.
- Quyết định hành chính phải bảo đảm kỹ thuật trình bày.
3. Nguyên tắc, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính
Quyết định hành chính được ban hành bởi nhiều chủ thể để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quản lí khác nhau bởi vậy trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính là không giống nhau. Đối với các quyết định hành chính cá biệt trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành. Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính qui phạm hiện nay được qui định tại Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015. Chuyên đề này chỉ đề cấp đến các qui định về trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính qui phạm.
3.1. Nguyên tắc ban hành quyết định hành chính
Quyết định hành chính qui phạm là một dạng của quyết định pháp luật được thể hiện ở hình thức văn bản qui phạm pháp luật. Do đó quyết định hành chính qui phạm phải tuân thủ các nguyên tắc trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được qui định tại Điều 5 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015, gồm:
1. Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
2. Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
4. Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
5. Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
6. Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3.2. Trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính
3.2.1. Quy trình xây dựng, ban hành nghị định của Chính phủ
Đề nghị xây dựng nghị định được áp dụng đối với việc xây dựng, ban hành nghị định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015, gồm các bước sau:
+ Lập đề nghị xây dựng nghị định (Điều 84)
+ Thẩm định đề nghị xây dựng nghị định (Điều 88)
+ Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng nghị định (Điều 89)
+ Soạn thảo nghị định (Điều 90)
+ Lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định (Điều 91)
+ Thẩm định dự thảo nghị định (Điều 92).
+ Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo nghị định trước khi trình Chính phủ (Điều 94).
+ Xem xét, thông qua dự thảo nghị định (Điều 96)
3.2.2. Quy trình xây dựng, ban hành quyết định của Thủ tướng Chính phủ
+ Soạn thảo quyết định (Điều 97)
+ Thẩm định dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Điều 98)
+ Kiểm tra, xử lý hồ sơ, trình ký ban hành quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Điều 100)
3.2.3. Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
+ Soạn thảo thông tư (Điều 101)
+ Thẩm định dự thảo thông tư (Điều 102)
+ Trình tự xem xét, ký ban hành thông tư (Điều 104)
3.2.4. Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân các cấp (Bao gồm: Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã). Với vị trí là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ở địa phương, Ủy ban nhân dân có quyền ban hành quyết định trên cơ sở thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật qui định.
Quy trình ban hành xây dựng, ban hành quyết định hành chính qui phạm của Ủy ban nhân dân các cấp được qui định tại chương 9, Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015.
Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính được thể hiện ở hình thức văn bản qui phạm liên tịch cũng được qui định tại Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015. Quyết định hành chính liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được qui định Điều 109 của Luật này.
4. Hiệu lực, áp dụng và thi hành quyết định hành chính
4.1. Hiệu lực của quyết định hành chính
* Đối với các quyết định hành chính qui phạm, hiệu lực của quyết định được qui định tại Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015.
Các quyết định hành chính qui phạm phải được đăng Công báo theo nguyên tắc quyết định hành chính của các cơ quan ở trung ương phải được đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quyết định có nội dung thuộc bí mật nhà nước. Đối với các quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã phải được niêm yết công khai và phải được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương. Thời gian và địa điểm niêm yết công khai do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo hoặc niêm yết công khai.
Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính quy phạm được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với quyết định hành chính quy phạm của cơ quan nhà nước trung ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với quyết định hành chính quy phạm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với quyết định hành chính quy phạm của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.
Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, quyết định hành chính quy phạm của cơ quan trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước.
* Quyết định hành chính quy phạm ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo qui định tại Điều 153 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015.
* Quyết định hành chính quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần theo qui định tại Điều 154 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015.
* Về hiệu lực của quyết định hành chính cá biệt
Do hiện nay chưa có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật chuyên ngành trong việc qui định về hiệu lực đối với quyết định hành chính cụ thể, cá biệt nên hiệu lực của quyết định hành chính phụ thuộc vào thẩm quyền tự quyết của chủ thể ban hành quyết định hành chính. Ví dụ tại Khoản 2, Điều 20 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức nêu rõ quyết định kỷ luật phải ghi rõ thời điểm có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên tại văn bản này cũng chưa xác định thời điểm nào quyết định có hiệu lực thi hành và trong điều kiện nào quyết định phát sinh hiệu lực.
Thời điểm có hiệu lực của quyết định hành chính là thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ của đối tượng thi hành quyết định hành chính, đồng thời phát sinh quyền khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức đối với quyết định hành chính đó. Để bảo đảm tính minh bạch của quyết định hành chính, thời điểm có hiệu lực của quyết định hành chính phải được xác định cụ thể trong quyết định hành chính. Trường hợp quyết định hành chính không xác định cụ thể thì thời điểm có hiệu lực thì hiệu lực của quyết định hành chính đó phải được xác định kể từ ngày ký ban hành quyết định hành chính. Hiệu lực trở về trước của quyết định hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp được pháp luật cho phép và phải ghi rõ trong quyết định hành chính.
4.2. Áp dụng quyết định hành chính
* Đối với các quyết định hành chính qui phạm, việc áp dụng quyết định hành chính được qui định tại Điều 156 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015 theo nguyên tắc sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.
- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
- Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.
- Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.
- Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
* Đối với các quyết định hành chính cá biệt
Quyết định hành chính cá biệt là những quyết định do các chủ thể có thẩm quyền ban hành ban hành trên cơ sở các qui định của pháp luật để giải quyết một hoặc một số vấn đề mang tính cụ thể, cá biệt do đó bao giờ cũng mang tính bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể có liên quan. Việc áp dụng các quyết định hành chính này được xác định từ thời điểm quyết định hành chính bắt đầu có hiệu lực. Đối tượng và phạm vi áp dụng của quyết định hành chính được xác định cụ thể trong quyết định hành chính. Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính đã có hiệu lực trong trường hợp cần thiết.
4.3. Thi hành quyết định hành chính
Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật do đó dù là quyết định qui phạm hay quyết định cá biệt thì các quyết định này luôn được nhà nước đảm bảo thi hành bởi sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Quyết định hành chính qui phạm chứa đựng các qui phạm pháp luật do đó luôn có tính bắt buộc chung.
Đối với các quyết định hành chính cá biệt việc thi hành quyết định hành chính phải trên nguyên tắc quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh thi hành quyết định hành chính. Trường hợp cá nhân, tổ chức khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định hành chính thì quyết định hành chính đó vẫn phải được thi hành, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành theo qui định của pháp luật. Ví dụ trong trường hợp có dấu hiệu cho rằng quyết định hành chính trái pháp luật đòi hỏi phải đình chỉ ngay nhằm ngăn chặn hậu quả trước khi cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý; hoặc quyết định hành chính không trái pháp luật nhưng việc tiếp tục thi hành quyết định hành chính sẽ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường, trật tự, an toàn xã hội…thì quyết định hành chính đó phải được đình chỉ việc thi hành. Quyết định hành chính bị đình chỉ không còn hiệu lực kể từ ngày quyết định đình chỉ có hiệu lực.
5. Đình chỉ, thu hồi, bãi bỏ, hủy bỏ quyết định hành chính
5.1. Đối với quyết định hành chính qui phạm
Theo qui định tại Khoản 2 Điều 162 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015, “việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành nhằm phát hiện những nội dung trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc không còn phù hợp để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản, đồng thời xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý cơ quan, cá nhân đã ban hành văn bản trái pháp luật”.
Căn cứ theo quy định này, quyết định hành chính qui phạm có thể bị đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trong trường hợp vi phạm qui định tại Khoản 2 Điều 162. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật phải được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ quyết định hành chính qui phạm qui định tại Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015 như sau:
- Quốc hội bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Hội đồng nhân dân bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp trái với nghị quyết của mình, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành và do bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành trái pháp luật thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm tự mình bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản.
5.2. Đối với quyết định hành chính cá biệt
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định chung về các hình thức xử lý quyết định hành chính trái pháp luật. Việc xử lý quyết định hành chính trái pháp luật được quy định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau và dưới nhiều hình thức, tên gọi khác nhau như: tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi, hủy bỏ, bãi bỏ. Chuyên đề này đề cập đến 4 hình thức cơ bản mà pháp luật chuyên ngành Việt Nam thường áp dụng trong trường hợp xử lí quyết định hành chính trái pháp luật.
5.2.1. Đình chỉ quyết định hành chính
Quyết định hành chính được ban hành phải bảo đảm tính hợp pháp về căn cứ pháp lý, thẩm quyền nội dung, hình thức, thời hạn, thời hiệu, trình tự, thủ tục ban hành. Quyết định hành chính không hợp pháp phải được xử lý. Căn cứ vào tính chất, mức độ trái pháp luật của quyết định hành chính, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm ban hành quyết định đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính. Đình chỉ thi hành quyết định hành chính là hành vi pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm dừng hiệu lực thi hành của quyết định đó. Việc đình chỉ quyết định hành chính thường được thực hiện trong các trường hợp khi có dấu hiệu cho rằng quyết định hành chính trái pháp luật đòi hỏi phải đình chỉ ngay nhằm ngăn chặn hậu quả trước khi cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý hoặc khi quyết định hành chính không trái pháp luật nhưng việc tiếp tục thi hành quyết định hành chính gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường, trật tự, an toàn xã hội;…
Quyết định hành chính bị đình chỉ không còn hiệu lực kể từ ngày quyết định đình chỉ có hiệu lực.
5.2.2. Thu hồi quyết định hành chính
Pháp luật hiện hành chưa có quy định thống nhất về điều kiện và giá trị pháp lý của việc thu hồi quyết định hành chính. Thu hồi quyết định hành chính không phải là một biện pháp xử lý quyết định hành chính nhằm tác động tới hiệu lực thi hành của quyết định hành chính mà là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thu lại các quyết định hành chính trên thực tế mà việc lưu hành các quyết định hành chính này có thể gây hậu quả đối với xã hội (ví dụ: sử dụng các QĐHC đã bị hủy bỏ để giao dịch dân sự, lừa đảo,…)[8]. Bởi vậy việc thu hồi quyết định hành chính được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
- Pháp luật có quy định về trường hợp thu hồi quyết định hành chính;
- Hoàn cảnh thực tế thay đổi làm cho nội dung của quyết định hành chính không thể thực hiện trên thực tế;
- Nội dung của quyết định hành chính không hợp lý, không phù hợp với điều kiện thực tế, trừ trường hợp quyết định hành chính làm phát sinh quyền, lợi ích cho cá nhân, tổ chức có liên quan;
- Do có thay đổi về chính sách, pháp luật mà việc tiếp tục thực hiện quyết định hành chính đã ban hành là trái pháp luật.
Về nguyên tắc quyết định hành chính đang trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện thì không được thu hồi, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện yêu cầu thu hồi quyết định đó. Cơ quan có thẩm quyền thu hồi quyết định hành chính là cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính đó.
Trong trường hợp thu hồi quyết định hành chính ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của đối tượng thi hành thì cơ quan thu hồi phải thông báo và tạo điều kiện cho đối tượng thi hành trình bày ý kiến trước khi thu hồi quyết định hành chính.
5.2.3. Bãi bỏ quyết định hành chính
Bãi bỏ quyết định hành chính là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định bãi bỏ quyết định hành chính nhằm chấm dứt hiệu lực của quyết định đó. Thông thường quyết định hành chính sẽ bị bãi bỏ nếu nội dung của quyết định hành chính không hợp lý, không phù hợp với điều kiện thực tế; Hoàn cảnh thực tế thay đổi làm cho nội dung của quyết định hành chính không thể thực hiện được trên thực tế; Do chính sách, pháp luật thay đổi làm cho quyết định hành chính trái pháp luật cần phải bãi bỏ; Việc tiếp tục thi hành quyết định hành chính làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng.
Các quyết định hành chính bị bãi bỏ là các quyết định hành chính bảo đảm tính hợp pháp tại thời điểm ban hành nhưng do các điều kiện khách quan (sự thay đổi chính sách pháp luật hoặc sự thay đổi của điều kiện thực tế) dẫn đến nội dung quyết định hành chính này là không còn phù hợp, không bảo đảm tính hợp lý để thực thi trên thực tế. Quyết định hành chính bị bãi bỏ vẫn được công nhận hiệu lực từ thời điểm ban hành và chỉ bị chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm quyết định bãi bỏ có hiệu lực.
Quyết định bãi bỏ phải xác định rõ thời điểm có hiệu lực, hậu quả pháp lý của việc bãi bỏ và thời hạn khiếu nại. Quy định này nhằm bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch trong việc triển khai thi hành quyết định bãi bỏ quyết định hành chính, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc xem xét việc khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [8]
5.2.4. Hủy bỏ quyết định hành chính
Hủy bỏ quyết định hành chính là một biện pháp xử lý đối với các quyết định hành chính trái pháp luật, làm chấm dứt toàn bộ hoặc một phần hiệu lực của quyết định hành chính. Chủ thể có thẩm quyền quyết định việc hủy bỏ quyết định hành chính là cơ quan ban hành quyết định hành chính hoặc các cơ quan nhà nước khác theo qui định của pháp luật.
Quyết định hành chính có thể bị hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung tùy vào tính chất, nội dung của quyết định và hành vi trái pháp luật được xác định. Để bảo đảm tính công khai, khách quan trong việc hủy bỏ quyết định hành chính, đồng thời, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền có đủ thông tin để xem xét, quyết định cơ quan ban hành quyết định hủy bỏ phải thông báo trước và tạo điều kiện cho đối tượng thi hành quyết định hành chính trình bày ý kiến trong trường hợp việc hủy bỏ quyết định hành chính có thể gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Quyết định hủy bỏ của cơ quan hành chính phải xác định rõ thời điểm có hiệu lực, hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ và thời hạn khiếu nại. Trường hợp hủy bỏ dẫn đến việc phải thu hồi QĐHC và giấy tờ, đồ vật thì phải nêu rõ trong quyết định hủy bỏ đó [8]
6. Khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính
6.1. Khiếu nại quyết định hành chính
Theo qui định tại Khoản 8, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011: Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Như vậy việc khiếu nại quyết định hành chính được thực hiện theo qui định của Luật khiếu nại và chỉ được áp dụng đối với các quyết định hành chính cụ thể, cá biệt.
* Về trình tự khiếu nại
Việc khiếu nại quyết định hành chính phải tuân thủ trình tự được qui định tại Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011 theo trình tự sau:
- Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Đối với quyết định hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Đối với quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
* Về thời hiệu khiếu nại (Điều 9)
Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định kỷ luật cán bộ, công chức được qui định tại Điều 47 Luật Khiếu nại năm 2011. Đối với khiếu nại lần đầu, thời hiệu khiếu nại là 15 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định kỷ luật. Thời hiệu khiếu nại lần hai là 10 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì thời hiệu khiếu nại lần hai là 30 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.
Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Đối với quyết định kỷ luật cán bộ, công chức thẩm quyền giải quyết khiếu nại được qui định tại Điều 53 của Luật Khiếu nại năm 2011.
6.2. Khởi kiện quyết định hành chính
Khoản 2, Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 xác định cụ thể các quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án. Theo đó “Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại Khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Tại Khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 qui định: “Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”.
Khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 tiếp tục quy định một trong những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đó là giải quyết các khiếu kiện quyết định hành chính trừ các quyết định hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; Quyết định của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng; các quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức hoặc các khiếu kiện đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.
* Về thời hiệu khởi kiện quyết định hành chính
Được qui định tại điều 116 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Theo đó thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu.
* Về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính được qui định tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015 như sau: Đối với thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện qui định tại Điều 31; Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh qui định tại Điều 32.
* Về xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện (điều 33)
Điều 31 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản qui phạm pháp luật
1. Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2015;
2. Luật Khiếu nại năm 2011;
3. Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
II. Tài liệu khác
4. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lí, Từ điển Luật học, Nxb.Bách khoa và Nxb.Tư pháp, tr.658;
5. Báo cáo Rà soát, đánh giá thực trạng pháp luật về ban hành quyết định hành chính của Bộ tư pháp năm 2015.
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_ Detail.aspx?ItemID=1057&LanID=1139&TabIndex=1
6. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, Giáo trình Luật Hành chính Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.304.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, Nxb.Tư pháp, tr.33, 2015;
8. Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo Luật ban hành quyết định hành chính của Bộ Tư pháp, trích theo http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1057&LanID=1139&TabIndex=1
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích khái niệm và đặc điểm của quyết định hành chính.
2. Phân tích các nguyên tắc trong việc ban hành quyết định hành chính.
3. So sánh sự khác biệt giữa khiếu nại quyết định hành chính và khởi kiện quyết định hành chính, lấy ví dụ minh họa.
4. Nêu ví dụ một quyết định hành chính mà anh (chị) đã tham gia xây dựng. Phân tích các yêu cầu đối với quyết định hành chính đó.
QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực (NNL) của tổ chức bao gồm tất cả những người lao động làm việc cho tổ chức đó, có khả năng lao động, đóng góp vào hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức. Thuật ngữ “nhân lực” được hiểu là nguồn lực của mỗi con người, được thể hiện trên các góc độ: thể lực, trí lực và phẩm chất, thái độ.
Thể lực được phản ánh thông qua sự cường tráng của cơ thể, năng lực lao động chân tay và sự dẻo dai, bền bỉ của hoạt động thần kinh. Đội ngũ nhân lực với sức khỏe tốt, có sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, là điều kiện để nâng cao năng suất, hiệu quả lao động.
Trí lực thể hiện năng lực nhận thức, tư duy, sự hiểu biết và mức độ tiếp thu kiến thức của con người và được phản ánh qua quá trình đào tạo, tự đào tạo, thường đánh giá qua các tiêu chí: trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình lý luận chính trị, quản lý nhà nước đối với một số đối tượng đặc thù trong khu vực công.
Ngoài trình độ đào tạo, kĩ năng, kĩ xảo công tác cũng vai trò rất lớn. Đó là quá trình vận dụng tri thức, kinh nghiệm của người lao động vào trong hoạt động thực tiễn để giải quyết các nhiệm vụ được giao. Ngày nay, NNL trong các tổ chức cần được trang bị cả các kĩ năng tương tác xã hội - kĩ năng mềm và các kĩ năng chuyên môn nghiệp vụ theo yêu cầu của vị trí việc làm.
Phẩm chất, thái độ: chất lượng nhân lực cũng được phản ánh thông qua phẩm chất, đạo đức, ý thức chấp hành kỷ luật, thái độ ứng xử, giao tiếp trong quá trình công tác. Người lao động có phẩm chất cá nhân tốt, phù hợp với phẩm chất theo yêu cầu của xã hội và nghề nghiệp sẽ giúp xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh, thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
Như vậy, NNL là toàn độ nguồn lực lao động của tổ chức được phản ánh qua quy mô, cơ cấu và chất lượng nhân lực. Trong đó, chất lượng nhân lực là trạng thái phản ánh các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong về thể lực, trí lực, phẩm chất, thái độ của đội ngũ nhân lực trong tổ chức.
1.2. Đơn vị sự nghiệp công lập
Khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức 2011: “Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. Nhà nước tập trung xây dựng hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) để cung cấp những dịch vụ công mà Nhà nước phải chịu trách nhiệm chủ yếu bảo đảm, nhằm phục vụ nhân dân trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông tin truyền thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định.
Với mục đích đổi mới cơ chế hoạt động của các ĐVSNCL theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán độc lập; tách chức năng quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ với chức năng điều hành các ĐVSNCL, Luật Viên chức chia ĐVSNCL thành hai loại hình cơ bản:
Một là, ĐVSNCL được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là ĐVSNCL được giao quyền tự chủ);
Hai là, ĐVSNCL chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là ĐVSNCL chưa được giao quyền tự chủ).
Về phương diện quản lý tổ chức bộ máy và nhân lực, mục đích của việc phân loại ĐVSNCL nhằm tạo căn cứ cho việc xác định cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng công chức, viên chức, người lao động tại các tổ chức có quy mô, tổ chức, tính chất hoạt động khác nhau, thuộc các lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Trên cơ sở phân loại đó mà xác định cơ chế QLNNL đối với từng loại hình ĐVSNCL cho phù hợp.
1.3. Nguồn nhân lực trong đơn vị sự nghiệp công lập
NNL trong ĐVSNCL là toàn bộ nguồn lực con người của ĐVSNCL, gồm các đối tượng chủ yếu sau:
Một là, đội ngũ công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của ĐVSNCL, được bảo đảm từ quỹ lương của ĐVSNCL theo quy định của pháp luật. Theo Điều 11 Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ quy định những người là công chức, công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý ĐVSNCL, gồm:
- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó tổ chức của ĐVSNCL thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.
- Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu ĐVSNCL được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc các Ban và cơ quan tương đương của Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Người đứng đầu ĐVSNCL được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc Tổng cục, Cục và tương đương trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ; tỉnh ủy, thành ủy; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh ủy; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Người giữ các vị trí việc làm gắn với nhiệm vụ quản lý nhà nước trong ĐVSNCL được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Hai là, đội ngũ viên chức, là lực lượng chủ yếu trong các đơn vị sự nghiệp công nghiệp. Theo Điều 2 Luật Viên chức năm 2010 quy định: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại ĐVSNCL theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của ĐVSNCL theo quy định của pháp luật”. Viên chức là lực lượng nòng cốt và thường chiếm số lượng lớn trong ĐVSNCL. Họ là những người đã được tuyển dụng vào viên chức Nhà nước thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển, với hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn.
Ba là, người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động. Đây là những người chưa được tuyển dụng chính thức vào viên chức nhà nước. Họ có thể được kí kết một trong các loại hợp đồng lao động: không xác định thời hạn; xác định thời hạn từ đủ 12 đến 36 tháng; hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Như vậy, NNL trong ĐVSNCL khá đa dạng về đối tượng, dẫn đến nguyên tắc, phương pháp quản lý cũng có những yếu tố đặc thù.
2. Vai trò, đặc điểm nguồn nhân lực trong đơn vị sự nghiệp công lập
2.1. Vai trò nguồn nhân lực trong đơn vị sự nghiệp công lập
NNL đóng vai trò trung tâm của sự tồn tại và phát triển của các ĐVSNCL, tất cả các vấn đề khác suy cho cùng đều phụ thuộc vào con người và mức độ thành công của quản trị con người. Ngày nay, vai trò của NNL trong ĐVSNCL càng trở nên quan trọng vì:
- Sự dịch chuyển về quan niệm và giá trị: Quản trị tổ chức chuyển thành quản trị con người; cạnh tranh giữa các tổ chức chuyển thành cạnh tranh về đội ngũ nhân lực.
- Tài nguyên là hữu hạn, sức sáng tạo của con người được xem là vô hạn. QLNNL hiệu quả là chìa khóa để giải phóng sức sáng tạo, nâng cao khả năng cạnh tranh của tổ chức.
- Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, quá trình hội nhập nhanh cùng với sự biến đổi môi trường, buộc các tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì phải nâng cao lợi thế cạnh tranh của NNL.
Tóm lại, NNL vừa là mục tiêu, vừa là động lực và cơ sở của sự phát triển của ĐVSNCL. Đây là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực, là nhân tố then chốt, quyết định phát triển của các ĐVSNCL. Họ là lực lượng tổ chức và trực tiếp triển khai trên thực tế đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cung cấp các dịch vụ công trọng yếu mà nhà nước phải đảm bảo cho người dân. Ngày nay, vị trí, vai trò của đội ngũ này càng được nâng cao để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cải cách nền hành chính quốc gia.
2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực trong đơn vị sự nghiệp công lập
NNL trong ĐVSNCL ngoài những đặc điểm chung như NNL của các tổ chức khác, có những đặc điểm đặc thù, cụ thể là:
- NNL trong ĐVSNCL có sự đa dạng về đối tượng, trong đó có cả công chức, viên chức và người lao động. Do đó hoạt động QLNNL trong ĐVSNCL có sự phức tạp, khó khăn hơn.
- Đội ngũ nhân lực của các ĐVSNCL thường có tính ổn định cao hơn so với khu tư nhân; tỉ lệ công chức, viên chức làm việc suốt đời trong ĐVSNCL là khá lớn do gắn với cơ chế: biên chế, hợp đồng làm việc. Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức cơ bản dựa trên vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh và chỉ tiêu biên chế;
- Hoạt động nghề nghiệp của viên chức trong ĐVSNCL có tính chất đặc thù. Hoạt động nghề nghiệp là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Luật Viên chức và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Biên chế các ĐVSNCL thường lớn, bộ máy khá cồng kềnh, lại chịu sức ép từ ngân sách, các mối quan hệ phức tạp về mặt “tình cảm” nên hoạt động quản lý gặp nhiều khó khăn, hạn chế sự linh hoạt và chủ động trong quản lý.
Mặt khác, tính ràng buộc chặt chẽ, cứng nhắc của hệ thống chính sách; tính hành chính trong ra quyết định về nhân lực trong các ĐVSNCL,… cũng dẫn đến sự máy móc, thiếu sáng tạo và linh hoạt trong sử dụng nhân lực. Trong quản lý, tác động về mặt tư tưởng, chính trị, hành chính - tổ chức là phương pháp quản lý chính trong các ĐVSNCL.
3. Quản lý nguồn nhân lực trong đơn vị sự nghiệp công lập
3.1. Khái niệm
QLNNL trong ĐVSNCL là quá trình xây dựng và thực thi hệ thống các triết lý, chính sách và các hoạt động chức năng về thu hút, đào tạo, phát triển, duy trì nhân lực nhằm đạt được kết quả tối ưu cho cả tổ chức và cá nhân, tập thể người lao động.
- QLNNL là công tác quản lý con người liên quan đến việc thực thi các nhiệm vụ được giao hoặc theo thỏa thuận. QLNNL là việc phát huy tối đa nguồn lực trong con người (thể lực, trí lực, tâm lực), đặc biệt là trí lực (tiềm năng vô hạn) của con người.
- QLNNL trong ĐVSNCL cần xây dựng hệ thống triết lý, chính sách đặc thù, vừa phù hợp với quy phạm pháp luật, vừa phù hợp với đặc thù nghề nghiệp và lĩnh vực hoạt động của đơn vị sự nghiệp.
- QLNNL trong ĐVSNCL là sự phối hợp tổng thể các nhóm hoạt động chức năng từ khâu thu hút, đến đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và duy trì NNL nhằm đạt được những mục tiêu tối ưu cho tổ chức (nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công, năng lực cạnh tranh của tổ chức,…) và thỏa mãn các nhu cầu của người lao động.
3.2. Các nguyên tắc cơ bản
Là nhân tố đặc biệt quan trọng của hoạt động quản lý, nguyên tắc QLNNL là cơ sở nền tảng có vai trò chi phối, tác động tới toàn bộ nội dung và phương thức của QLNNL trong ĐVSNCL, gồm các nguyên tắc cơ bản sau:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thống nhất quản lý của Nhà nước; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
- Bảo đảm quyền chủ động và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu ĐVSNCL. Thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên trực tiếp, trước pháp luật về những quyết định của mình; đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá công chức, viên chức, người lao động được thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm, nhiệm vụ được hoặc và căn cứ vào hợp đồng làm việc (đối với viên chức), hợp đồng lao động (đối với người lao động).
- Thực hiện bình đẳng giới, các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với những trường hợp đặc biệt, như: viên chức là người có tài năng, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng, viên chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các chính sách ưu đãi khác của Nhà nước đối với viên chức.
- Thực hiện quản lý công khai, minh bạch, dân chủ theo quy định của pháp luật. Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong QLNNL, có tính bắt buộc đối với mọi loại hình ĐVSNCL nhưng việc vận dụng trong các đơn vị, hoàn cảnh cụ thể cần mang tính đặc thù, linh hoạt. Bên cạnh các nguyên tắc chung, tùy theo các chức năng quản lý cụ thể mà có những nguyên tắc riêng và đặc thù, như các nguyên tắc trong tuyển dụng, đánh giá, thi đua khen thưởng đối với công chức, viên chức,… Do đó, các nguyên tắc nêu trên cần được áp dụng một cách phù hợp, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh trong thực tiễn.
3.3. Chức năng
Trong QLNNL của ĐVSNCL cần thực hiện ba nhóm chức năng cơ bản sau:
- Nhóm chức năng thu hút NNL: Bao gồm các hoạt động nhằm đảm bảo NNL đầu vào đủ về số lượng, tốt về chất lượng và hợp lý về cơ cấu. Nhóm chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản như phân tích công việc và xác định vị trí việc làm, kế hoạch hóa và tuyển dụng nhân lực. Để thực hiện tốt nhóm chức năng này cần dựa vào kế hoạch phát triển của tổ chức, thực trạng sử dụng nhân lực trong hiện tại và các yêu cầu công việc cần tuyển thêm người; tìm ra đúng người, đúng thời điểm, đảm bảo chất lượng nhân lực phù hợp với nhu cầu của tổ chức, giúp thỏa mãn cả đơn vị sử dụng lao động và người lao động.
- Nhóm chức năng bố trí, đào tạo, bồi dưỡng NNL: nhóm chức năng này chú trọng đến việc bố trí sử dụng đúng người, đúng việc; nâng cao năng lực của người lao động, đảm bảo đội ngũ nhân lực đáp ứng được yêu cầu về trình độ, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất cần thiết để hoàn thành công việc được giao, đồng thời tạo điều kiện để công chức, viên chức, người lao động phát triển tối đa năng lực bản thân. Nhóm chức năng này tập trung vào các hoạt động bố trí sử dụng lao động; hướng nghiệp, làm quen công việc, huấn luyện, đào tạo các kỹ năng thực hành cho đội ngũ nhân lực mới; cập nhật kiến thức, chuyên môn hóa, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho nhân viên cũ và kỹ năng tác nghiệp cho các cấp quản lý.
- Nhóm chức năng duy trì NNL: Nhóm chức năng này chú trọng đến việc duy trì hiệu quả NNL của tổ chức, xây dựng đội ngũ nhân lực nhiệt huyết, gắn bó, có trách nhiệm cao với công việc, nhiệm vụ được giao và mục tiêu, sứ mệnh của tổ chức. Nhóm chức năng này có các hoạt động cơ bản như: xây dựng hệ thống đánh giá, thi đua khen thưởng công bằng, khách quan; xây dựng và chi trả thù lao lao động vừa đúng quy định pháp luật, vừa đảm bảo tạo động lực lao động; duy trì và phát triển quan hệ lao động tốt đẹp trong tổ chức.
Thực hiện tốt ba nhóm chức năng trên vừa đảm bảo cho tổ chức có đội ngũ nhân lực đủ về số lượng, tốt về chất lượng và hợp lý về cơ cấu; vừa đảm bảo đội ngũ nhân lực có thể hoàn thành tốt khối lượng công việc được giao với tinh thần nhiệt huyết, sáng tạo, chủ động và gắn bó, trung thành với tổ chức, trách nhiệm cao với công việc.
3.4. Trách nhiệm của các chủ thể trong quản lý
3.4.1. Hội đồng quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập
ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư phải thành lập Hội đồng quản lý. Đối với các ĐVSNCL khác, căn cứ vào điều kiện cụ thể, yêu cầu quản lý và pháp luật chuyên ngành, các Bộ, cơ quan Trung ương, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh quy định việc thành lập Hội đồng quản lý trong trường hợp cần thiết. Theo Điều 7 Thông tư 03/2016/TT-BNV ngày 25/05/2016 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về thành lập và hoạt động của Hội đồng quản lý trong ĐVSNCL: “Hội đồng quản lý quyết định về chủ trương, phương hướng, kế hoạch hoạt động, tài chính và công tác nhân sự; kiểm tra, giám sát việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của ĐVSNCL”.
- Quyết định mục tiêu, chiến lược và kế hoạch phát triển trung hạn và hàng năm của ĐVSNCL; thông qua quy chế tổ chức và hoạt động của ĐVSNCL để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Quyết định chủ trương về xây dựng tổ chức bộ máy, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, người lao động; huy động các nguồn lực cần thiết để phát triển hoạt động của ĐVSNCL.
- Quyết định về định hướng hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ và phát triển khoa học công nghệ của ĐVSNCL.
- Giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản lý, việc thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động của ĐVSNCL.
- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và chế độ chính sách đối với người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu ĐVSNCL. Trong trường hợp Nghị định của Chính phủ về cơ chế tự chủ của ĐVSNCL thuộc ngành, lĩnh vực có quy định phân cấp cho Hội đồng quản lý được quyền thuê người giữ các chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu (theo đề nghị của người đứng đầu) ĐVSNCL thì Bộ quản lý ngành, lĩnh vực sự nghiệp hướng dẫn cụ thể nội dung này.
- Định kỳ hoặc đột xuất yêu cầu người đứng đầu ĐVSNCL báo cáo về các hoạt động của ĐVSNCL.
- Thông qua việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị cấu thành của ĐVSNCL; đề án xác định vị trí việc làm của ĐVSNCL trước khi trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định.
- Thông qua kế hoạch tài chính, mức phí của các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ; các chỉ tiêu cơ bản trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.
3.4.2. Trách nhiệm của những người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập
Những người đứng đầu ĐVSNCL được hiểu là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu, đồng thời cũng chính là người lãnh đạo, quản lý, điều hành ĐVSNCL.
Trách nhiệm của người đứng đầu ĐVSNCL là toàn bộ các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được Nhà nước giao, mà họ phải thực hiện một cách tự giác, có ý thức; trường hợp vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Từ góc độ quản lý, trách nhiệm của người đứng đầu trong QLNNL được thể hiện thông qua công tác tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực và thực hiện các chế độ đánh giá, khen thưởng, kỷ luật theo quy định hiện hành. Việc quản lý đội ngũ này do người đứng đầu đơn vị quyết định từ việc bố trí các chức danh, các vị trí đến việc phân công, phân nhiệm, khen thưởng, kỷ luật không để xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí của công tại cơ quan đơn vị.
3.4.3. Bộ phận chuyên trách về QLNNL trong đơn vị sự nghiệp công lập
Bộ phận chuyên trách về QLNNL trong các ĐVSNCL là đơn vị có chức năng tư vấn, tham mưu giúp Hội đồng quản lý, người đứng đầu ĐVSNCL thực hiện công tác tổ chức bộ máy; quy hoạch và quản lý đội ngũ công chức, viên chức, người lao động; chế độ chính sách; công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ nhân lực.
Bộ phận này có vị trí quan trọng trong việc tham mưu và thực hiện các chức năng về QLNNL, với những vai trò cơ bản sau: (1) Vai trò tư vấn, tham mưu; (2) Vai trò phối hợp; (3) Vai trò phục vụ; (4) Vai trò kiểm tra và điều chỉnh.
3.4.4. Các đơn vị trực tiếp sử dụng nguồn nhân lực
Các đơn vị trực tiếp sử dụng NNL là các đơn vị trực tiếp tiếp nhận, phân công, giao việc, sử dụng và theo dõi, đánh giá viên chức, người lao động trong đơn vị của mình, với các nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Tham mưu, đề xuất các vấn đề về nhân lực liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của đơn vị;
- Phối hợp với bộ phận chuyên trách về QLNNL và các đơn vị chức năng khác trong công tác QLNNL, như: xác định nhu cầu nhân lực của đơn vị, đề xuất nhu cầu tuyển dụng; trực tiếp phân tích công việc, xác định vị trí việc làm theo sự hướng dẫn; tham gia xác định tiêu chuẩn tuyển dụng của đơn vị; tiếp nhận, phân công, giao việc, hướng dẫn, sử dụng và theo dõi, đánh giá công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị của mình.
- Thực hiện các hoạt động phối hợp về nhân lực khác theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Trong sự phân chia trách nhiệm QLNNL trong ĐVSNCL, các nhà lãnh đạo, quản lý cần phải nhận thức rằng sự phân chia trách nhiệm chỉ mang tính chất tương đối, phụ thuộc vào điều kiện đặc thù của từng tổ chức. Mặt khác, cùng với quá trình phân chia trách nhiệm, các bên liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ, tích cực vì mục tiêu nâng cao hiệu quả QLNNL, phục vụ mục tiêu chiến lược của tổ chức.
3.5. Nội dung quản lý
3.5.1. Phân tích công việc và xác định vị trí việc làm
Phân tích công việc là quá trình nghiên cứu nhằm xác định điều kiện tiến hành, các nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn khi thực hiện công việc và các phẩm chất kỹ năng người lao động cần phải có để thực hiện tốt công việc.
Vị trí việc làm là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng; là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong ĐVSNCL.
Phân tích công việc, xác định vị trí việc làm là yếu tố trọng yếu để tạo ra sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận trong tổ chức; đánh giá được chính xác yêu cầu công việc để tuyển dụng và bố trí đúng người đúng việc, nâng cao hiệu quả công tác. Nhà quản lý cần dựa vào kết quả của quá trình phân tích công việc mà quản lý, giám sát thực hiện công việc của người lao động và có căn cứ để thực hiện hiệu quả các hoạt động khác của quản trị NNL. Đối với công chức, viên chức, người lao động, phân tích công việc giúp họ hiểu được vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền lợi, các mối quan hệ trong công việc, điều kiện môi trường làm việc, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt công việc, tạo ra sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận trong tổ chức.
Để phân tích công việc hiệu quả cần dựa trên căn cứ là các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền ban hành; tính chất, đặc điểm, yêu cầu công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; mức độ phức tạp, quy mô công việc; phạm vi và đối tượng phục vụ, quản lý; quy trình, thủ tục quản lý hoặc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật; mức độ hiện đại hóa công sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin; thực trạng bố trí, sử dụng đội ngũ công chức, viên chức, người lao động của ĐVSNCL.
Có rất nhiều phương pháp thu thập thông tin để phân tích công việc, như quan sát, phỏng vấn, nhật kí công việc, phiếu bảng hỏi,… Mỗi phương pháp có những ưu, nhược điểm khác nhau, người phân tích cần lựa chọn phương pháp thu thập thông tin phù hợp hoặc kết hợp các phương pháp để thu thập thông tin có hiệu quả. Dựa trên kết quả phân tích công việc, ĐVSNCL cần xây dựng bản mô tả công việc, bản tiêu chuẩn công việc (đo lường về thực hiện công việc) và bản yêu cầu đối với người thực hiện công việc (bản tư cách chức vụ).
3.5.2. Kế hoạch hóa NNL
Kế hoạch hóa nhân lực luôn gắn liền với chiến lược và các mục tiêu của tổ chức. Đó là quá trình nghiên cứu, xác định nhu cầu về NNL, trên cơ sở đó đưa ra các chính sách, chương trình nhằm đảm bảo cho tổ chức có đủ NNL với các phẩm chất, kỹ năng phù hợp để thực hiện công việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Kế hoạch hóa nhân lực thúc đẩy tư duy quản lý chủ động và truyền thông rộng rãi các mục tiêu của tổ chức, giúp tổ chức nhận thức được khoảng trống giữa năng lực hiện tại và yêu cầu thực hiện mục tiêu tương lai để luôn sẵn sàng đủ nhân lực chất lượng, linh hoạt ứng phó với mọi thay đổi bên trong và bên ngoài tổ chức.
Kế hoạch hóa nhân lực thường trải qua các bước cơ bản sau:
Bước 1: Xây dựng tầm nhìn, xác định mục tiêu và lựa chọn chiến lược
Bước 2: Phân tích hiện trạng đội ngũ nhân lực và QLNNL
Bước 3: Dự báo và xác định cung - cầu nhân lực
Bước 4: Thực hiện cân đối cung - cầu nhân lực
3.5.3. Tuyển dụng nguồn nhân lực
Tuyển dụng NNL bao gồm hoạt động tuyển mộ, tuyển chọn nhân lực đáp ứng các yêu cầu của công việc và vị trí cần tuyển dụng để đảm bảo số lượng, chất lượng NNL của ĐVSNCL.
Đối với ĐVSNCL giao quyền tự chủ, người đứng đầu ĐVSNCL tổ chức thực hiện việc tuyển dụng; quyết định tuyển dụng qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
Đối với ĐVSNCL chưa được giao quyền tự chủ, cơ quan, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm người đứng đầu ĐVSNCL tổ chức thực hiện hoặc phân cấp tổ chức thực hiện việc tuyển dụng cho ĐVSNCL thuộc quyền quản lý; quyết định hoặc ủy quyền quyết định tuyển dụng qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
Đối với tổ chức sự nghiệp thuộc Chính phủ, người đứng đầu các tổ chức sự nghiệp này tổ chức hoặc phân cấp tổ chức thực hiện việc tuyển dụng; quyết định tuyển dụng qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
Hàng năm, ĐVSNCL xây dựng kế hoạch tuyển dụng viên chức trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc quyết định theo thẩm quyền để tổ chức thực hiện.
Về điều kiện đăng ký dự tuyển viên chức; thẩm quyền tuyển dụng viên chức; thành lập hội đồng tuyển dụng viên chức; nội dung, hình thức, quy trình thi tuyển, xét tuyển viên chức, cách thức tính điểm, xác định người trúng tuyển; hợp đồng làm việc; chế độ tập sự…căn cứ theo Luật Viên chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/04/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3.5.4. Bố trí và sử dụng nhân lực
Người đứng đầu ĐVSNCL hoặc người đứng đầu đơn vị sử dụng nhân lực chịu trách nhiệm phân công nhiệm vụ, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức, người lao động bảo đảm các điều kiện cần thiết để họ thực hiện nhiệm vụ và các chế độ, chính sách đối với viên chức, người lao động.
Việc phân công nhiệm vụ cho viên chức, người lao động phải bảo đảm phù hợp với chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý được bổ nhiệm và yêu cầu của vị trí việc làm, năng lực thực hiện công việc của người lao động.
Bên cạnh đó, hoạt động bố trí, sử dụng nhân lực còn liên quan đến việc bổ nhiệm, thuyên chuyển và đề bạt, giải quyết thôi giữ chức vụ quản lý hoặc miễn nhiệm đối với viên chức quản lý; biệt phái viên chức; thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức, cho thôi việc đối với viên chức, người lao động,… Tất cả các hoạt động này phải căn cứ theo quy định của pháp luật, đặc biệt là Luật Lao động, Luật Viên chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/04/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3.5.5. Đào tạo, bồi dưỡng NNL
Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học.
Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao làm việc.
Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng NNL trong ĐVSNCL là cập nhật kiến thức, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng và phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao; góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức, người lao động có đạo đức nghề nghiệp, có đủ trình độ và năng lực chuyên môn đảm bảo chất lượng, hiệu quả công việc.
Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng NNL trong ĐVSNCL: (1). Phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và nhu cầu phát triển NNL của đơn vị; (2). Bảo đảm tính tự chủ của ĐVSNCL trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng; (3). khuyến khích viên chức học tập, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; (4). bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
Về nội dung, chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng; quyền lợi, trách nhiệm của công chức, viên chức, người lao động được cử đi đào tạo, bồi dưỡng; kinh phí đào tạo, bồi dưỡng và đền bù chi phí đào tạo căn cứ theo quy định của pháp luật và thực tiễn yêu cầu của cơ quan, đơn vị.
Để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, người lao động cần xác định chính xác nhu cầu, mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng hoàn thiện chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên; đổi mới phương pháp giảng dạy; đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy; đổi mới công tác kiểm tra, công tác thi; dự tính kinh phí đào tạo đầy đủ,…Bên cạnh đó, cần kích thích sự chủ động tham gia vào quá trình đào tạo của học viên bằng cách xem xét những nhu cầu khác nhau của người học, tạo điều kiện cho người học về thời gian, kinh phí; tạo bầu không khí thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học; tạo điều kiện, cơ hội cho công chức, viên chức, người lao động sử dụng các kiến thức, kỹ năng đã được học vào trong quá trình làm việc; tăng thù lao cho người lao động tương xứng với trình độ sau đào tạo.
3.5.6. Đánh giá, phân loại công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập
Đánh giá công chức, viên chức, người lao động trong ĐVSNCL là cơ sở quan trọng để khẳng định năng lực thực thi nhiệm vụ, sự đóng góp của mỗi cá nhân vào tổ chức. Mục đích của đánh giá để làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Kết quả đánh giá, phân loại là căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với công chức, viên chức, người lao động trong ĐVSNCL.
* Nguyên tắc đánh giá và phân loại công chức, viên chức, người lao động
- Bảo đảm đúng thẩm quyền.
- Việc đánh giá phải căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ; cần làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại, hạn chế về phẩm chất, năng lực, trình độ của công chức, viên chức.
- Bảo đảm khách quan, công bằng, chính xác và không nể nang, trù dập, thiên vị, hình thức.
- Việc đánh giá, phân loại công chức lãnh đạo, quản lý phải dựa vào kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; việc đánh giá, phân loại viên chức quản lý phải dựa vào kết quả hoạt động của đơn vị được giao quản lý, phụ trách. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu không được cao hơn mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Trường hợp công chức, viên chức, người lao động không hoàn thành nhiệm vụ do yếu tố khách quan, bất khả kháng thì được xem xét trong quá trình đánh giá, phân loại.
* Căn cứ để đánh giá
- Đối với công chức, căn cứ đánh giá gồm: Nghĩa vụ, đạo đức, văn hóa giao tiếp và những việc công chức không được làm quy định tại Luật Cán bộ, công chức; tiêu chuẩn ngạch công chức, chức vụ lãnh đạo, quản lý; nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch công tác năm được phân công hoặc được giao chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
- Đối với viên chức, căn cứ đánh giá là các cam kết trong hợp đồng làm việc đã ký kết; quy định về đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử của viên chức và nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị và quy định của pháp luật có liên quan.
- Đối với người lao động, căn cứ đánh giá là các cam kết trong hợp đồng lao động đã ký kết; nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị và quy định của pháp luật có liên quan.
* Nội dung đánh giá
- Đánh giá công chức: Căn cứ Điều 56 Luật Cán bộ, công chức, công chức được đánh giá theo các nội dung sau: chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; thái độ phục vụ nhân dân. Ngoài những nội dung này, công chức lãnh đạo, quản lý còn được đánh giá theo kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết công chức.
- Nội dung đánh giá viên chức: Nội dung đánh giá được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 41 Luật Viên chức, cụ thể như sau: kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng đã ký kết; việc thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp; tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần hợp tác đối với đồng nghiệp và thực hiện quy tắc ứng xử của viên chức; việc thực hiện các nghĩa vụ khác của viên chức. Ngoài những nội dung trên, viên chức quản lý còn được đánh giá về năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; kết quả hoạt động của đơn vị được giao quản lý, phụ trách.
- Nội dung đánh giá người lao động: đánh giá về quá trình, kết quả, hiệu quả thực hiện công việc theo hợp đồng đã ký kết; việc chấp hành ý thức, kỉ luật của cơ quan đơn vị và các thỏa thuận khác (nếu có).
Những nội dung khác về thời điểm đánh giá, phân loại; thẩm quyền và trách nhiệm đánh giá, phân loại cán bộ; trình tự, thủ tục đánh giá, sử dụng, lưu trữ kết quả đánh giá phân loại công chức, viên chức, người lao động theo quy định pháp luật và đặc thù của các ĐVSNCL.
3.5.7. Xây dựng hệ thống thù lao lao động
Thù lao lao động là tất cả các khoản mà người lao động nhận được, gồm cả thù lao vật chất và thù lao phi vật chất, được biểu hiện qua sơ đồ sau:
* Nhóm thù lao vật chất:
- Tiền lương cơ bản: được trả do đã thực hiện các trách nhiệm công việc cụ thể, thường được thể hiện trong thang, bảng lương hoặc ghi trong hợp đồng. Tiền lương cơ bản được xác định trên cơ sở mức độ phức tạp của công việc, điều kiện làm việc, trình độ năng lực của người lao động và giá thị trường.
- Phụ cấp: là tiền trả ngoài tiền lương cơ bản, bổ sung cho lương cơ bản, bù đắp thêm cho người lao động khi họ phải làm việc trong những điều kiện không ổn định hoặc không thuận lợi mà chưa được tính đến khi xác định lương cơ bản như phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp làm ngoài giờ, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực,…
- Tiền thưởng: là một loại kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với người lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc tốt hơn. Thưởng có nhiều loại như thưởng do năng suất, hiệu quả lao động, do tiết kiệm, có sáng kiến,… Tuy nhiên, hiện nay chế độ khen thưởng bằng tiền đối với các đơn vị sự nghiệp còn nhiều bất cập, mức thưởng thấp, quy trình, thủ tục phức tạp nên chưa tạo nhiều tác động tích cực đối với công chức, viên chức, người lao động.
- Phúc lợi: là phần thù lao gián tiếp được trả dưới dạng các hỗ trợ về cuộc sống cho người lao động, có tác dụng kích thích người lao động trung thành, gắn bó với tổ chức. Có hai nhóm phúc lợi cơ bản (1) Phúc lợi bắt buộc theo quy định của pháp luật; (2) Phúc lợi tự nguyện.
* Nhóm thù lao phi vật chất gồm các yếu tố thuộc nội dung công việc và môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến.
Trong các ĐVSNCL cần xây dựng và phát triển cả về thù lao vật chất và phi vật chất, góp phần tạo động lực lao động tích cực cho công chức, viên chức, người lao động.
3.5.8. Xác lập, duy trì và phát triển quan hệ lao động
Trong ĐVSNCL cần xác lập, duy trì và phát triển quan hệ lao động tốt đẹp theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Theo đó cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Tuân thủ quy định của pháp luật có liên quan, đặc biệt là Luật Lao động; Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức,…
- Không ngừng củng cố và phát triển văn hóa tổ chức;
- Khuyến khích viên chức, người lao động tham gia vào quá trình quản lý thông qua việc phát huy dân chủ, tăng cường cơ chế góp ý và phản biện;
- Tăng cường các hoạt động quản lý áp lực trong cuộc sống và công việc của công chức, viên chức, người lao động;
- Quan tâm và nâng cao mức độ hài lòng của công chức, viên chức, người lao động;
- Tăng cường các hoạt động truyền thông nội bộ hiệu quả;…
4. Cải cách hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong đơn vị sự nghiệp công lập
4.1. Mục tiêu cải cách
Việt Nam đang tích cực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động quản lý, sản xuất, dịch vụ từ sử dụng sức lao động thủ công là chính, sang sử dụng NNL chất lượng cao với công nghệ, phương tiện hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn. Các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…trong thời kỳ mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp phải xây dựng được đội ngũ nhân lực đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực tổ chức thực tiễn. Do đó, Nghị quyết 3oC/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã đề ra một trong 5 mục tiêu chiến lược là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Do đó, trong các ĐVSNCL cần đổi mới công tác QLNNL với các mục tiêu cụ thể sau:
- Mục tiêu về tổ chức: Cải cách hoạt động QLNNL trong ĐVSNCL nhằm xây dựng đội ngũ công chức, viên chức, người lao động có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp cao, với mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả chung của tổ chức, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước.
- Mục tiêu đối với công chức, viên chức, người lao động: tạo điều kiện cả về vật chất và tinh thần để phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân trong bộ máy nhân lực của tổ chức, khai thác tốt được ý chí tiến thủ, tinh thần sáng tạo của tập thể người lao động để cho họ thấy được triển vọng tương lai tươi sáng khi gắn bó chặt chẽ với tổ chức, để họ thể hiện sự tận tâm trong công việc được giao và có tấm lòng trung thành với tổ chức. Qua đó, QLNNL giúp công chức, viên chức, người lao động thỏa mãn những nhu cầu chính đáng về lao động, hoàn thiện và phát triển bản thân.
- Mục tiêu xã hội: QLNNL không chỉ đáp ứng những nhu cầu của tổ chức mà còn phải giải quyết được các nhu cầu và thách thức của xã hội. QLNNL hiệu quả giúp ĐVSNCL thực thi các hệ thống tiêu chuẩn, pháp luật, trách nhiệm xã hội một cách tốt và có hiệu quả nhất. Với sự quan tâm tốt nhất tới yếu tố con người, các mối quan hệ, môi trường lao động ngày càng được cải thiện. Giá trị và vị thế của con người ngày càng được tôn vinh.
4.2. Nội dung cải cách
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách về tổ chức và hoạt động của các ĐVSNCL; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về QLNNL trong ĐVSNCL, đặc biệt là quy định về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ; tuyển dụng, bố trí, sử dụng nhân lực phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức, người lao động; thực hiện chế độ thi tuyển và thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá công chức, viên chức, người lao động trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế tinh giảm với những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức trong thực thi nhiệm vụ.
Hai là, tăng cường vai trò, trách nhiệm của Hội đồng quản lý và người đứng đầu ĐVSNCL theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Cần hoàn thiện chính sách, phân định rạch ròi trách nhiệm của Hội đồng quản lý, trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể; tương xứng giữa quyền hạn và trách nhiệm. Hoàn thiện được những quy định này, ĐVSNCL sẽ vận hành bộ máy tốt hơn, giải quyết được các mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, quan hệ giữa người đứng đầu và cấp dưới, cũng như đổi mới được công tác thu hút, đào tạo, bồi dưỡng và duy trì NNL của tổ chức.
Ba là, trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng ĐVSNCL, xây dựng cơ cấu công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm. Hệ thống chức danh nghề nghiệp và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp phải được xây dựng một cách khoa học dựa trên yêu cầu về chuyên môn, năng lực của công chức, viên chức chứ không phải sự thay đổi tên gọi của ngạch, bậc.
Bốn là, tiếp tục đối mới công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng NNL: Đối với đơn vị chưa được giao quyền tự chủ hoặc tự chủ một phần, cần tổ chức thi tuyển viên chức, việc đánh giá kết quả thi tuyển được thực hiện bởi một hội đồng độc lập nhằm đảm bảo sự khách quan, công bằng, minh bạch. Đối với những đơn vị đã giao quyền tự chủ được tự tổ chức xét tuyển nhưng phải có cơ chế kiểm soát nội bộ từ phía Hội đồng quản lý đối với hoạt động này.
Bên cạnh đó, cần đổi mới nội dung và chương trình đào tạo; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng NNL thông qua các hình thức hướng dẫn tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm.
Năm là, cải cách công tác đánh giá công chức, viên chức, người lao động trong ĐVSNCL theo hướng khách quan, minh bạch, toàn diện, công tâm trong đánh giá; lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chính; coi trọng và phát huy trách nhiệm của người đứng đầu, người trực tiếp quản lý, sử dụng nhân lực trong đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức, viên chức, người lao động.
Sáu là, cải cách chính sách tiền lương, các chế độ bảo hiểm và phúc lợi khác; sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc,… Đồng thời, cải cách công tác thi đua, khen thưởng để tạo động lực thực sự để công chức, viên chức, người lao động yên tâm công tác, thực hiện công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; khắc phục “bệnh thành tích” hình thức, lãng phí trong tổ chức các phong trào thi đua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS.Trần Kim Dung (2009), QLNNL, NXB Thống kê, Hà Nội;
2. ThS.Nguyễn Vân Điềm và PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân (2012), Giáo trình Quản trị nhân lực, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân;
3. PGS.TS. Trần Thị Thu, PGS.TS. Vũ Hoàng Ngân (2011), QLNNL trong tổ chức công, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân;
4. Luật cán bộ, công chức số: 22/2008/QH12, ngày 13 tháng 11 năm 2008.
5. Luật Viên chức số: 58/2010/QH12, ngày 15 tháng 11 năm 2010;
6. Bộ luật Lao động số: 10/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012;
7. Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/04/2012 của Chính phủ Về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
8. Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 5 năm 2012 của Chính phủ Quy định về vị trí việc làm trong ĐVSNCL;
9. Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ Quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể ĐVSNCL;
10. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 Quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.
11.Thông tư số 19/2014/TT-BNV ngày 04/12/2014 của Bộ Nội vụ Quy định, hướng dẫn công tác đào tạo, bồi dưỡng viên chức;
12.Thông tư 03/2016/TT-BNV ngày 25/05/2016 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về thành lập và hoạt động của Hội đồng quản lý trong ĐVSNCL.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. So sánh điểm khác biệt cơ bản trong QLNNL giữa ĐVSNCL với các loại hình tổ chức khác.
2. Phân tích vai trò, trách nhiệm của Hội đồng quản lý và người đứng đầu ĐVSNCL trong QLNNL và liên hệ thực tế tại cơ quan anh, chị đang công tác.
3. Phân tích những nội dung trong QLNNL của ĐVSNCL.
4. Theo anh, chị để nâng cao hiệu quả QLNNL trong ĐVSNCL, cần cải cách những vấn đề nào? Phân tích và liên hệ thực tế các ĐVSNCL mà anh, chị biết.
TIÊU CHUẨN CHỨC DANH LƯU TRỮ VIÊN CHÍNH VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
1. Một số vấn đề về chức danh nghề nghiệp của viên chức
1.1. Khái niệm chức danh nghề nghiệp của viên chức
Trước khi có Luật Viên chức năm 2010, các quy định của Nhà nước chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa “cán bộ”, “công chức”, “viên chức”. Hệ thống chức danh, tiêu chuẩn được xây dựng và ban hành đã lên đến 186 ngạch bao gồm cả ngạch công chức và ngạch viên chức thuộc 19 ngành, nghề. Năm 2010, Luật Viên chức được Quốc hội thông qua, quy định cách hiểu thống nhất về viên chức như sau:
“Viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” (Điều 2, Luật Viên chức);
Để phân biệt giữa lao động của công chức mang tính chất quyền lực công, Điều 4 Luật Viên chức nêu khái niệm về hoạt động nghề nghiệp của viên chức như sau:
“Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Các nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức bao gồm:
- Tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật trong quá trình thực hiện hoạt động nghề nghiệp.
- Tận tụy phục vụ nhân dân.
- Tuân thủ quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử.
- Chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và của nhân dân.
Nhằm phục vụ cho việc đổi mới cơ chế quản lý viên chức, Luật Viên chức và Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức đã đưa ra quy định về việc sử dụng “chức danh nghề nghiệp” của viên chức thay thế cho việc sử dụng “ngạch” của công chức.
“Chức danh nghề nghiệp là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong từng lĩnh vực nghề nghiệp” (Điều 8, Khoản 1, Luật Viên chức);
Theo quy định tại Điều 31 Luật Viên chức, việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp đối với viên chức được thực hiện theo nguyên tắc sau:
a) Làm việc ở vị trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp tương ứng với vị trí việc làm đó;
b) Người được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp nào thì phải có đủ tiêu chuẩn của chức danh nghề nghiệp đó.
Để cụ thể hóa các quy định của Luật Viên chức và Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, liên quan đến chức danh nghề nghiệp, ngày 18 tháng 12 năm 2012, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 12/2012/TT-BNV quy định về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức. Điều 2 của Thông tư số 12/2012/TT-BNV xác định “chức danh nghề nghiệp là tên gọi thể hiện trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong từng lĩnh vực nghề nghiệp; được sử dụng làm căn cứ để thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức”. Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ cũng ban hành Thông tư số 16/2012/TT-BNV ngày 28/12/2012 ban hành quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức và nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức.
Đối với từng chức danh nghề nghiệp cụ thể, Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ được giao quản lý nhà nước về các lĩnh vực hoạt động của viên chức quy định hệ thống danh mục, tiêu chuẩn và mã số chức danh nghề nghiệp của viên chức.
1.2. Phân hạng chức danh nghề nghiệp của viên chức
Mỗi chức danh nghề nghiệp có những đặc điểm riêng theo từng chuyên ngành, lĩnh vực do một bộ, cơ quan ngang bộ quản lý. Để xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của đội ngũ viên chức làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập cần phải xác định rõ được khung nội dung của bộ tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức. Tùy theo mức độ phức tạp và yêu cầu của từng chuyên ngành, tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với viên chức khung nội dung của bộ tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức nên có từ 1 đến 4 hạng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng I là viên chức chịu trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ có độ phức tạp cao nhất trong ngành và lĩnh vực, đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu cao nhất về năng lực, trình độ và kinh nghiệm công tác chuyên môn, có khả năng tổng hợp cao và giải quyết được những vấn đề phức tạp trong quản lý, dày dạn kinh nghiệm, là những chuyên gia đầu ngành của khu vực dịch vụ công.
Thứ hai, viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng II là viên chức chịu trách nhiệm thực hiện hoặc chủ trì tổ chức thực hiện nhiệm vụ có độ phức tạp cao trong ngành và lĩnh vực chuyên môn, biết kết hợp giữa kiến thức, trí tuệ, kinh nghiệm công tác, có khả năng phân tích tổng hợp đáp ứng được các yêu cầu của vị trí chủ chốt trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba, viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng III là viên chức chịu trách nhiệm thực hiện hoặc chủ trì tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở mức độ cơ bản, thành thạo các nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu về năng lực và trình độ công tác chuyên môn tùy theo ngành nghề, lĩnh vực cụ thể.
Thứ tư, viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV là viên chức chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ một số bước cụ thể trong quy trình tổ chức công việc hoặc một quy trình tổ chức công việc cụ thể trong ngành, lĩnh vực đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về năng lực và trình độ trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp, viên chức được phân loại theo 4 cấp độ từ cao xuống thấp là: chức danh nghề nghiệp hạng I, hạng II, hạng III và hạng IV, gần tương đương với 04 ngạch công chức là cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp. Tuy nhiên, do mức độ, tính chất hoạt động nghề nghiệp riêng biệt nên giữa các hạng chức danh nghề nghiệp có sự phân biệt rõ rệt về trình độ, năng lực nghề nghiệp.
Trong mỗi một cấp độ chức danh nghề nghiệp của bộ tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức cần có những nội dung cơ bản như sau:
Một là, những mô tả về vị trí, chức năng và phạm vi trách nhiệm cụ thể về chức trách chung của một chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành.
Hai là, nhiệm vụ cụ thể là bản liệt kê những công việc mà mỗi hạng chức danh nghề nghiệp đòi hỏi ứng với độ phức tạp nhất định theo từng cấp độ.
Ba là, tiêu chuẩn về năng lực là phần quy định những khả năng viên chức cần phải có để thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn, thể hiện việc vận dụng những kiến thức, kỹ năng được trang bị qua quá trình đào tạo và kinh nghiệm công tác để đảm bảo thực hiện các công việc theo yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ.
Bốn là, tiêu chuẩn về trình độ đào tạo của viên chức được thể hiện thông qua các văn bằng, chứng chỉ và các yêu cầu khác liên quan đến từng loại chức danh nghề nghiệp.
Năm là, tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp được quy định theo yêu cầu của chức danh nghề nghiệp đối với viên chức trong từng chuyên ngành, lĩnh vực chuyên môn cụ thể.
Từ những nội dung quy định cụ thể trong từng cấp độ của bộ tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức, mỗi ngành nghề riêng biệt sẽ tự xây dựng cho mình được yêu cầu nội dung của từng hạng viên chức phù hợp với lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
1.3. Phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức ngành lưu trữ
Trước đây, các Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện việc sử dụng, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, nâng bậc lương và chuyển ngạch cho công chức ngành Lưu trữ theo quy định tại Quyết định số 420/TCCP-VC ngày 29 tháng 5 năm 1993 của Bộ trưởng, Trưởng ban Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành Lưu trữ và Quyết định số 78/2004/QĐ-BNV ngày 03 tháng 11 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành danh mục các ngạch công chức và các ngạch viên chức. Theo đó, các ngạch công chức, viên chức ngành Lưu trữ bao gồm: Lưu trữ viên cao cấp, Lưu trữ viên chính, Lưu trữ viên, Lưu trữ viên trung cấp, Kỹ thuật viên lưu trữ.
Ngày 31 tháng 10 năm 2014, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 13/2014/TT-BNV quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành Lưu trữ). Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 12 năm 2014. Việc ban hành Thông tư có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công chức, viên chức ngành Lưu trữ đáp ứng yêu cầu triển khai Luật Lưu trữ và phù hợp với quy định của Luật Viên chức và nội dung Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2012. Đối tượng áp dụng của Thông tư gồm viên chức chuyên ngành lưu trữ làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Các đơn vị sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp thuộc đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị sự nghiệp thuộc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu được áp dụng các quy định tại Thông tư để tuyển dụng, sử dụng và quản lý người làm công tác lưu trữ.
Như vậy, so với các quy định trước đây về chức danh nghề nghiệp lưu trữ viên, điểm mới của Thông tư số 13/2014/TT-BNV là đưa ra quy định về việc sử dụng “chức danh nghề nghiệp” của viên chức thay thế cho việc sử dụng “ngạch”, bên cạnh đó, không còn chức danh Lưu trữ viên cao cấp. Như vậy, chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành lưu trữ được phân thành 3 hạng: Lưu trữ viên chính (hạng II, mã số: V.01.02.01), Lưu trữ viên (hạng III, mã số: V.01.02.02), Lưu trữ viên trung cấp (hạng IV, mã số: V.01.02.03).
1.3.1. Lưu trữ viên chính (hạng II)
Lưu trữ viên chính (hạng II) có nhiệm vụ chủ trì việc biên soạn, xây dựng các chế độ, quy định, kế hoạch, tiêu chuẩn trong công tác lưu trữ; Chủ trì tổ chức việc sưu tầm, thu thập, bổ sung tài liệu có giá trị vào lưu trữ lịch sử, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản và phục vụ khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ, xây dựng hệ thống công cụ tra cứu theo quy định;
Lưu trữ viên chính phải đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng, bao gồm: Tốt nghiệp đại học chuyên ngành văn thư, lưu trữ trở lên; nếu tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác thì phải có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành lưu trữ; Có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ bậc 3; Có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.
1.3.2. Lưu trữ viên (hạng III)
Lưu trữ viên phải đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng gồm: Tốt nghiệp từ cao đẳng chuyên ngành văn thư, lưu trữ trở lên; nếu tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác thì phải có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ chuyên ngành lưu trữ; Có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ bậc 2; Có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.
Đối với viên chức dự thi hoặc xét thăng hạng lưu trữ viên thì phải tham gia nghiên cứu ít nhất 1 (một) đề tài, đề án, công trình khoa học cấp cơ sở trở lên được cấp có thẩm quyền nghiệm thu và đánh giá đạt yêu cầu;
1.3.3. Lưu trữ viên trung cấp (hạng IV)
Nhiệm vụ của Lưu trữ viên trung cấp bao gồm:
a) Tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch về công tác lưu trữ của cơ quan, tổ chức;
b) Thực hiện các nhiệm vụ phân loại, chỉnh lý, lập hồ sơ, hệ thống hóa, sắp xếp tài liệu trên cơ sở những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ hiện hành;
c) Thực hiện việc tu bổ, phục chế, bảo hiểm tài liệu lưu trữ theo hướng dẫn;
d) Tham gia xây dựng các loại công cụ tra tìm khác của tài liệu theo thực tế nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức;
đ) Thực hiện thống kê tài liệu lưu trữ theo quy trình nghiệp vụ và theo quy định của pháp luật hiện hành;
e) Thực hiện các nhiệm vụ khác do thủ trưởng cơ quan, đơn vị giao.
2. Tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của Lưu trữ viên chính
2.1. Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng
Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng của Lưu trữ viên chính gồm:
- Tốt nghiệp đại học chuyên ngành văn thư, lưu trữ trở lên; nếu tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác thì phải có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành lưu trữ: Công tác văn thư, lưu trữ là những hoạt động tác
nghiệp có tính chuyên môn sâu. Do vậy, người làm công tác này cần phải được đào tạo ở bậc đại học chuyên ngành văn thư, lưu trữ tại các trường đại học như Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Nội vụ Hà Nội. Trường hợp, viên chức tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác cần phải tham gia các khóa bồi dưỡng tại Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng để được cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành lưu trữ.
- Có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ bậc 3 (hoặc tương đương) khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;
- Có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm 2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
2.2. Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
Trong các chức danh nghề nghiệp chuyên ngành lưu trữ thì lưu trữ viên chính hiện giữ chức danh nghề nghiệp hạng II là viên chức chịu trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ có độ phức tạp cao nhất trong lĩnh vực lưu trữ. Lưu trữ viên chính đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu cao nhất về năng lực, trình độ và kinh nghiệm công tác chuyên môn, có khả năng tổng hợp cao và giải quyết được những vấn đề phức tạp trong quản lý, dày dạn kinh nghiệm, biết kết hợp giữa kiến thức, trí tuệ, kinh nghiệm công tác, có khả năng phân tích tổng hợp đáp ứng được các yêu cầu của vị trí chủ chốt trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của Lưu trữ viên chính bao gồm:
a) Nắm vững và thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quy định, chế độ của ngành về công tác lưu trữ;
b) Nắm vững lý luận, lịch sử và thực tiễn công tác lưu trữ Việt Nam; hiểu biết, cập nhật kịp thời những công nghệ hiện đại, xu thế phát triển về công tác lưu trữ của thế giới;
c) Nắm vững kiến thức của các môn khoa học và chuyên ngành có liên quan đến việc thu thập, sưu tầm, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, khai thác sử dụng tài liệu;
d) Có năng lực xây dựng phương án quản lý nghiệp vụ lưu trữ và thủ tục hành chính về lưu trữ; tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy trình nghiệp vụ lưu trữ;
đ) Có năng lực, kỹ năng quản lý và tổ chức lao động khoa học trong hoạt động lưu trữ. Vận dụng có hiệu quả những kinh nghiệm tiên tiến trong nước và thế giới vào công tác lưu trữ;
e) Có năng lực tổng hợp, tổ chức chỉ đạo, triển khai nghiệp vụ lưu trữ; tổ chức phối hợp và kiểm tra kết quả công tác của các viên chức trong thực hiện nghiệp vụ lưu trữ;
g) Đối với viên chức dự thi hoặc xét thăng hạng lưu trữ viên chính thì phải là người đã chủ trì, tham gia ít nhất 1 (một) đề tài, đề án nghiên cứu, công trình khoa học cấp bộ, ngành, tỉnh (hoặc chủ trì ít nhất 1 (một) đề tài, đề án nghiên cứu, công trình khoa học cấp cơ sở) được cấp có thẩm quyền nghiệm thu và đánh giá đạt yêu cầu; hoặc là tác giả của ít nhất 3 (ba) bài báo khoa học được công bố trên tạp chí chuyên ngành; hoặc có ít nhất 1 (một) sáng kiến được áp dụng có hiệu quả vào công tác lưu trữ được cơ quan có thẩm quyền công nhận;
h) Viên chức thăng hạng từ chức danh lưu trữ viên (hạng III) lên chức danh lưu trữ viên chính (hạng II) phải có thời gian công tác giữ chức danh lưu trữ viên (hạng III) tối thiểu đủ 9 (chín) năm. Trong đó, đã tốt nghiệp đại học trước khi thi hoặc xét thăng hạng từ đủ 3 (ba) năm trở lên.
3. Đạo đức nghề nghiệp của Lưu trữ viên chính
3.1. Quan niệm về đạo đức nghề nghiệp
Luật Viên chức nêu khái niệm đạo đức nghề nghiệp như sau:
“Đạo đức nghề nghiệp là các chuẩn mực về nhận thức và hành vi phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định” (Điều 3, Khoản 2, Luật Viên chức).
Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiêu thứ đạo đức nghề nghiệp. Bất cứ nghề nghiệp nào cũng cần đạo đức nghề nghiệp để tạo ra giá trị, lợi ích cho xã hội, để làm đúng với trách nhiệm của mình. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội được thể hiện một cách đặc thù, cụ thể trong các hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là một dạng của đạo đức xã hội, nó có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá nhân và thể hiện thông qua đạo đức cá nhân.
Đạo đức nghề nghiệp, cũng như đạo đức nói chung, có vai trò nâng cao tính tích cực của viên chức, giúp cho viên chức tin tưởng vào mình trong quá trình hoạt động nghề nghiệp được đảm nhiệm. Niềm tin tưởng đó, là động lực bên trong thôi thúc người viên chức vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp, cái cao cả, loại trừ cái xấu, cái nhỏ nhen, ty tiện làm cho cơ quan, đơn vị và xã hội ngày một tốt đẹp hơn.
Nghĩa vụ đạo đức không chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu của cơ quan, đoàn thể, của xã hội đối với viên chức mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, hoàn thiện nhân cách của bản thân mỗi người. Vì thế, nghĩa vụ đạo đức không phải là sự ép buộc từ bên ngoài mà là sự gắn bó chặt chẽ với ý thức về lẽ sống, hạnh phúc và triết lý sống của viên chức.
3.2. Bộ tiêu chuẩn đạo đức dành cho lưu trữ viên do Hội đồng Lưu trữ
Quốc tế ban hành
Năm 1996, Hội đồng Lưu trữ Quốc tế đã ban hành Bộ tiêu chuẩn đạo đức dành cho viên chức ngành lưu trữ với 10 nội dung nhằm xác lập các tiêu chuẩn cao trong hoạt động nghề nghiệp lưu trữ, cụ thể:
- Các lưu trữ viên nên bảo vệ sự toàn vẹn của tài liệu lưu trữ và trên cơ sở đó đảm bảo rằng các tài liệu vẫn tiếp tục là bằng chứng đáng tin cậy của quá khứ.
- Các lưu trữ viên nên xác định giá trị, lựa chọn và bảo quản các tài liệu lưu trữ trong bối cảnh lịch sử, pháp lý và hành chính của nó, từ đó vẫn giữ nguyên tắc xuất xứ, bảo quản và hiểu rõ các mối quan hệ ban đầu của tài liệu.
- Các lưu trữ viên phải bảo vệ tính xác thực của các tài liệu trong quá trình lưu trữ, bảo quản và sử dụng.
- Các lưu trữ viên phải đảm bảo khả năng tiếp cận liên tục và tính dễ hiểu của tài liệu lưu trữ.
- Các lưu trữ viên nên ghi lại, và nhờ đó có thể chứng minh các hành động của họ trên các tài liệu lưu trữ.
- Các lưu trữ viên nên thúc đẩy việc tiếp cận tài liệu lưu trữ một cách rộng rãi nhất có thể và cung cấp một dịch vụ công bằng cho tất cả người dùng.
- Các lưu trữ viên nên tôn trọng quyền truy cập và quyền riêng tư, và hành động trong phạm vi ranh giới của pháp luật có liên quan.
- Các lưu trữ viên nên sử dụng sự tin tưởng đặc biệt dành cho mình vì lợi ích chung và tránh sử dụng vị trí của họ để làm lợi một cách không công bằng cho mình hoặc cho người khác.
- Các lưu trữ viên nên theo đuổi sở trường chuyên môn bằng cách cập nhật một cách hệ thống và liên tục kiến thức về lưu trữ của họ, và chia sẻ các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm của họ.
- Các lưu trữ viên nên thúc đẩy việc bảo quản và sử dụng di sản tư liệu thế giới, thông qua việc hợp tác với các thành viên trong và ngoài ngành nghề của họ.
3.3. Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp đối với viên chức ngành Lưu trữ tại Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu Bộ tiêu chuẩn đạo đức dành cho lưu trữ viên do Hội đồng Lưu trữ Quốc tế ban hành, căn cứ Luật Lưu trữ và Luật Viên chức, ngày 20 tháng 4 năm 2016, Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 916/QĐ-BNV về việc Ban hành Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp đối với viên chức ngành Lưu trữ. Quy tắc này gồm 4 chương và 14 Điều, áp dụng đối với viên chức thực hiện công tác lưu trữ trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện áp dụng các quy định tại Quy tắc này để quản lý, đánh giá viên chức thực hiện công tác lưu trữ.
Mục đích của Bộ quy tắc: Nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của viên chức ngành Lưu trữ trong thi hành nhiệm vụ, quan hệ xã hội, công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Nâng cao tinh thần trách nhiệm trong bảo vệ, bảo quản an toàn và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ của cơ quan, đơn vị và của nhân dân; Là căn cứ để cơ quan, đơn vị đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của viên chức, xử lý trách nhiệm khi viên chức vi phạm trong thực hiện nhiệm vụ và trong quan hệ xã hội.
Đặc biệt, Bộ quy tắc này giới thiệu cho các thành viên mới vào nghề về những chuẩn mực đạo đức, nhắc nhở các lưu trữ viên lâu năm về trách nhiệm nghề nghiệp của họ và tạo dựng niềm tin trong nhân dân vào nghề nghiệp của họ.
Các quy định về đạo đức nghề nghiệp của lưu trữ viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bao gồm:
a) Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của công chức, viên chức theo quan điểm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
Những khái niệm như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính đã được xác định là những đức tính không thể thiếu, trở thành nền tảng cơ bản trong đạo đức nghề nghiệp. Đây là những đức tính mà bản thân mỗi viên chức lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt động.
b)Trung thực, khách quan trong quá trình thực hiện công việc;
Trung thực là đức tính, phẩm giá cao quý của con người, là sự đối lập với lừa đảo, dối trá. Tính trung thực của con người trong đời sống quyết định sự đúng đắn, khách quan trong các hành vi xử sự của con người. Trong quá trình thực hiện công việc, lưu trữ viên phải đảm bảo sự thẳng thắn, trung thực, không cho phép sự thiên vị, xung đột lợi ích hoặc bất cứ ảnh hưởng không hợp lý nào chi phối các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.
c) Tâm huyết với nghề, có trách nhiệm với công việc;
Đối với các cơ quan, tổ chức, công tác văn thư, lưu trữ cũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy mỗi cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều có một đặc điểm chung là trong quá trình hoạt động đều sản sinh những giấy tờ liên quan và những văn bản, tài liệu có giá trị đều được lưu giữ lại để tra cứu, sử dụng khi cần thiết. Bởi đây là những bản gốc, bản chính, là căn cứ xác nhận sự việc đã xảy ra và có giá trị pháp lý rất cao. Việc soạn thảo, ban hành văn bản đã quan trọng, việc lưu trữ, bảo quản an toàn và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ còn quan trọng hơn nhiều. Do đó, khi các cơ quan, tổ chức được thành lập, công tác văn thư, lưu trữ sẽ tất yếu được hình thành vì đó là “huyết mạch” trọng hoạt động của mỗi cơ quan, tổ chức. Công tác văn thư, lưu trữ nhằm đảm bảo thông tin bằng văn bản phục vụ kịp thời cho việc lãnh đạo, quản lý điều hành công việc, cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, ảnh hưởng trực tiếp tới việc giải quyết công việc hằng ngày, tới chất lượng và hiệu quả hoạt động của mỗi cơ quan, tổ chức.
Khi hiểu thực sự về vai trò của công tác lưu trữ đối với sự phát triển của xã hội, lưu trữ viên dần hình thành lòng yêu nghề. Lòng yêu nghề là tình cảm say mê và thái độ sẵn sàng đi tới cùng với nghề mà mình lựa chọn. Chính nhờ lòng yêu nghề này mà các lưu trữ viên mới có thể hoàn thành tốt công việc của mình, giải quyết các công việc một cách thành thạo chuyên nghiệp (thạo nghề) và đầy trách nhiệm (có trách nhiệm với nghề).
d) Đoàn kết, khiêm tốn, hợp tác chặt chẽ với đồng nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
Khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp, viên chức hình thành nhiều mối quan hệ với cơ quan, đồng nghiệp. Quan hệ này được pháp luật điều chỉnh, tùy thuộc vào chức vụ, chức danh do viên chức đảm nhiệm, đồng thời từ đó cũng hình thành nên tình cảm, thái độ của họ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Người viên chức biết thiết lập quan hệ với đồng nghiệp trong công việc, biết chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác với đồng nghiệp, không chỉ biết hoàn thành nghĩa vụ của mình mà phải biết giúp đỡ đồng nghiệp hoàn thành nhiệm vụ, có tinh thần, thái độ cầu thị, biết giúp nhau cùng phát triển, hoàn thiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thân ái, hợp tác ở đây không phải là bao che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật trong thực hiện nhiệm vụ và trong cuộc sống.
Đối với cấp dưới, viên chức lãnh đạo cần hướng dẫn, dẫn dắt cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ, tôn trọng ý kiến cấp dưới, biết tạo điều kiện cho cấp dưới phát triển trong chức nghiệp. Đối với cấp trên, nhân viên phải tôn trọng người lãnh đạo quản lý, chấp hành mọi quyết định hợp pháp của người lãnh đạo, quản lý, hoàn thành mọi nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước cấp trên.
đ) Học tập thường xuyên nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp, ứng xử
Trong hoạt động nghề nghiệp, viên chức có quyền và nghĩa thường xuyên học tập nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ. Tinh thần cầu tiến bộ, học tập không ngừng là một yêu cầu đối với mỗi viên chức.
e) Chủ động nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, sáng kiến vào công tác văn thư, lưu trữ.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về thông tin ngày càng cao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ, lưu trữ viên cần không ngừng nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong tiến trình phát triển, hội nhập, cùng với lưu trữ các nước tiên tiến trên thế giới.
g) Giữ gìn bí mật thông tin tài liệu theo đúng quy định của pháp luật và quy định của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thông đạt số 1C-VP ngày 03/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam DCCH về việc gìn giữ công văn tài liệu đã chỉ rõ “tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia” và đánh giá “tài liệu lưu trữ là tài sản quý báu, có tác dụng rất lớn trong việc nghiên cứu tình hình, tổng kết kinh nghiệm, định hướng chương trình kế hoạch công tác và phương châm chính sách về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, cũng như khoa học kỹ thuật. Do đó, việc lưu trữ công văn, tài liệu là một công tác hết sức quan trọng”. Người yêu cầu các Bộ trưởng, ban “chỉ thị cho nhân viên các sở phải giữ gìn công văn, tài liệu và cấm không được hủy bỏ các công văn, tài liệu ấy”, “Hồ sơ hoặc công văn không cần dùng sau này sẽ phải gửi về những Sở lưu trữ công văn thuộc Bộ Quốc gia giáo dục để tàng trữ”.
Trong hoạt động của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào phải luôn luôn thực hiện bảo vệ bí mật nhà nước để bảo vệ những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho cơ quan, tổ chức nói riêng và cho Nhà nước nói chung. Sản phẩm hình thành trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức chủ yếu là văn bản, tài liệu, do đó phần lớn các nội dung thuộc bí mật nhà nước đều được văn bản hóa, được phản ánh cụ thể trong các văn bản, tài liệu. Do đó, những bí mật về nội dung, thông tin trong văn bản thuộc danh mục bí mật nhà nước nếu được bảo vệ tốt, sẽ là yếu tố quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bí mật nhà nước.
Các nội dung công việc liên quan đến văn bản, tài liệu như: soạn thảo, ban hành văn bản, vận chuyển, giao nhận, quản lý, bảo quản, sử dụng văn bản, tài liệu… lại chính là các nội dung công việc chủ yếu của công tác văn thư, lưu trữ. Nếu công tác văn thư, lưu trữ được quan tâm, thực hiện đúng quy định sẽ góp phần bảo vệ được bí mật nhà nước có trong văn bản, tài liệu; ngược lại, nếu các quy định của công tác văn thư, lưu trữ không được thực hiện đúng thì có thể dẫn đến lộ, lọt, mất thông tin bí mật nhà nước có trong văn bản, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Từ đó cho thấy viên chức lưu trữ cần tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật về văn thư, lưu trữ nhằm bảo vệ an toàn các nội dung bí mật nhà nước chứa đựng trong văn bản, tài liệu.
h) Thực hiện thường xuyên, nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình.
Song song với việc hình thành những giá trị phẩm chất, những thói quen hành vi đạo đức liên quan trực tiếp tới công việc thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình, cũng như cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước khác, lưu trữ viên muốn có đạo đức nghề nghiệp trong sáng phải luôn phấn đấu tự hoàn thiện mình về mọi mặt, trong đó cần là phải thường xuyên và tự giác trong việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, lối sống của mỗi người, đặc biệt là đẩy mạnh tinh thần tự phê bình và phê bình, đấu tranh với các hiện tượng sai trái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh: Hán Việt từ điển, NXB Văn hóa - Thông tin, trang 207.
2. Nguyễn Đăng Dung: Nhà nước và trách nhiệm nhà nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006.
3. Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo: Đạo đức trong nền công vụ, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2003.
4. Phạm Hồng Thái: Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2013.
5. Thông tư số 13/2014/TT-BNV ngày 31 tháng 10 năm 2014 của Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành Lưu trữ.
6. Hồ Đức Việt, Phạm Hồng Tung: Chủ tịch Hồ Chí Minh với bài học lịch sử và kinh nghiệm trọng dụng nhân tài, Hội thảo khoa học Công tác nhân tài ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 2011.
7. Nguyễn Như Ý: Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - Thông tin, 1998, trang 595.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Tiêu chuẩn nghề nghiệp của Lưu trữ viên chính gồm những tiêu chuẩn nào?
2. Các yếu tố nào ảnh hưởng tới đạo đức nghề nghiệp lưu trữ viên chính?
3.Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp đối với Lưu trữ viên chính là gì? Theo anh/chị, tiêu chuẩn nào là quan trọng nhất ?
1. Những vấn đề chung về Chính phủ điện tử
Từ thập niên cuối của thế kỷ 20 đến những năm đầu của thế kỷ 21, nền kinh tế thế giới đã có những bước chuyển quan trọng với những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng thông tin, tác động trực tiếp tới phương thức hoạt động của Chính phủ nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu giao dịch với khách hàng, doanh nghiệp và người dân.
Với xu hướng ứng dụng ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn, việc sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến nhằm hỗ trợ hoạt động của cơ quan nhà nước, hướng tới phát triển Chính phủ điện tử là tất yếu. Xây dựng Chính phủ điện tử trở thành nhiệm vụ quan trọng đối với bất cứ Chính phủ nào. Lợi ích mà Chính phủ điện tử mang lại được thể hiện rất rõ, thậm chí có thể định lượng được. Điển hình như tại Mỹ trung bình mỗi người dân tiết kiệm được 753 USD/năm từ việc truy cập tới Cổng thông tin điện tử để tra cứu thông tin, tìm hiểu thông tin và thực hiện các giao dịch với Chính phủ; tại Đài Loan khi ứng dụng hệ thống trao đổi văn bản điện tử đã giảm chi phí gửi một văn bản xuống 10 lần (từ 01 USD xuống 0,1 USD), trung bình một năm số văn bản trao đổi khoảng 18 triệu bản, tiết kiệm được khoảng 16 triệu USD; tại Đức khi ứng dụng hệ thống mua sắm điện tử của các cơ quan Chính phủ đã làm giảm giá mua từ 10-30%, chi phí giao dịch giảm 25-70%; tại Hàn Quốc nhờ ứng dụng dịch vụ hải quan điện tử đã làm giảm thời gian thông quan đối với các mặt hàng xuất khẩu giảm từ 01 ngày hoặc hơn xuống còn khoảng 02 phút, đối với mặt hàng nhập khẩu giảm từ 02 ngày hoặc hơn xuống còn khoảng 02 giờ2.
1.1. Khái niệm
Chính phủ điện tử là một thuật ngữ xuất hiện chưa lâu trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện không có một định nghĩa thống nhất về Chính phủ điện tử, hay nói cách khác, hiện không có một hình thức Chính phủ điện tử được áp dụng giống nhau cho tất cả các nước và vùng lãnh thổ.
Theo Liên Hợp Quốc (UN) và Hiệp hội hành chính Hoa Kỳ (American Society of Public Administration - ASPA), Chính phủ điện tử là việc Chính phủ khai thác các tính năng Internet và Web vào cung cấp thông tin và dịch vụ tới người dân và các đối tượng khác trong xã hội.
Ngân hàng thế giới (World Bank) quan niệm: “Chính phủ điện tử là việc các cơ quan của chính phủ sử dụng một cách có hệ thống CNTT-TT để thực hiện quan hệ với người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, nhờ đó giao dịch của các cơ quan chính phủ với người dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí”.
Tổ chức Đối thoại doanh nghiệp toàn cầu về thương mại điện tử đưa ra khái niệm: “Chính phủ điện tử là đề cập đến một trạng thái trong đó các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp (bao gồm cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương) số hóa các hoạt động bên trong và bên ngoài của họ và sử dụng các hệ thống được nối mạng hiệu quả để có được chất lượng tốt hơn trong việc cung cấp các dịch vụ công”3.
Một số học giả khác cho rằng Chính phủ điện tử là mối quan hệ Chính phủ, khách hàng và nhà cung cấp trong đó không chỉ liên quan đến máy tính, mạng Internet mà là sự đổi mới toàn diện các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân), các nguồn lực, các quy trình, phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương, và ngay cả các quan niệm về các hoạt động đó.
Từ những nội dung nêu trên cho phép tổng hợp và rút ra một cách hiểu chung nhất: “Chính phủ điện tử là việc các cơ quan Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin (như các mạng diện rộng, Internet, công nghệ di động) để thay đổi các quan hệ của Chính phủ với người dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác, hướng tới cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến người dân, doanh nghiệp, tăng cường sự tương tác của người dân, doanh nghiệp với Chính phủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước”. Hay nói ngắn gọn, “Chính phủ điện tử là chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan chính phủ, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn”4.
Một mô hình Chính phủ điện tử hiệu quả bao gồm cách thức giải quyết quan hệ tương tác về thông tin giữa ba chủ thể: chính phủ, công dân và doanh nghiệp. Tùy theo quan hệ tương tác giữa các chủ thể ta có:
- Giữa chính phủ với nhau (Government to Government - G2G): Đây là cấp độ thường được khởi động trước tiên với việc giúp các cơ quan nhà nước chia sẻ dữ liệu, trao đổi công việc thuận tiện, phối hợp giữa các cơ quan chính phủ với nhau, trong đó xác định: Các dịch vụ tương tác giữa cơ quan Trung ương và các cơ quan cấp tỉnh là mối quan hệ dọc. Các dịch vụ tương tác giữa các bộ, ban, ngành và các tổ chức của Chính phủ ở cấp trung ương hoặc cấp tỉnh là mối quan hệ ngang.
- Giữa chính phủ với người dân (Government to Citizen - G2C): Cấp độ cho phép chính phủ cung cấp các thông tin và dịch vụ công đến người dân, có thể gồm: thông tin về các cơ quan chính phủ, về các qui định, chính sách, luật pháp… cùng các dịch vụ về làm giấy khai sinh/khai tử/hôn nhân, làm mới hoặc gia hạn các loại giấy phép, dịch vụ trợ giúp người dân trong giáo dục, bảo vệ sức khỏe và chữa bệnh…
- Giữa chính phủ với doanh nghiệp (Government to Business - G2B): Cấp độ cho phép hoạt động trực tuyến kết nối giữa cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ. Các cơ quan chính phủ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, phổ biến các qui định, các chính sách…cho các doanh nghiệp; cung cấp các dịch vụ công như làm mới và gia hạn các loại giấy phép, các chứng nhận…
1.2. Mục tiêu
Mục tiêu chung của Chính phủ điện tử là tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả điều hành nhà nước của Chính phủ, mang lại thuận lợi cho người dân, tăng cường sự công khai minh bạch (transparency), giảm chi tiêu chính phủ.
Các mục tiêu cụ thể gồm:
- Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Chính phủ và các cơ quan chính quyền các cấp (trao đổi văn bản điện tử, thu thập thông tin chính xác và kịp thời ra quyết định, giao ban điện tử...). Cải tiến quy trình công tác trong cơ quan Chính phủ thông qua hành chính điện tử, xây dựng và thường xuyên cập nhật các quy trình ISO trong quản lý, điều hành, tác nghiệp. Nâng cao tính minh bạch và tin cậy thông qua việc đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành để người dân được chủ động trong quá trình tham gia hoạch định chính sách của chính phủ.
- Cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công tạo điều kiện cho người dân dễ dàng truy nhập ở khắp mọi nơi. Cải thiện giao dịch của các cơ quan Chính phủ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức về phạm vi và khả năng tiếp cận các dịch vụ, tạo ra thay đổi về chất trong cách công dân tương tác với chính phủ và trong áp dụng các biện pháp điều hành nền kinh tế và quản lý xã hội của chính phủ.
- Người dân có thể tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình xây dựng luật pháp, quá trình điều hành của chính phủ một cách tích cực. Thông qua hệ thống mạng Internet, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa của đất nước có thể gửi và nhận thông tin dễ dàng hơn tới và từ chính phủ, mở rộng khả năng tương tác và chia sẻ thông tin.
- Giảm được chi phí cho bộ máy chính phủ, thực hiện một chính phủ hiện đại, hiệu quả và minh bạch. Chính phủ điện tử tạo ra phong cách lãnh đạo mới, nâng cao được năng lực quản lý điều hành, hỗ trợ việc cung cấp thông tin được đầy đủ và nhanh chóng, nâng cao năng suất về mặt hành chính và giảm thiểu chi phí, giúp giảm bớt các khâu thủ tục rườm rà trong cung cấp dịch vụ công.
1.3. Các giai đoạn xây dựng Chính phủ điện tử
Nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...cho thấy phát triển Chính phủ điện tử là quá trình liên tục, trải qua các giai đoạn khác nhau. Các tổ chức khác nhau có cách phân chia các giai đoạn phát triển Chính phủ điện tử của riêng mình, trong đó nổi bật là cách phân chia của Gartner5, bao gồm:
- Giai đoạn 1 (Hiện diện - Presence): Cung cấp thông tin cơ bản về các cơ quan chính phủ như chức năng, nhiệm vụ, địa chỉ liên hệ, thời gian làm việc, các văn bản liên quan giúp người dân tiếp cận thông tin, nâng cao chất lượng phục vụ người dân.
- Giai đoạn 2 (Tương tác - Interaction): Trang thông tin điện tử của các cơ quan chính phủ cung cấp chức năng tìm kiếm, cho phép tải về các biểu mẫu điện tử, các đường liên kết với các trang thông tin điện tử liên quan, cũng như danh bạ địa chỉ thư điện tử, người dân có thể trao đổi qua thư điện tử, tải xuống các biểu mẫu và tài liệu.
- Giai đoạn 3 (Giao dịch - Transaction): Cho phép thực hiện hoàn chỉnh các dịch vụ công (nộp hồ sơ, xử lý hồ sơ, trả phí dịch vụ trực tuyến...) với việc sử dụng chữ ký điện tử. Người dân không cần trực tiếp đến cơ quan hành chính.
- Giai đoạn 4 (Chuyển đổi - Transformation): Ngoài việc thực hiện các chức năng trong giai đoạn 3, giai đoạn này cung cấp một điểm truy cập duy nhất (điểm giao dịch ảo trên mạng Internet) tới cơ quan chính phủ, thông qua đó có thể thực hiện mọi giao dịch và các cơ quan chính phủ là “trong suốt” đối với người dân. Việc tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả đạt được ở mức cao nhất có thể.
1.4. Chính phủ điện tử ở Việt Nam
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện mạnh mẽ chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin nhằm cải cách hành chính, xây dựng một Chính phủ hiệu lực, hiệu quả hơn, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn từ 1993 đến 1998, Nhà nước ta đã bắt đầu tin học hóa hoạt động của cơ quan nhà nước với việc ban hành và triển khai thực hiện: Nghị quyết số 49/CP ngày 4/8/1993 của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin; Quyết định số 211/TTg ngày 7/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin - Kế hoạch tổng thể đến năm 2000… và đã đạt được một số kết quả ban đầu như: xây dựng hệ thống thông tin quản lý tại Văn phòng Chính phủ; xây dựng hệ thống thông tin kinh tế - xã hội phục vụ công tác kế hoạch và quản lý kinh tế; xây dựng hệ thống thông tin tài chính, hiện đại hóa hệ thống ngân hàng cùng với việc thực hiện dự án về hệ thống thông tin thống kê nhà nước. Vào năm 1998, Chính phủ Việt Nam đã chính thức cam kết xây dựng Chính phủ điện tử6.
Trong giai đoạn 2001 đến 2006, việc thúc đẩy tin học hóa hoạt động của cơ quan nhà nước đã được triển khai mạnh mẽ. Ngày 17/10/2000, Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngày 25/01/2001, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005 tại Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg. Ngày 17/7/2002, tại Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam đến năm 2005. Một số thành tựu đạt được trong giai đoạn này gồm: Phát triển mạng viễn thông và Internet tiên tiến; nâng cấp mạng tin học diện rộng của Chính phủ; xây dựng các hệ thống tin học hóa quản lý hành chính nhà nước phục vụ công tác chỉ đạo điều hành; tin học hóa các dịch vụ công nhằm giảm thiểu thời gian giải quyết thủ tục hành chính; bước đầu triển khai các hệ thống thông tin chuyên ngành ngân hàng, tài chính, hải quan, thống kê, an ninh...
Năm 2006, việc triển khai mô hình chính phủ điện tử phù hợp cho Việt Nam đã được quan tâm thảo luận trong kỳ họp của Hội nghị thường niên lần thứ IV về Chính phủ điện tử. Bên cạnh đó, việc ra đời Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử, Luật Sở hữu trí tuệ và việc Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho phát triển ứng dụng công nghệ thông tin.
Năm 2009, tại Đề án “Tăng tốc” và Tổng thể Chiến lược quốc gia về phát triển công nghệ thông tin của Chính phủ, Chính phủ điện tử được xác định là một trong những mục tiêu quan trọng nhất cần đạt.
Giai đoạn từ 2009 đến 2015 là giai đoạn từng bước triển khai và mở rộng xây dựng Chính phủ điện tử tại Việt Nam gắn với cải cách thể chế; xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công7. Tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010, Nghị quyết số 3oC/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/06/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 3oC/NQ-CP, Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 22/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020, Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử, Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020, Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, việc xây dựng và phát triển tổng thể Chính phủ điện tử được xác định phải luôn đi kèm với cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử cấp chính quyền địa phương và cải thiện khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước. Giai đoạn 2011-2015, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành trên 11.700 văn bản chỉ đạo, điều hành công tác cải cách hành chính. Bộ Nội vụ cũng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện cải cách hành chính một cách đồng bộ, thống nhất, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai và công bố Chỉ số cải cách hành chính và triển khai Đề án đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đối với dịch vụ y tế công, giáo dục công... Công tác thanh tra, kiểm tra đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện với trên 1.600 cơ quan, đơn vị ở Trung ương và trên 8.000 cơ quan, đơn vị ở địa phương được kiểm tra. Tuyên truyền cải cách hành chính tại các bộ, ngành đạt trên 2.800 đợt, địa phương đạt 4.100 đợt, với trên 2.600 mô hình, sáng kiến cải cách hành chính được triển khai tại các tỉnh, thành phố. Tính đến hết năm 2015 đã đơn giản hóa 4.525/4.723 thủ tục hành chính, đạt tỷ lệ 95,8%. Việc rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, công bố, niêm yết công khai tại nơi tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính đã giúp giải phóng nguồn lực xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhiều đề án, sáng kiến cải cách thủ tục hành chính mang tính đột phá được nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện, cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tiếp tục được đẩy mạnh triển khai tại các địa phương8.
Theo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2016 của Liên Hợp Quốc, Việt Nam xếp thứ 89/193 nước trên thế giới, tăng 10 bậc so với năm 2014. Trong khu vực Asean, Việt Nam, Thái Lan và Philippines đã được Liên Hợp Quốc đánh giá có sự cải thiện đáng kể về phát triển Chính phủ điện tử so với năm 2014, do đó đã lọt vào nhóm các nước có chỉ số phát triển cao. Ngoài ra, về chỉ số sẵn sàng kết nối thông tin toàn cầu, Diễn đàn kinh tế thế giới cũng xếp Việt Nam ở vị trí 85 trên tổng số 142 quốc gia trong Báo cáo tháng 04/2015.
Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực trong xây dựng Chính phủ điện tử. Đến nay, 90% cán bộ công chức viên chức trong cơ quan nhà nước được trang bị máy tính phục vụ công việc. 100% cơ quan nhà nước có mạng nội bộ phục vụ công việc ngày càng tốt hơn. 60% các bộ, ngành và 40% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có ứng dụng hoặc triển khai thí điểm chữ ký số. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước đã được triển khai xây dựng, đã hoàn thành triển khai xong giai đoạn 2, kết nối đến cấp sở, ban, ngành, quận, huyện. Hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có báo cáo đã triển khai hệ thống thư điện tử chính thức đồng bộ cho tất cả các cơ quan, đơn vị. 100% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo đã trang bị hệ thống quản lý văn bản và điều hành và các phần mềm cơ bản phục vụ hoạt động thường xuyên (quản lý tài sản, quản lý ngân sách, quản lý tài chính…). 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có trang/cổng thông tin điện tử. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước được triển khai một cách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, nổi bật là hệ thống một cửa hiện đại cấp quận, huyện, xã, phường với mô hình trung tâm hành chính công9.
Tuy nhiên, có nhiều chỉ số của Việt Nam còn ở mức thấp: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở nhiều nơi chưa đáp ứng, đặc biệt khu vực khó khăn. Việc triển khai các hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quốc gia tạo nền tảng cho Chính phủ điện tử còn chậm. Vấn đề an toàn bảo mật thông tin cần chú trọng hơn. Công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều trong các cơ quan nhà nước nhưng mang tính rời rạc, không liên kết thành một hệ thống, văn bản điện tử không được truyền đưa thông suốt giữa các cơ quan nhà nước, dữ liệu không được chia sẻ và khai thác chung. Không ít các chương trình phần mềm được xây dựng từ nhiều năm trước, không được nâng cấp, khó sử dụng. Một số bộ, ngành triển khai phần mềm không phù hợp với thực tế. Chất lượng đường truyền Internet và 3G chưa ổn định. Việc đầu tư công nghệ thông tin còn chưa đồng bộ, nhiều khi có sự trùng lặp giữa các cơ quan nhà nước, giữa các cấp10.
2. Dịch vụ công trực tuyến
2.1. Những vấn đề chung về dịch vụ công trực tuyến
2.1.1. Khái niệm
Quán triệt tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX và Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ X, Quốc hội đã đưa khái niệm cung cấp dịch vụ công trên môi trường mạng vào Luật công nghệ thông tin năm 2006 và nhấn mạnh11 việc phải thực hiện cung cấp dịch vụ công trên môi trường mạng. Tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, dịch vụ công trực tuyến được phân chia theo 4 mức như sau:
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: Bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định về thủ tục hành chính đó.
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản, khai báo, hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện vẫn được gửi đi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện.
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền, gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ qua môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có), nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
- Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép thanh toán lệ phí (nếu có) trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.
Trong đó, mức độ 1 là mức độ đơn giản nhất, mức độ 4 là mức độ hoàn chỉnh nhất của dịch vụ công trực tuyến. Ở mức độ 4, người sử dụng được cung cấp dịch vụ công hoàn chỉnh mà không cần trực tiếp đến bộ phận tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan cung cấp dịch vụ.
2.1.2. Vai trò
Việc tận dụng lợi thế của công nghệ thông tin và viễn thông trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến liên tục 24giờ/ngày không phụ thuộc vị trí địa lý, không gian và thời gian được Chính phủ xác định là nội dung quan trọng12. Tại Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương triển khai các giải pháp để cung cấp dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền, theo hướng triển khai cung cấp dịch vụ công mức độ 4. Việc triển khai tích cực nội dung trên góp phần làm giảm áp lực giấy tờ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, tăng cường mức độ, phạm vi cung cấp thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước.
2.1.3. Tiêu chí đánh giá
Kết quả đánh giá mức độ dịch vụ công trực tuyến hiện nay dựa vào chỉ số tổng hợp trên cơ sở hiện trạng cùng khả năng cung cấp dịch vụ công trực tuyến của mỗi chính phủ và được Liên hợp quốc công bố tại Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử theo định kỳ 2 năm một lần. Các tiêu chí đánh giá13 gồm: (i) Các dịch vụ trực tuyến cơ bản; (ii) sử dụng công nghệ đa phương tiện và thúc đẩy tương tác hai chiều với người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; (iii) sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ công và tiếp nhận ý kiến phản hồi về các vấn đề công chúng quan tâm; (iv) kết nối các chức năng của dịch vụ công, thường xuyên tham khảo ý kiến người dân về những vấn đề của chính sách công. Nếu một quốc gia đạt 4 tiêu chí trên tốt, như vậy quốc gia này đã thiết lập nền tảng số cho Chính phủ điện tử, nâng cao tính dân chủ và quyền công dân.
2.2. Dịch vụ công trực tuyến của một số quốc gia trên thế giới
Dưới đây là bảng xếp hạng 10 quốc gia đứng đầu thế giới về chỉ số dịch vụ công trực tuyến14:
STT | Quốc gia | Chỉ số dịch vụ công trực tuyến |
1 | Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len | 1 |
2 | Úc | 0.9783 |
3 | Singapore | 0.9710 |
4 | Canada | 0.9565 |
5 | Hàn Quốc | 0.9420 |
Bảng 1. Top 5 quốc gia đứng đầu về chỉ số dịch vụ công trực tuyến năm 2016
Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len đứng đầu về cung cấp dịch vụ công trực tuyến năm 2016, theo sau là Úc và Singapore, Canada (thứ 4), Hàn Quốc (thứ 5). Tại Anh, dịch vụ công trực tuyến được tập trung phát triển theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ; tích hợp các trang web chính quyền các cấp vào Cổng dịch vụ công quốc gia; định hướng “lấy người dân làm trung tâm” và “tự phục vụ”, kết hợp với liên tục chuẩn hóa quy trình, cải tiến hạ tầng cung cấp dịch vụ bằng các công nghệ mới. Ở Châu Á, Hàn Quốc tiếp tục đặt trọng tâm vào thay đổi cách tiếp cận cung cấp dịch vụ theo hướng “lấy người dân làm trung tâm”, dùng cổng thông tin điện tử chính phủ để tích hợp các dịch vụ hành chính công chủ yếu, tạo điều kiện cung cấp hiệu quả hơn các dịch vụ công đến người dân.
2.3. Thực trạng dịch vụ công trực tuyến ở Việt nam
Cung cấp dịch vụ công trực tuyến là nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính, triển khai Chính phủ điện tử tại Việt Nam15. Đến nay, hầu hết các dịch vụ công trực tuyến đã được các cơ quan nhà nước cung cấp mức độ 2 và số dịch vụ công trực tuyến mức 3,4 có xu hướng được cung cấp ngày càng nhiều.
Theo Báo cáo đánh giá, xếp hạng mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam năm 2015, các bộ trong nhóm triển khai dịch vụ công trực tuyến mạnh mẽ nhất là Bộ tài chính (xếp thứ 1), Ngân hàng nhà nước Việt Nam (thứ 2) và Bộ Giao thông vận tải (tiến lên vị trí thứ 3). Trong nhóm triển khai dịch vụ công trực tuyến mức trung bình, Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội tụt xuống một bậc (xếp thứ 11), tiếp theo là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (thứ 12)...
Bảng 2. Xếp hạng cung cấp dịch vụ công trực tuyến các bộ, cơ quan ngang bộ năm 2015
Về phía các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhóm triển khai dịch vụ công trực tuyến mạnh mẽ nhất là thành phố Đà Nẵng (xếp thứ 1), tỉnh Quảng Ninh (tiến lên vị trí thứ 2) và tỉnh Thừa Thiên Huế (tiến lên vị trí thứ 3). Trong nhóm triển khai dịch vụ công trực tuyến mức trung bình, tỉnh Tiền Giang tiến lên vị trí thứ 21, tiếp theo là thành phố Cần Thơ tụt xuống 5 bậc (xếp thứ 22)...
TT | Tên Tỉnh/Thành |
| Cổng TTĐT | DV công trực tuyến | Chỉ số ƯD | Xếp hạng | ||
2015 | 2014 | 2013 | ||||||
1 | Đà Nẵng |
| 25.40 | 4.25 | 0.8631 | 1 | 1 | 1 |
2 | Quảng |
| 25.40 | 3.71 | 0.7518 | 2 | 6 | 11 |
3 | Thừa Thiên |
| 25.21 | 3.45 | 0.6864 | 3 | 5 | 3 |
4 | Hà Nội |
| 25.38 | 4.10 | 0.6574 | 4 | 2 | 7 |
5 | Khánh |
| 25.40 | 3.43 | 0.6320 | 5 | 15 | 23 |
6 | Nghệ An |
| 25.40 | 3.22 | 0.6229 | 6 | 7 | 5 |
7 | Tp. Hồ Chí |
| 25.40 | 4.04 | 0.6143 | 7 | 3 | 4 |
8 | Lào Cai |
| 25.40 | 3.54 | 0.6126 | 8 | 4 | 2 |
9 | Lâm Đồng |
| 24.40 | 3.14 | 0.6049 | 9 | 19 | 20 |
10 | Thanh |
| 25.40 | 3.35 | 0.5895 | 10 | 9 | 8 |
11 | Bắc Ninh |
| 25.36 | 3.09 | 0.5745 | 11 | 8 | 6 |
12 | Bà Rịa |
| 25.25 | 4.51 | 0.5570 | 12 | 12 | 16 |
13 | Hà Giang |
| 25.40 | 2.69 | 0.5548 | 13 | 38 | 32 |
14 | Bình |
| 25.37 | 3.42 | 0.5543 | 14 | 20 | 13 |
15 | Hà Tĩnh |
| 25.40 | 3.66 | 0.5529 | 15 | 13 | 12 |
16 | Bình |
| 25.40 | 2.75 | 0.5462 | 16 | 11 | 14 |
17 | Hải Phòng |
| 25.40 | 3.13 | 0.5306 | 17 | 10 | 9 |
18 | Quảng |
| 25.40 | 3.11 | 0.5264 | 18 | 34 | 31 |
19 | Đồng Nai |
| 25.37 | 4.55 | 0.5253 | 19 | 36 | 36 |
20 | Bắc Giang |
| 25.37 | 3.63 | 0.5219 | 20 | 21 | 19 |
21 | Tiền |
| 24.40 | 3.25 | 0.5171 | 21 | 33 | 63 |
22 | Cần Thơ |
| 25.09 | 3.35 | 0.5170 | 22 | 17 | 15 |
23 | Đồng |
| 25.40 | 4.24 | 0.5121 | 23 | 18 | 17 |
24 | Long An |
| 24.40 | 3.41 | 0.5045 | 24 | 27 | 25 |
25 | Ninh Bình |
| 25.40 | 3.00 | 0.5005 | 25 | 26 | 28 |
26 | Thái |
| 22.40 | 3.00 | 0.4852 | 26 | 14 | 10 |
27 | Hà Nam |
| 25.36 | 3.62 | 0.4825 | 27 | 28 | 38 |
28 | Kiên |
| 25.26 | 3.68 | 0.4620 | 28 | 48 | 49 |
29 | An Giang |
| 25.40 | 3.95 | 0.4509 | 29 | 16 | 18 |
30 | Đắk Lắk |
| 25.24 | 3.00 | 0.4471 | 30 | 23 | 22 |
31 | Quảng |
| 25.28 | 3.23 | 0.4303 | 31 | 37 | 33 |
32 | Vĩnh Long |
| 24.40 | 3.24 | 0.4269 | 32 | 22 | 35 |
33 | Thái Bình |
| 25.40 | 2.93 | 0.4243 | 33 | 40 | 34 |
34 | Ninh |
| 24.23 | 3.20 | 0.4234 | 34 | 25 | 41 |
35 | Vĩnh Phúc |
| 25.37 | 3.00 | 0.4139 | 35 | 39 | 47 |
36 | Hải |
| 25.40 | 3.19 | 0.3794 | 36 | 45 | 37 |
37 | Nam Định |
| 24.03 | 3.00 | 0.3792 | 37 | 29 | 30 |
38 | Phú Thọ |
| 25.32 | 3.24 | 0.3760 | 38 | 47 | 42 |
39 | Hoà Bình |
| 25.40 | 3.10 | 0.3701 | 39 | 42 | 44 |
40 | Trà Vinh |
| 25.40 | 2.56 | 0.3685 | 40 | 30 | 24 |
41 | Tây Ninh |
| 19.40 | 3.23 | 0.3655 | 41 | 35 | 54 |
42 | Lạng Sơn |
| 25.40 | 3.45 | 0.3606 | 42 | 51 | 55 |
43 | Quảng Trị |
| 25.20 | 3.02 | 0.3472 | 43 | 31 | 29 |
44 | Bến Tre |
| 25.26 | 2.79 | 0.3434 | 44 | 60 | 57 |
45 | Đắk Nông |
| 25.40 | 3.36 | 0.3415 | 45 | 55 | 53 |
46 | Hậu |
| 25.40 | 3.42 | 0.3373 | 46 | 44 | 45 |
47 | Gia Lai |
| 25.40 | 2.99 | 0.3341 | 47 | 59 | 48 |
48 | Quảng |
| 25.35 | 3.27 | 0.3259 | 48 | 54 | 21 |
49 | Bình Định |
| 25.40 | 3.46 | 0.3192 | 49 | 57 | 50 |
50 | Hưng Yên |
| 25.40 | 3.50 | 0.3150 | 50 | 53 | 60 |
51 | Phú Yên |
| 24.22 | 3.07 | 0.3080 | 51 | 43 | 40 |
52 | Cà Mau |
| 25.40 | 3.22 | 0.3036 | 52 | 41 | 51 |
53 | Bình |
| 25.40 | 2.99 | 0.2977 | 53 | 49 | 46 |
54 | Lai Châu |
| 24.95 | 4.10 | 0.2862 | 54 | 56 | 58 |
55 | Bắc Kạn |
| 25.33 | 3.32 | 0.2789 | 55 | 46 | 39 |
56 | Sóc Trăng |
| 20.40 | 2.64 | 0.2773 | 56 | 32 | 26 |
57 | Bac Liêu |
| 25.40 | 3.73 | 0.2740 | 57 | 50 | 61 |
58 | Kon Tum |
| 25.40 | 3.00 | 0.2602 | 58 | 24 | 27 |
59 | Cao Bằng |
| 25.07 | 3.00 | 0.2370 | 59 | 58 | 43 |
60 | Điện Biên |
| 25.16 | 2.15 | 0.2165 | 60 | 63 | 62 |
61 | Yên Bái |
| 25.40 | 3.14 | 0.2154 | 61 | 52 | 52 |
62 | Sơn La |
| 18.40 | 5.33 | 0.2112 | 62 | 62 | 59 |
63 | Tuyên |
| 19.40 | 2.81 | 0.1883 | 63 | 61 | 56 |
Bảng 3. Xếp hạng cung cấp dịch vụ công trực tuyến các tỉnh, TP năm 2015
Quá trình phát triển dịch vụ công trực tuyến thời gian qua cũng cho thấy nhiều hệ thống thông tin chuyên ngành đã phát huy hiệu quả rõ rệt, đặc biệt trong lĩnh vực thuế điện tử, hải quan điện tử. Năm 2015, tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế điện tử đã tăng từ 65% lên 98%; thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm từ 537 giờ/năm xuống còn 167 giờ/năm. Việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử theo Hệ thống thông quan tự động (VNACCS/VCIS) và cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển quốc tế đã giảm thời gian thông quan hàng hóa bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu, giảm được 10 - 20% chi phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp16. Chính phủ đã ban hành danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 được ưu tiên cung cấp và giao Văn phòng Chính phủ làm đầu mối thử nghiệm tích hợp dịch vụ công trực tuyến ở cấp tỉnh; trên cơ sở đó lập phương án xây dựng Cổng dịch vụ công quốc gia để đưa vào hoạt động trong thời gian tới17. Bên cạnh các kết quả tích cực nêu trên, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là: Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở nhiều bộ, ngành, địa phương mới dừng ở mức lập phương án triển khai; trong đó, nhiều cơ quan cho biết còn vướng mắc, khó khăn trong hệ thống hóa các hồ sơ, quy trình xử lý thủ tục hành chính, số lượng dịch vụ công nhiều trong khi kinh phí triển khai hạn hẹp, còn thiếu hướng dẫn khi người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công.
3. Giải pháp phát triển Chính phủ điện tử và dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam
3.1. Môi trường pháp lý
Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Nhằm cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng, Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử đã đề ra các chỉ tiêu và nhiệm vụ phát triển dịch vụ công trực tuyến gồm: “Trong ba năm 2015 - 2017 tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch vụ công trực tuyến” và “Triển khai các giải pháp để nâng cao cả ba nhóm chỉ số về dịch vụ công trực tuyến theo phương pháp đánh giá Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc”. Chương trình quốc gia ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 được phê duyệt tại Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ cũng xác định mục tiêu: “Cung cấp các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi”.
Để đạt được các mục tiêu trên, các giải pháp bảo đảm môi trường pháp lý được Chính phủ xác định18 gồm: (i) Một là, xây dựng các quy định về an toàn, an ninh thông tin, đẩy mạnh sử dụng chữ ký số trong các hoạt động của cơ quan nhà nước; Xây dựng quy định về quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý văn bản điện tử trên toàn quốc. (ii) Hai là, xây dựng và hướng dẫn triển khai Khung kiến trúc Chính phủ điện tử. Xây dựng, ban hành các mô hình, tiêu chí, quy chuẩn, tiêu chuẩn ứng dụng công nghệ thông tin. (iii) Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
3.2. Hạ tầng công nghệ thông tin
Chính phủ giao cho các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ chỉ đạo triển khai đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, các chương trình, kế hoạch của Chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển hạ tầng thông tin phục vụ Chính phủ điện tử và dịch vụ công trực tuyến, tập trung vào các giải pháp: (i) Một là, đẩy mạnh đổi mới, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Từng bước triển khai các hệ thống thông tin quốc gia về dân cư, đất đai - xây dựng... Xác định mô hình ứng dụng công nghệ thông tin điển hình các cấp, hỗ trợ triển khai nhân rộng. (ii) Hai là, đẩy mạnh triển khai thuê dịch vụ công nghệ thông tin từng phần hoặc thuê trọn gói, bao gồm: phần cứng, phần mềm, đường truyền, giải pháp...trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Bổ sung, nâng cấp và tích hợp các dịch vụ công trực tuyến của bộ, ngành, địa phương và các đơn vị trực thuộc lên cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương và Cổng dịch vụ công quốc gia. (iii) Ba là, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin kết hợp với hệ thống quản lý chất lượng ISO (ISO điện tử) trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Kết nối, liên thông phần mềm quản lý văn bản với Văn phòng Chính phủ. (iv) Bốn là, tạo điều kiện để các doanh nghiệp công nghệ thông tin lớn, các doanh nghiệp nhà nước nòng cốt, có giải pháp huy động, tập hợp các doanh nghiệp công nghệ thông tin vừa và nhỏ tham gia xây dựng, vận hành hệ thống thông tin phục vụ quản lý và cung cấp dịch vụ công trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương. (v) Năm là, thực hiện các giải pháp để nâng cao chỉ số thành phần hạ tầng của Việt Nam theo phương pháp đánh giá phát triển Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc. (vi) Sáu là, nâng cao chất lượng mạng truyền dữ liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng và Nhà nước, đáp ứng kịp thời yêu cầu sử dụng. Thực hiện giám sát an toàn thông tin đối với hệ thống, dịch vụ công nghệ thông tin.
3.3. Nhân lực
Nhằm đảm bảo cho tất cả các cán bộ, công chức, viên chức, người dân cùng toàn xã hội nhận thức đúng và hiểu được tầm quan trọng của phát triển Chính phủ điện tử, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền, cũng cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp: (i) Một là, tăng cường tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin, giám đốc công nghệ thông tin ở cơ quan nhà nước các cấp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường năng lực cán bộ làm công tác an toàn, an ninh thông tin trong cơ quan nhà nước. Khuyến khích, hỗ trợ người dân trong việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ công trực tuyến. Đào tạo chuyên gia về Chính phủ điện tử của Việt Nam. (ii) Hai là, tập trung thực hiện các giải pháp để nâng cao chỉ số nguồn nhân lực của Việt Nam theo phương pháp đánh giá Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc và hàng năm chủ động đề nghị phối hợp với các tổ chức quốc tế liên quan để cung cấp các số liệu này kịp thời, đầy đủ. (iii) Ba là, tiến hành xây dựng phương án và hướng dẫn thực hiện trực tuyến việc xét tuyển đầu cấp học (đại học, cao đẳng) trên toàn quốc; xây dựng và đưa vào triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học.
3.4. Các giải pháp khác
Bên cạnh việc đảm bảo sự gắn kết và đồng bộ giữa các giải pháp chủ yếu nêu trên, các giải pháp sau cũng cần được thực hiện nhằm góp phần mang lại hiệu quả thiết thực cho phát triển Chính phủ điện tử tại Việt Nam: (i) Một là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, đồng thời có các hình thức khen thưởng kịp thời các đơn vị, cá nhân làm tốt; có các biện pháp, chế tài đối với các đơn vị, cá nhân chưa hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. (iii) Hai là, tạo mọi thuận lợi và giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp, người dân, nhất là đối với thủ tục hành chính liên quan đến các chỉ số xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc. (iv) Ba là, sử dụng Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam để hỗ trợ thiết lập cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân các cấp và tích hợp dịch vụ công trực tuyến trên cổng, tập trung cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. (v) Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế, triển khai các hoạt động tìm hiểu thực tế mô hình phát triển Chính phủ điện tử thành công tại các nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin;
2. Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 13/06/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;
3. Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 3oC/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/06/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 3oC/NQ-CP;
4. Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020;
5. Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ;
6. BCĐ cải cách hành chính của Chính phủ, Báo cáo sơ kết công tác cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020, 2016;
7. Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính ban hành kèm theo Quyết định 3267/QĐ-BNV ngày 31/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ;
8. Bộ TT&TT - Hội tin học Việt Nam, Báo cáo tóm tắt chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam, 2015;
9. Bộ TT&TT, Sách trắng công nghệ thông tin, 2014;
10. Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam và Tài liệu hướng dẫn mô hình thành phần chính quyền điện tử cấp tỉnh của Bộ TT&TT;
11. Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội, Tài liệu Hội thảo Quốc gia về Chính phủ điện tử, http://egov.org.vn/2016/vi/tai-tai-lieu-hoi-thao/, 2016;
12. United Nation, E-Government Survey, 2016.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Thế nào là Chính phủ điện tử?
2. Trình bày về các mối quan hệ tương tác trong mô hình Chính phủ điện tử hiệu quả?
3. Trình bày về các giai đoạn phát triển của Chính phủ điện tử? Liên hệ với tình hình xây dựng Chính phủ điện tử tại cơ quan, đơn vị nơi anh (chị) công tác.
4. Trình bày thực trạng Chính phủ điện tử ở Việt Nam?
5. Anh (chị) nhận thức như thế nào về dịch vụ công trực tuyến?
6. Hãy trình bày tình hình triển khai dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay. Liên hệ với cơ quan, đơn vị nơi anh (chị) công tác.
7. Vai trò của dịch vụ công trực tuyến đến cải cách hành chính nhà nước và phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam?
8. Theo anh (chị), Chính phủ điện tử có tác động như thế nào đến những thay đổi trong công tác lưu trữ hiện nay và sắp tới?
9. Trình bày về các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử và dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam.
Chuyên đề 7 (chuyên đề báo cáo)
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC LƯU TRỮ
1. Tính khách quan của việc nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ
1.1. Khái niệm và vai trò của viên chức nói chung và viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ nói riêng.
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Vai trò
1.1.2.1. Vai trò của đội ngũ viên chức
1.1.2.2. Vai trò của đội ngũ viên chức trong lĩnh vực lưu trữ
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về viên chức
1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến trước năm 2010
1.2.2. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay
1.3. Những lý do chính thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ ở Bộ, ngành, địa phương.
1.3.1. Hệ thống chính sách, pháp luật quy định chưa đồng bộ.
1.3.2. Chất lượng viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ ở Bộ, ngành, địa phương chưa đồng đều.
1.3.3. Chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ ở Bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của viên chức và tính chất công việc.
1.3.4. Chế độ chính sách trong công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa kịp thời, đúng mức; việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ viên chức làm công tác trong lĩnh vực lưu trữ còn có những vấn đề bất cập.
1.4. Những đặc trưng riêng của Bộ, ngành, địa phương ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước với đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ.
1.4.1. Theo lĩnh vực kinh tế
1.4.2. Theo lĩnh vực văn hóa - xã hội
1.4.3. Theo lĩnh vực an ninh - quốc phòng
1.5. Yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ công trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.5.1. Tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lưu trữ.
1.5.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ viên chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực lưu trữ.
1.5.3. Đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ công phù hợp với đặc thù của lĩnh vực lưu trữ.
2. Đánh giá thực trạng đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ ở Bộ, ngành, địa phương
2.1. Căn cứ đánh giá:
2.1.1. Hệ thống quy định pháp luật hiện hành về tiêu chuẩn đội ngũ viên chức nói chung và viên chức ngành lưu trữ nói riêng.
2.1.2. Hệ thống quy định pháp luật về tiêu chuẩn gắn với chức danh nghề nghiệp.
2.2. Nhận xét về thực trạng đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ ở Bộ, ngành, địa phương.
2.2.1. Chất lượng viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ thay đổi dựa vào đối tượng lao động (tài liệu lưu trữ, khoa học công nghệ…)
2.2.2. Chất lượng viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ thay đổi dựa vào cách thức đào tạo, bồi dưỡng và kỹ năng ngày càng cao.
2.2.3. Viên chức lưu trữ hoạt động ở các Bộ, ngành, địa phương là hoạt động lưu trữ có tính chuyên biệt theo đặc thù của từng Bộ, ngành, địa phương.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ
3.1. Định hướng chung
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và thực hiện nền dân chủ XHCN.
3.1.2. Đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3.1.3. Sự nghiệp phát triển ngành lưu trữ.
3.2. Giải pháp cụ thể
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với đội ngũ viên chức nói chung và đội ngũ viên chức lĩnh vực lưu trữ nói riêng.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực lưu trữ
3.2.3. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức hoạt động trong lĩnh vực lưu trữ có tính kế thừa.
3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ viên chức lĩnh vực lưu trữ.
3.2.5. Bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực lưu trữ.
3.2.6. Rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp.
KẾT LUẬN
KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP
TỔ CHỨC XÂY DỰNG ĐỀ ÁN, DỰ ÁN, KẾ HOẠCH VỀ CÔNG TÁC LƯU TRỮ
1. Khái niệm
1.1. Đề án: Là loại văn kiện, được xây dựng để trình cấp quản lý cao hơn, hoặc gởi cho một cơ quan tài trợ để xin thực hiện một công việc nào đó như: thành lập một tổ chức; tài trợ cho một hoạt động xã hội,... Sau khi đề án được phê chuẩn, sẽ hình thành những dự án, chương trình, đề tài theo yêu cầu của đề án.
1.2. Dự án: Là một tập hợp các công việc, được thực hiện bởi một tập thể, nhằm đạt được một kết quả dự kiến, trong một thời gian dự kiến, với một kinh phí dự kiến. Như vậy, dự án:
+ Phải dự kiến đội hình thực hiện (nguồn nhân lực)
+ Phải có ngày bắt đầu, ngày kết thúc
+ Phải có ít nhất 1 con số, nói lên kinh phí cho phép thực hiện công việc
+ Phải mô tả được rõ ràng kết quả (output) của công việc. Sau khi kết thúc công việc, phải có được cái gì, với những đặc tính/đặc điểm gì, giá trị sử dụng như thế nào, hiệu quả ra làm sao?
+ Phải có 1 khoản tiền cấp cho Dự án thực hiện. Người (hoặc đơn vị) cấp tiền gọi là chủ đầu tư
+ Phải có một tổ chức chặt chẽ theo dõi và thu thập mọi thông tin phát sinh trong quá trình thực hiện dự án để giúp cho các cấp lãnh đạo và tổ dự án theo dõi sát sao việc thực hiện dự án.
Như vậy, dự án là một dạng văn bản được xây dựng thực hiện nhằm vào mục đích ứng dụng, có xác định cụ thể hiệu quả về kinh tế và xã hội. Dự án có tính ứng dụng cao, có ràng buộc thời gian thực hiện, hoàn thành và nguồn lực.
Tóm lại: Đề án là đề ra những vấn đề cần phải giải quyết;
Dự án là giải quyết những vấn đề mà Đề án đã đưa ra.
1.3. Kế hoạch: Là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt nhất…để thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề ra. Khi lập được kế hoạch thì tư duy quản lý sẽ có hệ thống hơn để có thể tiên liệu được các tình huống sắp xảy ra. Sẽ phối hợp được mọi nguồn lực của cá nhân, tổ chức để tạo nên một sức mạnh tổng hợp, có thể giữ vững “mũi tiến công” vào mục tiêu cuối cùng mình muốn hướng đến. Bên cạnh đó, cũng sẽ dễ dàng kiểm tra, giám sát hiệu quả thực hiện dự án của mình.
Lập kế hoạch là một hoạt động có ý thức của con người, được tiến hành trước khi chúng ta thực hiện bất kỳ một hoạt động nào đó. Trong hoạt động của mỗi cơ quan, tổ chức, để tổ chức có thể hoàn thành mục tiêu của mình, các nhà quản lý và mỗi nhân viên đều phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, công việc cụ thể mình phải làm, thời gian, phương pháp và phương tiện để thực hiện nhiệm vụ và công việc cụ thể đó. Kế hoạch ra đời trong cơ quan nói chung, trong các hoạt động công tác lưu trữ nói riêng cũng nhằm đáp ứng nhu cầu này.
Lập kế hoạch là một tiến trình kết hợp tất cả các mặt hoạt động của cơ quan, là một tiến trình trí tuệ của việc xác định mong muốn cái gì và có thể đạt được mong muốn đó như thế nào. Hay nói cách khác, lập kế hoạch là một quá trình của việc ra quyết định trước xem phải làm cái gì, làm như thế nào, ai làm, làm khi nào và làm ở đâu.
Lập kế hoạch là một quá trình quản lý mang tính chuyên môn nhằm xác định:
- Xác định công việc phải làm là gì?
- Mục tiêu, các kết quả: cần đạt được là gì?
- Tại sao phải làm? Lợi ích cần đạt được của tập thể? Cá nhân?
- Ai sẽ làm? Mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tiến hành thực hiện?
- Những công việc cần thực hiện để đạt được mục tiêu, làm cái gì? Bằng cách nào?
Tóm lại, lập kế hoạch là một quá trình nhằm xác định mục tiêu tương lai, các phương thức thích hợp để đạt mục tiêu đó.
Như vậy, giữa đề án, dự án và kế hoạch có mối quan hệ biện chứng, là tiền đề và hệ quả của nhau về một đối tượng nào đó.
1.4. Một số khái niệm có liên quan:
- Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư là tài liệu trình bày các nội dung nghiên cứu sơ bộ về sự cần thiết, tính khả thi và tính hiệu quả của chương trình đầu tư công, dự án nhóm B, nhóm C làm cơ sở để cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư.
- Báo cáo nghiên cứu khả thi là tài liệu trình bày các nội dung nghiên cứu về sự cần thiết, mức độ khả thi và hiệu quả của chương trình, dự án đầu tư công làm cơ sở để cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư.
- Bộ, ngành và địa phương là cơ quan được Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch đầu tư công, bao gồm:
+ Cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (gọi là bộ, cơ quan trung ương);
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh);
+ Cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của tổ chức chính trị -xã hội;
+ Cơ quan, tổ chức khác được giao kế hoạch đầu tư công.
- Chủ chương trình là cơ quan, tổ chức được giao chủ trì quản lý chương trình đầu tư công.
- Chủ đầu tư là cơ quan, tổ chức được giao quản lý dự án đầu tư công.
- Chương trình đầu tư công là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Cơ quan chủ quản là bộ, ngành và địa phương, cơ quan của tổ chức chính trị, cơ quan của Quốc hội quản lý chương trình, dự án.
- Cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công là đơn vị có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư; đơn vị được giao quản lý đầu tư công của bộ, cơ quan trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức khác được giao kế hoạch đầu tư công; Sở Kế hoạch và Đầu tư; phòng, ban có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
- Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công bao gồm Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân các cấp.
- Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư công.
- Dự án khẩn cấp là dự án đầu tư theo quyết định của cấp có thẩm quyền nhằm khắc phục kịp thời sự cố thiên tai và các trường hợp bất khả kháng khác.
- Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
- Đầu tư theo hình thức đối tác công tư là đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp các dịch vụ công.
- Hoạt động đầu tư công bao gồm lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư; lập, thẩm định, quyết định chương trình, dự án đầu tư công; lập, thẩm định, phê duyệt, giao, triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công; quản lý, sử dụng vốn đầu tư công; theo dõi và đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
- Kế hoạch đầu tư công là một tập hợp các mục tiêu, định hướng, danh mục chương trình, dự án đầu tư công; cân đối nguồn vốn đầu tư công, phương án phân bổ vốn, các giải pháp huy động nguồn lực và triển khai thực hiện.
- Nợ đọng xây dựng cơ bản là giá trị khối lượng thực hiện đã được nghiệm thu của dự án thuộc kế hoạch đầu tư công được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhưng chưa có vốn bố trí cho phần khối lượng thực hiện đó.
- Phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công là xác định quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động đầu tư công.
- Vốn đầu tư công gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư.
- Dự án có tổng mức đầu tư từ 800 tỷ đồng trở lên -Thuộc dự án nhóm B Gồm các lĩnh vực sau đây:
+ Y tế, văn hóa, giáo dục;
+ Nghiên cứu khoa học, tin học, phát thanh, truyền hình;
+ Kho tàng;
+ Du lịch, thể dục thể thao…
2. Phân loại đề án, dự án, kế hoạch
2.1. Phân loại đề án
Trên thực tế, tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức mà tổ chức xây dựng các đề án khác nhau để thực hiện công việc của mình. Đối với hoạt động công tác văn thư, lưu trữ, có thể có các loại đề án như:đề án về nhân sự; đề án về tổ chức bộ máy; đề án tài chính; đề án về vị trí việc làm;
- Đề án thành lập trung tâm lưu trữ - trực thuộc cục văn thư - lưu trữ của một tỉnh; tức đề án về tổ chức bộ máy
- Đề án về nâng cao năng lực cho viên chức thuộc lĩnh vực văn thư - lưu trữ
- Đề án phân tích, xác định vị trí việc làm cho cán bộ, viên chức thuộc ngành/lĩnh vực văn thư, lưu trữ
- Xây dựng đề án tinh giảm biên chế trong cơ quan….
2.2. Phân loại dự án đầu tư
Để thuận tiện cho việc theo dõi, quản lí và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư, cần tiến hành phân loại các dự án đầu tư.
Có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau:
2.2.1. Xét theo cơ cấu tái sản xuất
Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Trong đó dự án đầu tư chiều rộng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn dự án đầu tư theo chiều sâu thường đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
2.2.2. Xét theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội
Dự án đầu tư có thể phân chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)…hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác.
2.2.3. Theo các giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội
Có thể phân loại các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất.
- Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán va dự đoán dễ đạt độ chính xác cao.
- Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời gian hoạt động dài hạn (5,10,20 năm hoặc lâu hơn) vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị…)
Loại dự án đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa; phải xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để bảo đảm thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động của dự án đầu tư kết thúc (đã hoạt động hết đời của mình).
Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên trên giác độ xã hội, hoạt động của dự án đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án đầu tư thương mại đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Do đó, trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua các cơ chế chính sách của mình để hướng dẫn được các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà còn đầu tư vào cả lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2.4. Xét theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
Ta có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn (như dự án đầu tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng,…)
2.2.5. Xét theo sự phân cấp quản lý dự án (theo thẩm quyền quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư)
Tùy theo tầm quan trọng và quy mô của dự án, dự án đầu tư được chia làm 4 nhóm: dự án quan trọng quốc gia (do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư), dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C. Đối với các dự án đầu tư nước ngoài được chia thành 3 nhóm: dự án nhóm A, dự án nhóm B và các dự án phân cấp cho các địa phương.
2.2.6. Xét theo nguồn vốn
Dự án đầu tư có thể phân chia thành:
- Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Dự án đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh.