ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1493/QĐ-UBND | Bình Phước, ngày 16 tháng 07 năm 2015 |
XÁC LẬP NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐ ngày 09/01/2003 của HĐND tỉnh về việc thông qua Quỹ tên đường dùng để đặt tên đường đô thị trong tỉnh Bình Phước;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 2. Ngân hàng tên đường dùng làm cơ sở cho việc nghiên cứu đặt, đổi tên đường trên địa bàn tỉnh.
- CT, PCT UBND tỉnh;
KT. CHỦ TỊCH |
NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
(Kèm theo Quyết định số 1493/QĐ-UBND ngày 16/7/2015 của UBND tỉnh)
Stt | Tên | Tóm lược thân thế sự nghiệp, lịch sử danh nhân văn hóa | Dự kiến cấp đường | |||||||||||||||
A. NHỮNG DANH NHÂN ĐỨNG ĐẦU ĐẤT NƯỚC | ||||||||||||||||||
01 | Lạc Long Quân |
III | ||||||||||||||||
02 | Âu Cơ |
III | ||||||||||||||||
03 | Hùng Vương | Ngày 10-03 âm lịch hàng năm được chọn là ngày giỗ Quốc Tổ của nhân dân ta. | I | |||||||||||||||
04 | An Dương Vương | Năm 225 TCN, ông truyền nhân dân xây Loa Thành tức Thành Ốc, nay vẫn còn dấu tích ở làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (nay thuộc Hà Nội). Do nhiều lần Triệu Đà sang xâm lược nước ta nhưng đều thất bại. Đến năm 210 TCN, Triệu Đà kết thông gia, ông gả con gái là Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Năm 208 TCN, Triệu Đà xâm lược nước ta, trên đường chạy tránh giặc ông đã tự vẫn ở biển Đại Nha. | I | |||||||||||||||
05 | Hai Bà Trưng | Năm 39, hai bà và mẹ tập hợp các Lạc hầu, Lạc tướng, kêu gọi quân dân đoàn kết, đánh đuổi quân giặc.
I | ||||||||||||||||
06 | Bà Triệu | Năm Mậu Thìn 248, cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Giữa lúc chiến đấu ác liệt với quân Ngô, anh bà đột ngột lâm bệnh rồi mất, bà tiếp tục chỉ huy dân quân đánh đuổi quân giặc. Tướng Ngô là Thứ Sử Lục Dận dùng của cải quyền tước mua chuộc một số Tù trưởng khiến một số người rời bỏ cuộc chiến đấu, rồi đem quân đàn áp nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa thất bại, bà chạy đến xã Bộ Điền (nay là xã Phú Điền, huyện Mĩ Hóa) và hy sinh năm 23 tuổi (có tài liệu ghi bà hy sinh trên đỉnh núi Tùng). Nay, tại xã Phú Điền, tỉnh Thanh Hóa có đền thờ bà. Về sau Lý Nam Đế (Lý Bôn) có lập miếu thờ bà và truy phong là Bật chính anh hùng Tài trinh Nhất phu nhân. | I | |||||||||||||||
07 | Lý Nam Đế | Nhà Lương sai tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân xâm lược. Ông chống cự nhiều trận, sau rút quân về đóng ở hồ Điển Triệt, rồi đưa quân về động Khuất Liêu. Tại đây, ông bị bệnh và mất năm 548. | II | |||||||||||||||
08 | Triệu Quang Phục | Năm 541, ông theo cha giúp Lý Bôn đánh đuổi quân nhà Lương xâm lược nước ta. Năm 544, khởi nghĩa thành công, Lý Bôn xưng đế, phong ông làm Tả Tướng quân. Năm 545, nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược nước ta, đưa Dương Phiêu làm Thứ sử, ông chống cự quyết liệt, đóng quân nơi đầm Dạ Trạch, được xưng tụng là Dạ Trạch Vương.
IV | ||||||||||||||||
09 | Mai Thúc Loan | Năm 772, ông cùng con là Mai Thúc Huy dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân nhà Đường, chiếm phủ thành, tự lập làm vua. Ông sai con là Mai Thúc Huy vận động ngoại giao, liên kết với các nước Lâm Ấp (Chiêm Thành) và Chân Lạp (Campuchia) để gây thanh thế với lân bang.
III | ||||||||||||||||
10 | Phùng Hưng | Khoảng năm 789, Thứ sử Trương Bá Nghị và Cao Chính Bình của chính quyền đô hộ nhà Đường bạo ngược, ông đổi tên là Khu Lão, xưng hiệu là Đô Quân cùng em ông là Phùng Hải (đổi tên Cự Lực, xưng hiệu là Đô Bảo) dấy binh khởi nghĩa.
III | ||||||||||||||||
11 | Ngô Quyền | Năm 937, Kiều Công Tiễn phản bội, giết chết Dương Diên Nghệ, rồi cấu kết với quân Nam Hán. Ông dấy binh giết Công Tiễn, dẹp tan quân Nam Hán do Hoằng Thao kéo sang xâm lược lần thứ II trên sông Bạch Đằng.
II | ||||||||||||||||
12 | Đinh Bộ Lĩnh | Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê hương nương thân nhà chú ruột, ở chăn trâu và thường nhóm họp bạn bè lấy lau làm cờ, lập trận đánh nhau, ông tỏ ra là người có tài chỉ huy. Sau, ông sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải khẩu. Trần Lãm mến tài của ông và gả con gái cho. Khi Trần Lãm mất, ông đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
II | ||||||||||||||||
13 | Lê Đại Hành | Ông làm thập đạo tướng quân nhà Đinh. Năm 979, Đinh Tiên Hoàn bị Đỗ Thích ám sát, con là Đinh Duệ mới 6 tuổi lên nối ngôi. Khi nhà Tống đem quân sang xâm lược, ông sai Phạm Cự Lượng làm Đại tướng đem quân đi chống giữ. Phạm Cự Lượng cùng nhiều tướng sĩ suy tôn ông lên ngôi Vua nối nghiệp nhà Đinh, Dương Thái hậu cũng lấy áo rồng choàng cho ông (tháng 7 năm 980). Thiên Phúc : 980 - 988 (9 năm). Ứng Thiên : 994 - 1005 (12 năm). | II | |||||||||||||||
14 | Lý Thái Tổ |
I | ||||||||||||||||
15 | Trần | Triều đại ông trị vì, việc chính trị, văn hóa, tôn giáo đều cực thịnh. Ông chuyên tâm nghiên cứu Phật học và mộ đạo Phật nhưng không xem thường học thuật của các trường phái khác. Do đó, học thuật của nước nhà phát triển.
II | ||||||||||||||||
16 | Trần Thánh Tông | Khi quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần II và III (1285-1288), ông cùng vua con lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi. Sau đó ông lui về Bắc cung tu Phật, chuyên tâm soạn kinh sách Phật.
II | ||||||||||||||||
17 | Trần Nhân Tông | Ông lên ngôi vua năm 1278, cùng với cha và các đại thần Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải chấn chỉnh việc nước, vượt khó khăn, hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược (1285-1288). Triều đại ông nổi bật tinh thần quân dân đại đoàn kết, nổi tiếng qua hai cuộc Hội nghị Diên Hồng và Bình Than. Năm 1293, ông nhường ngôi cho con là Trần Thuyên (tức Anh Tông) làm Thái Thượng hoàng, cùng con coi sóc việc chính trị. Đến năm 1299, ông lên núi Yên Tử ẩn tu, pháp hiệu là Hương Vân đại đầu đà, khai sáng Thiền tông phái Yên Tử còn gọi là phái Trúc Lâm.
II | ||||||||||||||||
18 | Lê Lợi | Năm 1420, ông dùng kế phục binh chiến thắng quân Lý Bân, Phương Chính tại Chi Lăng. Đến năm 1424, Chiến dịch Bồ Liệp chém chết tướng giặc Trần Trung. Trận Trà Lân phá vỡ quân của Sư Hữu, giết tướng Trương Bản. Năm 1426, đánh Nghệ An, triệt hạ viện binh của quân Minh từ Vân Nam kéo sang. Năm 1427, ông đóng quân ở Bồ Đề, uy hiếp thành Đông Quan, dồn toàn lực đánh một trận để đời tại Chi Lăng. Kết quả: Vương Thông phải viết thư cầu hòa và rút 86.000 quân Minh về nước. Năm 1428, ông lên ngôi vua, tên hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Đại Việt, hiệu năm là Thuận Thiên và đóng đô ở Đông Kinh (Hà Nội). Ông mất ngày 22-08-1433 âm lịch (48 tuổi), ở ngôi 6 năm.
I | ||||||||||||||||
19 | Lê | Ông lên ngôi vua vào năm 1460, lúc 18 tuổi. Ông thông minh, thông hiểu nhiều môn học thuật. Triều đại ông thịnh vượng, hoàn thành những cải cách kinh tế, chính trị, văn hóa và ban hành bộ luật đầu tiên của nước ta là bộ Luật Hồng Đức. Ông tự xưng là Thiên Nam động chủ, hoặc Đạo am chủ nhân, lập ra Tao Đàn gồm 28 vị đại thần đứng đầu, gọi là Nhị thập bát tú, mà ông là Tao Đàn đô Nguyên soát. - Quang Thuận: 1460-1469. Ông làm thơ khá nhiều và còn lưu lại các tác phẩm: Thiên Nam dư hạ tập, Lê Thánh Tông thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập... Đều là tác phẩm sáng giá trong kho tàng văn hóa dân tộc. | I | |||||||||||||||
20 | Mạc | Năm 1516, đời Lê Chiêu Tông, ông thi võ đỗ Đệ nhất Đô lực sĩ, làm quan thăng đến Chỉ huy sứ, coi sóc các đạo quân. Sau, ông được tấn phong làm Thái Sư, tước Nhân Quốc Công, rồi gia phong đến tước An Hưng Vương. Năm 1527, ông dựng lên nhà Mạc. Ở ngôi vua 3 năm, ông truyền ngôi cho con lớn là Mạc Đăng Doanh và làm Thái Thượng Hoàng, ra ở điện Tường Quang, sau về Cổ Trai để trấn nơi trọng yếu.
III | ||||||||||||||||
21 | Nguyễn Hoàng | Năm 1569, ông vào trấn nhậm Thuận Hóa, đặt lỵ sở tại làng Ai Tử, huyện Triệu Phong (thuộc tỉnh Quảng Trị). Ông lo chiêu dân lập ấp, mở mang bờ cõi thành một khu vực có nhiều tiềm năng. Trong thời gian ông trấn nhậm Thuận Hóa, việc quân sự, nội trị, ngoại giao đều phát triển, nhân dân tương đối ấm no dù ở khu vực mới mở mang.
II | ||||||||||||||||
22 | Nguyễn Phúc | Năm 1691, chúa Anh Tông mất, ông lên kế vị, triều thần tôn là Bình Chương quân quốc trọng sự Thái bảo Tộ Quốc Công, hiệu là Thiên túng đạo nhân, đương thời gọi là Minh Vương. Dưới thời trị vì, ông đưa nhân dân đến các vùng đất mới phương Nam, khai khẩn đất hoang sát biên giới Chân Lạp. Trong nước, việc nội trị, võ bị, giáo dục được phát triển, Nam Bắc được hòa bình nhiều năm, nhân dân trong nước sống yên ổn, hạnh phúc. Ông là người học rộng, hiểu nhiều và cũng là tác giả nhiều bài văn có giá trị.
III | ||||||||||||||||
23 | Nguyễn Nhạc | Năm 1771, lực lượng nghĩa quân do ông lãnh đạo dấy lên từ đất Tây Sơn chiếm Quảng Nam và quét sạch quân chúa Nguyễn ở khu vực phía Nam Bình Định. Chúa Trịnh phong ông làm Quảng Nam trấn thủ Tuyên ký đại sứ, cung Quận Công.
III | ||||||||||||||||
24 | Nguyễn Huệ | Năm 1784, khi Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm sang xâm lược, ông vào Gia Định bố trí một trận địa phục kích trên địa phận Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (18-01-1785), tiêu diệt hơn 20.000 quân Xiêm, chỉ còn sống sót theo đường bộ và đường thủy chạy về nước. Năm sau, Nguyễn Nhạc cử ông làm Tiết chế cùng Vũ Văn Nhậm đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa, chỉ trong mấy ngày ông chiếm được cả khu vực từ Thuận Hóa ra đến sông Gianh. Năm 1788, vua Chiêu Thống dẫn quân Thanh về cướp nước ta, ông lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc dẹp giặc xâm lăng. Ông cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước và mấy ngày thần tốc thẳng đường ra Thăng Long tiêu diệt toàn bộ lực lượng hùng hậu do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu. Quân Thanh thất bại tranh nhau qua cầu phao; cầu sập, quân giặc chết đầy sông.
I | ||||||||||||||||
25 | Hàm | Ngày 23-05-1885, Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp tại kinh thành thất bại, ông rời kinh thành ra lập chiến khu ở Tân Sở (thuộc Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị), phát lệnh Cần Vương, tổ chức kháng chiến chống Pháp cứu nước, nhân dân trong nước đều hưởng ứng. Lúc ông lập chiến khu ở huyện Tuyên Hóa (tỉnh Quảng Bình), nghĩa quân theo về rất đông như Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp... và đã gây nhiều thiệt hại nhiều cho quân Pháp.
I | ||||||||||||||||
26 | Thành Thái | Vua Thành Thái thông minh, có óc duy tân, có tinh thần yêu nước, nhưng lúc ấy mọi quyền lực nhà nước đều nằm trong tay Pháp. Do đó, ông lấy làm khó chịu, có nhiều hành động khác thường, đôi khi chống Pháp công khai. Có lần ông tìm cách sang Trung Quốc nhưng đến Thanh Hóa bị Pháp giữ lại.
III | ||||||||||||||||
27 | Tôn Đức Thắng | Từ năm 1920-1925, ông tham gia lập công hội bí mật ở xưởng đóng tàu Ba Son, năm 1927 tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, giữ chức Ủy viên ban Chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ. Cuối năm 1928, ông bị Pháp bắt ở Sài Gòn, bị kết án 20 năm khổ sai, lưu đày Côn Đảo. Ngày 23-09-1945, được tự do ông tiếp tục hoạt động. Đến tháng 10-1945, ông tham gia Xứ ủy Nam Bộ, đắt cử vào Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tháng 4-1946, tham gia đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam sang thăm nước Pháp. Trong Đại hội Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội. Tháng 7-1960, ông giữ chức Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngày 23- 09-1969, giữ chức Chủ tịch nước.
I | ||||||||||||||||
28 | Nguyễn Tất Thành | Bác xuất thân trong một gia đình Nho học yêu nước, thuở nhỏ thông minh, hiếu học. Đến tuổi thiếu niên, Bác theo thân phụ vào Huế học tại Trường Tiểu học Đông Ba, Trường Trung học Quốc Học. Đầu năm 1911, Bác có ý định ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Trên đường vào Sài Gòn, Bác ghé Phan Thiết dạy học một thời gian ngắn tại trường Dục Thanh do các nhà yêu nước lập ra. Trong năm 1911, Bác vào Sài Gòn lấy tên là Ba làm phụ bếp cho tàu buôn Amiral Latouchi Tréville, rồi sang Pháp tìm hiểu tình hình thế giới và đến các nước Anh, Đức, Mỹ... trong một thời gian. Cuối năm 1923, Bác sang Liên Xô với tư cách Đại biểu của Nông dân các nước thuộc địa. Tại hội nghị Quốc tế nông dân, Bác được bầu vào Ban Chấp hành. Trong thời gian này, Bác làm việc ở Quốc tế Cộng sản và viết bài cho các báo: Sự thật, Thư tín Quốc tế. Cuối năm 1924, Bác về Quảng Châu (Trung Quốc) với tên là Lý Thụy, công tác trong phái đoàn Brodine (cố vấn của Liên Xô bên cạnh chính phủ Quốc dân Đảng Trung Quốc). Tại đây, Bác sáng lập “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội”, tập hợp các nhà yêu nước ở nước ngoài và tham gia thành lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”. Tháng 8-1942, Bác lấy tên là Hồ Chí Minh rồi sang Trung Quốc liên lạc với các tổ chức cách mạng của người Việt Nam, đến biên giới Bác bị chính quyền của Tưởng Giới Thạch bắt giam một năm. Trong nhà giam, Bác viết tập thơ “Nhật ký trong tù”. Tháng 9-1943, sau khi được trả tự do, Bác tiếp xúc với các tổ chức chống Pháp - Nhật của người Việt Nam ở Liễu Châu, bắt liên lạc với Đảng rồi trở về nước lãnh đạo cách mạng. Cuối năm 1944, Bác thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và lập khu giải phóng Việt Bắc chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ngày 16-08-1945, Bác chủ tọa Hội nghị Quốc dân Toàn quốc. Ngày 25-08-1945, Bác trở về Hà Nội chủ tọa phiên họp của Tổng bộ Việt Minh, thành lập Chính phủ lâm thời. Ngày 19-12-1946, do sự khiêu khích của thực dân Pháp, Chủ tịch ra lời kêu gọi ‘‘Toàn quốc kháng chiến” chống Pháp. Cuộc kháng chiến kéo dài đến năm 1954 với chiến thắng ở Điện Biên Phủ, Pháp bị buộc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, rút quân ra khỏi Việt Nam. Đầu năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Các năm 1957 - 1960, Chủ tịch đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa nhằm thắt chặt tình hữu nghị và tổng kết vấn đề của cách mạng thế giới.
I | ||||||||||||||||
29 | Duy Tân | Ông lên ngôi lúc còn bé. Do gần gũi với các chí sĩ yêu nước, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Bí mật liên kết với Trần Cao Vân, Thái Phiên, ông tán thành cuộc khởi nghĩa trong năm 1916 nhưng sự việc thất bại. Ông bị bắt ngày 06-05-1916 và đến ngày 03-11-1916 bị đày sang đảo Réunion (Đông Nam Châu Phi).
II | ||||||||||||||||
30 | Nguyễn Lương Bằng | Ông là một người yêu nước nhiệt tình, trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, ông đã cống hiến cả đời mình cho dân tộc, cho đất nước. Ở bất kỳ cương vị nào, ông vẫn hăng hái làm tròn nhiệm vụ, nêu gương sáng và tác phong cần cù giản dị. Ông mất ngày 20-07-1979 tại Hà Nội, thọ 75 tuổi. Ông được Đảng, Nhà nước Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa tặng nhiều huân chương cao quý. | II | |||||||||||||||
31 | Trần Phú | Đầu năm 1930, ông được cử vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, thời gian này ông khởi thảo bản Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 10-1930, Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương họp ở Hồng Kông, ông được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 19-4-1931, ông hy sinh ở bệnh viện Chợ Quán. | I | |||||||||||||||
32 | Lê Duẩn | Năm 1936, ông được trả tự do, sau khi về đất liền ông hoạt động ở các tỉnh Trung Kỳ, đến năm 1937 giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1939, ông được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng, cuối năm ông cùng Nguyễn Văn Cừ chủ trì Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Phản đế Đông Dương. Năm 1976 - 1982, ông vẫn tham gia trong Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến ngày mất. Ông mất ngày 10-7- 1986 tại Hà Nội, thọ 79 tuổi. Do công lao của mình, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam cùng các nước xã hội chủ nghĩa tặng nhiều huân chương cao quý, trong đó có Huân chương Sao vàng và Giải thưởng Lê-Nin. Ông là tác giả một số tác phẩm lý luận về thực tiễn cách mạng. | I | |||||||||||||||
33 | Trường Chinh | Năm 1926, ông là một trong những người lãnh đạo cuộc bãi khóa để truy điệu chí sĩ Phan Bội Châu tại Nam Định. Năm 192, ông là một trong những người đầu tiên gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, được trả tự do, sau đó tham gia vào Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng (1940), ông được cử vào Ban Châp hành Trung ương. Năm 1941, Hội nghị Trung Ương lần thứ 8, ông được cử làm Tổng Bí thư Đảng, đồng thời làm chủ bút các báo Giải phóng, Cờ giải phóng và Tạp chí Cộng sản...
I | ||||||||||||||||
34 | Nguyễn Hữu Thọ | Sau ngày toàn quốc kháng chiến, ông bí mật ra bưng biền thăm lực lượng kháng chiến và cộng tác với Việt Minh tại nội thành. Tại Sài Gòn, ông cùng các trí thức có tên tuổi ra tuyên ngôn đòi hòa bình, yêu cầu Pháp chấm dứt chiến tranh xâm lược. Ngày 19-03-1950, ông đọc bản Tuyên ngôn đòi tàu chiến Mỹ rút khỏi Sài Gòn và bị bắt, sau bị đưa ra quản thúc ở Lai Châu. Tháng 11-1953, ông được trả tự do. Sau ông tham gia Phong trào Bảo vệ Hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với một số nhà trí thức khác và bị Pháp bắt một lần nữa. Ông bị giam ở Gia Định, sau đưa ra quản thúc ở Hải Phòng, đến Hiệp định Giơ-ne-vơ (20-07-1954) mới được trả tự do. Ông mất ngày 10-03-1988 (76 tuổi). Do công lao của mình, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác, các nước xã hội chủ nghĩa tặng ông nhiều huân chương cao quý. | II | |||||||||||||||
35 | Nguyễn Văn Cừ | Năm 1936, ông được trả tự do về Hà Nội tiếp tục hoạt động bí mật. Tháng 09-1947, ông được Trung ương Đảng cử đi dự Hội nghị Trung ương tại Bà Điểm, Hóc Môn. Tại hội nghị này, ông được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Đến năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Mùa thu 1939, ông cùng các ông Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu... mở Hội nghị Trung ương lần thứ VI để hoạch định chương trình mới. Đến tháng 6-1940, ông bị bắt tại Sài Gòn cùng với một số đồng chí của mình.
II | ||||||||||||||||
36 | Nguyễn Văn | Năm 1939, ông được điều động vào công tác ở Sài Gòn, tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố. Cuối 1939, được phân công tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kỳ. Đầu năm 1941, ông bị địch bắt ở Vinh, đưa về Sài Gòn xử án 05 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về Nam Bộ, sau đó giữ chức vụ Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Đến năm 1947, ông được bầu vào Xứ ủy Nam Bộ. Năm 1949, ông tham gia Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), ông được tôn vinh làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6-1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, ông được tôn vinh làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đến tháng 04-1998, ông mất tại TP.HCM, thọ 83 tuổi. Do công lao và thành tích đối với cách mạng, ông được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương cao quý khác. |
| |||||||||||||||
B. NHỮNG DANH TƯỚNG, DANH THẦN |
| |||||||||||||||||
37 | Cao Lỗ | Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng phái quân đánh Âu Lạc, sau bị quân Âu Lạc trường kỳ kháng chiến. Dưới sự chỉ huy của Cao Thông, quân kháng chiến sử dụng nỏ thần do ông sáng chế, quân Triệu Đà thua to, sau dùng kế phản gián khiến vua tôi nhà Thục nghi ngờ nhau, đồng thời cho con trai là Trọng Thủy đến cầu hôn con gái vua Thục là Mỵ Châu rồi xin ở rể. Thục Phán An Dương Vương mắc kế không tin dùng ông, nhà Thục suy sụp, đất nước rơi vào tay giặc.
IV | ||||||||||||||||
38 | Lê Chân | Đuổi được quân xâm lược, Trưng Nữ Vương rất trọng vọng, giao bà coi việc quốc phòng, để nâng ý chí của dân quân, bà thường mở cuộc thi võ và diễn võ hai ba ngày liên tiếp. Tương truyền, bà nghĩ ra môn thể thao đánh phết còn lưu truyền đến ngày nay.
IV | ||||||||||||||||
39 | Dương Đình Nghệ | Năm 923, nhà Nam Hán sai Vũ Khắc Chính và Lý Tiến sang đánh nước ta, Khúc Thừa Mỹ bị bắt. Ông tạm lánh và lập ra trường đánh vật chiêu tập hào kiệt cứu nước.
IV | ||||||||||||||||
40 | Lý Đạo Thành | Năm 1074, ông được vời về triều sung chức Thái Phó, coi sóc các việc quan trọng. Ông ra sức sửa sang mọi việc, thực hiện những điều lợi ích chung cho dân cho nước, đương thời được mọi người kính mến.
IV | ||||||||||||||||
41 | Lý Thường Kiệt | Trong năm 1077, quân Tống do tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết kéo sang xâm lược nước ta, ông đánh chặn giặc trên suốt dọc phòng tuyến sông cầu. Ông sáng tác bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc: “Nam quốc sơn hà”
I | ||||||||||||||||
42 | Tô Hiến Thành | Ông hết lòng sửa sang việc chính trị, mở mang văn hóa, đề xuất lập đền thờ Khổng Tử ở cửa Nam thành Thăng Long. Sau ông làm đến Thái phó trong triều.
III | ||||||||||||||||
43 | Trần Hưng Đạo | Ông có tài quân sự. Khi giặc Nguyên sang xâm lược nước ta các năm 1284, 1285, 1287, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết Chế các đạo quân thủy bộ. Ông làm “Hịch tướng sĩ” khích lệ lòng quân, đôn đốc các vương hầu, binh tướng tận trung cứu nước, dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân ta chiến thắng vang dội ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước, ông được phong tước Hưng Đạo Vương. Ông thường tiến cử nhiều người có tài ra giúp đất nước chống ngoại xâm, lập nhiều công lớn như: Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... bất kể họ thuộc thành phần xã hội nào.
I | ||||||||||||||||
44 | Dã Tượng | Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược, ông đã đóng góp nhiều công lao, tận tình bảo vệ chủ tướng. Ông và Yết Kiêu có công lớn trong lúc bắt Toa Đô.
III | ||||||||||||||||
45 | Yết Kiêu | Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, ông càng tỏ ra trung liệt. Ông và Dã Tượng dùng tài lặn để đánh đắm thuyền giặc, ông đã bắt sống tên tay sai giặc là Nguyễn Bá Linh.
III | ||||||||||||||||
46 | Phạm Ngũ Lão | Trong 02 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, ông có nhiều công lớn, được giữ các chức: Hữu Kim ngô vệ Đại tướng quân, Thân vệ Đại tướng quân... được ban phù vàng hình rùa và hình hổ.
III | ||||||||||||||||
47 | Trần Quang Khải | Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, ông cùng Trần Quốc Tuấn và các chiến hữu lập được những chiến tích vẻ vang. Bài thơ chiến thắng khải hoàn “Tụng giá hoàn kinh sư” là một bản anh hùng ca của dân tộc.
II | ||||||||||||||||
48 | Trần | Năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược, ông đánh thắng trận Hàm Tử (Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), danh tiếng ông càng lừng lẫy. Năm 1302, ông được phong làm Thái úy Quốc Công, rồi thăng Tá Thánh Thái Sư, sau được thăng Đại Vương vào năm 1329. Ông phục vụ trong 4 triều vua và có nhiều công lao xây dựng xứ sở, đem lại an lành cho nhân dân.
III | ||||||||||||||||
49 | Trần Bình Trọng | Ông có công được phong tước Bảo Nghĩa vương. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta, kinh đô Thăng Long thất thủ, ông lãnh nhiệm vụ ở lại Thiên Trường để ngăn chặn quân của Thoát Hoan trong khi Hưng Đạo Vương rước Vua Trần và Thái Thượng Hoàng ra Hải Dương chuẩn bị lực lượng chống quân ngoại xâm.
II | ||||||||||||||||
50 | Trần Khánh Dư | Ông say mê sách vở, giỏi binh thư, được Trần Thánh Tông nhận làm con nuôi, phong làm Phiêu kỵ Đại tướng quân, tước Thượng Vị Hầu.
III | ||||||||||||||||
51 | Nguyễn Biểu | Năm 1413, tướng Minh là Trương Phụ đánh vào Nghệ An, vua Trùng Quang vào Hán Châu, sai ông đến trại Trương Phụ để điều đình. Ông mắng Trương Phụ tham tàn bạo ngược và bị bắt trói vào chân cầu Lem để nước sông dâng lên dìm chết và ông tử tiết ngày 11-07-1413.
III | ||||||||||||||||
52 | Đặng Dung | Ông cùng với Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy đem quân vào Thanh Hóa rước Trần Quý Khoách về Nghệ An lập làm Vua Trùng Quang. Ông được phong làm Tư mã, tiếp tục kháng chiến chống quân Minh. Trải qua các trận đánh lớn ở Mô Độ, Thiên Quan, Thái Già, ông từng làm quân Minh nhiều phen khiếp sợ.
IV | ||||||||||||||||
53 | Lê Lai | Khoảng cuối năm 1418, quân Minh vây ngặt ở vùng Chí Linh, Lê Lai tình nguyện giả nhà vua, đem 500 quân, 2 thớt voi, thẳng tới trại giặc khiêu chiến. Quân Minh vây đánh. Ông chiến đấu đến lúc kiệt sức, để cho chúng bắt và đã hy sinh.
II | ||||||||||||||||
54 | Đinh Lễ | Trận đánh ở cửa ải Khả Lưu, ông dũng cảm xông trận, bắt được Đô tư Châu Kiệt, chém tướng tiền phong của giặc là Hoàng Thành, được thăng chức Tư Không. Khi đó, ông liền đem quân đánh úp thành Tây Đô.
IV | ||||||||||||||||
55 | Trần Nguyên Hãn | Năm 1427, ông được phong làm Thái úy. Khởi nghĩa Lam Sơn thành công (1428), ông giữ chức Tả tướng, được theo họ vua, gọi là Lê Hãn. Không bao lâu sau ông xin về dưỡng lão. Sau đó có người dèm pha với nhà vua rằng ông có ý mưu phản, ông bị bắt. Trên đường về kinh, khoảng tháng 2-1429, thuyền bị đắm, ông mất.
III | ||||||||||||||||
56 | Lê Khôi | Đến đầu đời Nhân Tông, ông lại được phong làm Thập nội Thiếu úy, sung chức Tri phủ Nghệ An, xử việc án ngục đều đúng đắn, công bằng.
III | ||||||||||||||||
57 | Nguyễn Xí | Năm 1422, Lê Lợi cho rút quân về Khả Lưu thuộc tỉnh Nghệ An. Quân Minh tấn công bị nghĩa quân đánh tan tác. Năm 1427, ông cùng Đinh Lễ đem quân đánh tan trận phản công của Vương Thông phía Nam thành Đông Quan, khiến lực lượng quân Minh ngày càng suy giảm dần. Ngày 03-11-1427, sau 10 năm quân Lam Sơn kháng chiến anh dũng, trong đó công lao của ông đã góp phần quyết định cho chiến thắng. Đến đời Lê Thánh Tông, ông được phong chức Thái úy. | IV | |||||||||||||||
58 | Nguyễn Kim | Năm 1533, ông đưa Lê Ninh lên ngôi vua lấy hiệu là Nguyên Hòa, tức là vua Lê Trang Tông. Ông được triều đình tôn là Thượng Phụ, Thái Sư, Hưng Quốc Công trông coi mọi việc trong triều. Năm 1542, ông tiến quân ra Tây Đô, rồi thẳng ra Bắc đánh họ Mạc. Đến năm 1545, ông dẫn quân đánh Sơn Nam, sau khi thắng trận trở về ông bị đầu độc chết trong năm ấy.
IV | ||||||||||||||||
59 | Đào Duy Từ | Ông thông kinh sử, tinh thâm lí số và binh thư đồ trận. Tiếng tăm ông dần dần được sĩ phu biết đến, được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên trọng dụng, phong làm Nội tán, ông tận tụy giúp chúa Nguyễn về quân sự, chính trị và văn hóa. Năm 1630, ông đề xuất việc đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Qua năm sau, ông lại đề xuất đắp thêm lũy Thày từ cửa bể Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu. Đào Duy Từ còn để lại một bộ binh thư Hổ trướng khu cơ và 2 khúc ngâm: Ngọa Long cương văn, Tư Dung vãn. Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất của nước ta vào thời cận đại. |
60 | Đặng Chất | Nhà vua vẫn thường vời ông vào cung điện giảng sách. Sau được phong Gia tĩnh đại phu, Bồi tụng, Thượng thư bộ Lại, tước Bá.
IV | |||||||||||||
61 | Nguyễn Hữu Cảnh | Ông làm quan nổi tiếng là một tướng tài với danh hiệu Hắc Hổ, được phong tước Lễ Thành Hầu, chức Chưởng binh. Năm 1693, ông dẫn đầu đoàn quân chinh phạt Chiêm Thành và bắt được vua xứ này. Năm 1698, được cử làm Kinh lược sứ Chân Lạp, năm sau trở về chiêu dân lập ấp, khai thác đất Đông Phố lập nên dinh Trấn Biên, sau đó lại lấy sứ Sài Côn lập dinh Phiên Trấn (nay thuộc TP.Hồ Chí Minh). Đến năm 1699, Vua Chân Lạp đem quân đánh nước ta, ông được triều đình cử đi và đã đánh tan quân xâm lược.
II | ||||||||||||||||
62 | Ngô Thì Nhậm | Năm 1788, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần II, ông được trọng dụng phong làm Tả thị lang bộ Lại, tước Trình Phái Hầu và hết lòng phù tá vua Quang Trung. Tài năng của ông được phát huy cao trên các lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông mất ngày 09-03-1802 (57 tuổi). Các tác phẩm: Nhị thập nhất sử toát yếu, Bút hải tùng đàm, Ủng vân nhân vịnh... | III | |||||||||||||||
63 | Nguyễn Lữ | Mùa xuân năm 1776, lần đầu tiên ông cầm quân vào Gia Định đánh nhóm quân Đông Sơn và chiến thắng, ông được thăng hàm Thiếu phó. Sau khi bình được đất Gia Định, ông rút quân về Quy Nhơn.
III | ||||||||||||||||
64 | Ngô Văn Sở | Năm 1787, ông được cử làm Tham tán quân vụ, cùng Võ Văn Nhậm trấn thủ Thăng Long. Sau ông được làm Đại tư mã, lãnh trấn thủ Thăng Long. Đến năm 1788, trước sức tiến công của 8 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy sang xâm lược nước ta, dưới chiêu bài cứu nguy cho Lê Chiêu Thống, ông được lệnh đem quân đi tiên phong tiến đánh giặc Thanh cùng các tướng dưới quyền chỉ huy của vua Quang Trung dẹp tan quân giặc. Chiến thắng vang dội trong trận Hạ Hồi, Bình Vọng, Đống Đa. Sau đó, ông cùng các tướng trấn giữ Bắc Hà. Năm 1790, ông vâng mạng sang nhà Thanh nhận sắc phong, khi trở về ông được phong làm Thủy sư Đô đốc.
III | ||||||||||||||||
65 | Bùi Đắc Tuyên | Ông phù tá Tây Sơn và có nhiều công trạng làm đến chức Thái sư. Khi vua Quang Trung mất, ông nắm giữ binh quyền. Năm 1795, tỉnh hình chính trị rối ren, ông bị loạn thần giết chết. | IV | |||||||||||||||
66 | Bùi Thị Xuân | Tháng 1-1802, bà chỉ huy 5.000 quân trong trận đánh lũy Trấn Ninh, trong trận đánh này bà tấn công địch quyết liệt, khiến quân của Nguyễn Anh hết sức khiếp sợ.
III | ||||||||||||||||
67 | Trần Quang Diệu | Tuổi thanh niên, ông là bạn tâm giao của Nguyễn Nhạc. Vợ chồng ông là trụ cột của nhà Tây Sơn. Chiến công đuổi quân Thanh xâm lược đầu xuân 1789 có sự đóng góp của vợ chồng ông rất nhiều. Năm 1790, ông làm Đốc trấn Nghệ An và trông coi việc xây thành Phượng Hoàng Trung đô.
II | ||||||||||||||||
68 | Nguyễn Tri Phương | Năm 1832, sang Trung Quốc liên hệ việc thương mại. Năm 1835, vào Gia Định bình định các vùng mới khai hoang, việc thành công ông được thăng hàm Thị lang. Đến năm 1862, sau khi triều đình ký hàng ước, ông được cử ra Bắc làm tổng thống Hải An quân vụ, thăng chức Võ hiển Đại học sĩ tước Tráng Liệt Bá. Năm 1872, ông được điều về giữ chức Tuyên sát đổng sức đại thần thay mặt triều đình xem xét việc quân sự ở Bắc kỳ. Ngày 19-11-1873, Pháp đánh úp thành Hà Nội, con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn và hy sinh, ông bị trọng thương, được lính Pháp cứu chữa nhưng ông khẳng khái từ chối. Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20-12-1873, thọ 73 tuổi. | III | |||||||||||||||
69 | Phạm Thế Hiển | Khi Pháp xâm lược miền Nam, ông vào Nam với tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, ra sức chống giữ đại đồn Kỳ Hòa (cũng gọi là Chí Hòa) trong năm 1860.
IV | ||||||||||||||||
70 | Cao Bá Đạt | Năm 1834, ông đỗ cử nhân, làm Tri huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Ông là vị quan thanh liêm mẫn cán được dân chúng kính mến. | IV | |||||||||||||||
71 | Võ Duy Ninh | Năm 1858, ông ra làm Tổng đốc Định Biên (Gia Định - Biên Hòa) tích cực lo việc trị an, khi Pháp tấn công thành Gia Định, trên cương vị Hộ Đốc ông anh dũng chỉ huy quân dân chống quân xâm lược. Ngày 17-02-1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông rút về thôn Phước Lý, xã Phước Lộc, ông đã tự vẫn, quyết không hàng địch.
IV | ||||||||||||||||
72 | Nguyễn Duy | Thuở nhỏ ông thông minh, hiếu học. Năm 1837, ông đỗ tú tài. Năm Thiệu Trị nguyên niên, ông đậu cử nhân khoa Tân Sửu. Năm 1842, thi Đình đậu Tam giáp đồng tiến sĩ. Năm 1856, tàu chiến Pháp đến khiêu khích ở Đà Nẵng, ông được phái vào giúp Tổng đốc Quảng Nam là Đào Trí lo chống giặc. Năm 1860, Pháp đánh chiếm Gia Định, ông sung chức Gia Định Quân thứ Tán lí quân vụ trông coi việc quân sự.
IV | ||||||||||||||||
73 | Hoàng Diệu | Ông đỗ cử nhân khoa 1848 và Phó bảng khoa 1853 lúc 25 tuổi. Ông được bổ làm Tri huyện Tuy Phước, thăng Tri phủ Tuy Viễn, Tri phủ Lạng Giang, An sát Nam Định, Bổ chính Bắc Ninh. Ông nổi tiếng công minh và thanh liêm. Thời gian sau, ông được triều đình ủy nhiệm chức Phó toàn quyền Đại thần để hiệp thương với sứ bộ Y Pha Nho (Tây Ban Nha).
III | ||||||||||||||||
74 | Nguyễn Thiện Thuật | Năm 1852, ông đỗ tú tài, được bổ làm Bang tá ở Hưng Yên. Năm 1871, đỗ cử nhân, làm Tri phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thời gian này, ông cầm quân tiêu diệt giặc cướp, được phong làm Tán tương quân vụ giúp Hoàng Kế Viêm đánh giặc Tàu Ô cướp phá ở các vùng biên giới. Sau ông được cử làm Chánh sứ 16 châu thuộc các tỉnh sát biên giới, đương thời gọi ông là Tán Thuật.
III | ||||||||||||||||
75 | Cao Thắng | Thuở nhỏ ông được anh của Phan Đình Phùng là Phan Đình Thuật nuôi dạy. Đến khi Phan Đình Phùng khởi nghĩa, ông tham gia và phục vụ đắc lực trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nghệ Tĩnh. Ông làm Quản cơ, điều động nghĩa quân đánh đồn giặc rất dũng cảm. Ông mở xưởng đúc vũ khí theo kiểu Âu Tây, nơi chiến khu Vụ Quang.
II | ||||||||||||||||
76 | Trần Cao Vân | Năm 1882, ông đi thi thì bị bệnh nặng, bỏ luôn cử nghiệp, dấn thân vào công cuộc cứu nước. Năm 1898, cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ thất bại (ông làm cố vấn), ông bị bắt giam ở ngục Phú Yên một thời gian ngắn. Khi ra khỏi nhà giam khoảng 2 năm, ông lại bị bắt giam tại nhà lao Bình Định. Đến năm 1907, ông mới được trả tự do.
II | ||||||||||||||||
77 | Nguyên Văn Tố | Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ chức Bộ trưởng Xã hội, rồi đại biểu Quốc hội khóa I, Quyền Chủ tịch Quốc hội khóa I. Sau ngày Toàn quốc Kháng chiến (19-12-1946), ông cùng Chính phủ rút lên Việt Bắc tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Trong một cuộc tấn công chớp nhoáng vào chiến khu, ông bị giặc Pháp bắt và hy sinh tại Bắc Cạn ngày 07-10-1947. Tác phẩm vừa chữ Quốc ngữ và chữ Pháp rất có giá trị của ông phần lớn in trong các tạp chí: Trí Tri, Viễn Đông Bác cổ, Tri Tân xuất bản ở Hà Nội. | III | |||||||||||||||
78 | Nguyễn Bình | Sau Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và Nam Bộ kháng chiến, ông được Tổng bộ Việt Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặc phái vào miền Nam lo việc thống nhất các lực lượng vũ trang tại chiến trường Nam Bộ. Ông được đặc cách phong quân hàm Trung tướng, Ủy viên Quân sự Nam Bộ kiêm Khu Trưởng khu Bảy (miền Đông Nam Bộ) với toàn quyền quyết định các việc thuộc lĩnh vực quân sự tại Nam Bộ. Năm 1951, ông lên đường ra Việt Bắc nhận công tác mới. Trên đường đi ông bị phục kích và hi sinh tại biên giới Việt Nam - Campuchia. | III | |||||||||||||||
79 | Nguyễn Văn Huyên | Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông làm Giám đốc Vụ Đại học kiêm Giám đốc viện Đông Phương Bác cổ Hà Nội. Tháng 11-1946, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và giữ nhiều chức vụ quan trọng khác: Đại biểu Quốc hội khóa II, III, IV,V; Ủy viên đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt - Trung, Phó Hội trưởng Hội Sử học, Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước...
IV | ||||||||||||||||
80 | Nguyễn Duy Trinh | Năm 1931, ông bị bắt giam, đày lên Ban Mê Thuột. Năm 1933, bị đày ra Côn Đảo. Năm 1939, ông được trả tự do, về hoạt động tại Nghệ An đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Năm 1946, ông là Đại biểu Quốc hội khóa I, đơn vị tỉnh Nghệ An rồi được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Trung Bộ, kiêm Bí thư Liên khu ủy khu V. Năm 1959, ông làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
IV | ||||||||||||||||
81 | Phạm Hùng | Năm 1931, ông bị bắt và đày đi Côn Đảo. Đến năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được rước về. Từ năm 1946-1987, ông giữ các chức vụ sau: Bí thư Xứ ủy lâm thời Nam Bộ (1946), Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính phân liên khu miền Đông Nam Bộ (1952), Phó Thủ tướng Chính Phủ (1958), Chính ủy Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1980), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1987). | II | |||||||||||||||
82 | Nguyễn Chánh | Ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội từ năm 1929. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1931, tham gia lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ.
III | ||||||||||||||||
83 | Nguyễn Chí Thanh | Năm 1943, ông bị bắt. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông được trả tự do. Tháng 8-1945, ông được cử đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Bí thư Phân khu ủy Bình Trị Thiên. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, ông được bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1950, ông được phong quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông được cử làm Bí thư Trung ương cục Miền Nam một thời gian.
II | ||||||||||||||||
84 | Huỳnh Văn Nghệ | Kháng chiến thành công, ông chuyển ngành giữ chức Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Ông được Nhà nước tặng nhiều huy chương, huân chương cao quý và Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc. Thời trẻ ông còn sáng tác thơ văn khá nhiều, thơ ông thắm đượm tình đất nước, nghĩa đồng bào, tính dân tộc sâu đậm “Từ thuở mang gươm đi mở nước Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”
III | ||||||||||||||||
85 | Lê Trọng Tấn | Tháng 3-1945, được tổ chức cách mạng cử về huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Đông tuyên truyền, tổ chức các cơ sở cách mạng và huấn luyện các lực lượng vũ trang tự vệ. Cách mạng Tháng Tám thành công, rồi trong kháng chiến chống Pháp, ông giữ các chức vụ tham mưu từ Sư đoàn đến Bộ Tổng tham mưu. Ông mất ngày 05-12-1986 tại Hà Nội, thọ 72 tuổi. Do công lao của mình, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng nhiều huân chương quân công cao quý, trong đó có Huân chương Hồ Chí Minh. | II | |||||||||||||||
86 | Hoàng Văn Thái | Ông được Nhà nước cử giữ các chức vụ trọng yếu trong chính quyền và Đảng: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại biểu Quốc hội. Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý.
II | ||||||||||||||||
87 | Trần | Từ 1955 đến 1962, ông giữ chức vụ Phó Tổng Tham mưu Trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đến năm 1963, là Tư lệnh Quân Giải phóng Miền Nam - Ủy viên Trung ương Cục, Phó Bí thư Quân ủy Miền. Ông đã đóng góp nhiều công sức trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ đất nước và được Nhà nước tặng nhiều huân chương cao quý, ông mất năm 1996. | II | |||||||||||||||
88 | Nguyễn Thị Định | Trong thời gian tham gia cách mạng, bà đã giữ nhiều chức vụ của Nhà nước và các tổ chức quốc tế. Bà là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV - V - VI, nguyên là Bí thư tỉnh Bến Tre, Thiếu tướng, Phó Chủ tịch các lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Đại biểu Quốc hội khóa V - VI - VII. Bà được tặng thưởng nhiều huân chương cao quý, xứng đáng là người phụ nữ anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. | III | |||||||||||||||
C. ANH HÙNG, LIỆT SĨ, DANH NHÂN VĂN HÓA | ||||||||||||||||||
89 | Đinh Công | Ông làm thứ sử Hoan Châu (Nghệ An) về đời Dương Diên Nghệ và đời Ngô Quyền. Khi Dương Diên Nghệ mất, ông lui về ở ẩn tại Hoa Lư, sau ra phò Ngô Vương Quyền, nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh mất.
III | ||||||||||||||||
90 | Khuông Việt | Ông tinh thông tam giáo. Khi xuất gia học với sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thành Đại La (Hà Nội), được truyền tâm ấn, đứng vào thế hệ thứ tư, dòng thiền Quan Bích. Ông mất ngày 22-03-1011, thọ 78 tuổi. Tác phẩm của ông: Thuyền uyển tập anh ngữ lục, Truyền đăng lục... | IV | |||||||||||||||
91 | Sư Vạn Hạnh | Tuy ông đi tu nhưng ông vẫn quan tâm đến những biến cố chính trị, quân sự thời ấy. Vua Lê Đại Hành xem ông như cố vấn và ông từng góp ý kiến trong việc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
III | ||||||||||||||||
92 | Hàn Thuyên | Năm 1256, ông đỗ Thái học sinh, làm quan đến Thượng thư bộ Hình. Thường gọi ông là Hàn Thuyên, vì theo sử ghi chép lại: Mùa thu năm 1282, có cá sấu bên bờ sông Phú Lương hoành hành, ông vâng lệnh triều đình đuổi loài cá dữ, ông thảo một bài thơ đọc ở bờ sông rồi ném xuống, sau đó cá sấu đi mất. Vua cho việc ấy giống như Hàn Dũ ở Trung Quốc, nên gọi ông họ Hàn.
IV | ||||||||||||||||
93 | Lê Văn Hưu | Đến đời Thánh Tông, ông làm đến chức Học sĩ Viện Hàn lâm, kiêm Gấm tu Viện Quốc sử, phụng chỉ soạn bộ Đại Việt sử ký, soạn xong trong năm 1272, gồm 30 quyển. Tính ông thích du ngoạn, xem xét hình thể núi sông, lưu tâm nghiên cứu về môn Địa lí.
IV | ||||||||||||||||
94 | Nguyễn Hiền | Năm 1247, triều đình mở đại khoa lấy các Thái học sinh (tiến sĩ), ông vào ứng thí lúc ấy mới 13 tuổi. Đây là khoa thi đỗ Tam khôi đầu tiên và ông là người đỗ Trạng nguyên. Như vậy ông là Tam khôi thứ nhất trong lịch sử thi cử của đời Trần mà cũng là người đỗ Trạng nguyên đầu tiên sớm nhất và trẻ nhất của nền khoa cử nước nhà.
IV | ||||||||||||||||
95 | Huyền Trân Công Chúa | Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả bà cho vua Chiêm, đổi lấy hai châu Ô, Lý. Bà về Chiêm được phong Hoàng hậu. Tháng 5-1937, khi Vua Chiêm mất, theo tục lệ Hoàng hậu phải hỏa táng theo.
IV | ||||||||||||||||
96 | Trần Quốc Toản | Đời Trần Nhân Tông, quân Nguyên sang xâm lược nước ta, nhà vua hội các vương hầu để bàn việc quân cơ đối phó với giặc Nguyên. Trần Quốc Toản lúc đó mới 16 tuổi cũng đến hội, nhưng vì nhỏ tuổi nên không được bàn, ông giận đến nỗi bóp vỡ nát trái cam cầm trong tay.
III | ||||||||||||||||
97 | Đoàn Nhữ Hài | Năm 1312, ông đi sứ Chiêm Thành, thành công trở về ông được trọng dụng, phong làm Tham tri chính sự.
IV | ||||||||||||||||
98 | Mạc | Năm 1304, ông đỗ Trạng nguyên năm 24 tuổi, ông làm quan qua ba triều Anh Tông, Minh Tông và Hiến Tông, phong đến Tả bộc xạ Đại liêu ban. Tính ông liêm khiết, được sĩ phu trọng vọng, ông từng đi sứ Trung Quốc hai lần, được các danh sĩ nước ngoài khen ngợi, khâm phục. Ông mất năm 1350, thọ 70 tuổi.
III | ||||||||||||||||
99 | Lê Quát | Ông là học trò xuất sắc của Chu Văn An, thi đỗ Thái học sinh, làm Tử tư lang kiêm Hàn lâm viện phụng chỉ. Ít lâu, ông được thăng Thượng thư Hữu bật nhập nội hành khiển (như Thủ tướng).
IV | ||||||||||||||||
100 | Trương Hán | Ông vốn là môn khánh của Hưng Đạo Vương, năm 1308, ông được Vua Anh Tông bổ làm Hàn lâm học sĩ. Đời Minh Tông giữ chức Hành khiển. Sang đời Hiến Tông làm Môn hạ hữu ti Lang Trung, đến đời Dụ Tông đổi sang Tả Tư lang kiêm chức Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng Gián nghị Đại phu Tham chính sự.
III | ||||||||||||||||
101 | Chu Văn | Đời Trần Minh Tông, ông làm Quốc tử giám tư nghiệp và dạy các con vua. Vào lúc này, ông soạn sách tứ thư thuyết ước. Học thuyết của ông là “Cùng lý, chính tâm, trừ tà, cư bế”, chú trọng về phương diện thực hành của Khổng giáo. Nhiều học trò ông cũng là danh sĩ đương thời như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh.
III | ||||||||||||||||
102 | Trần Nguyên Đán | Vốn dòng tôn thất, ông được bổ dụng ngay từ trẻ, đời Dụ Tông làm Ngự sử đại phu, đời Nghệ tông lên chức Tư đồ, tước Chương Túc Hầu.
III | ||||||||||||||||
103 | Nguyễn Phi Khanh | Khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, ông đổi tên là Phi Khanh, được cử làm Học sĩ Viện Hàn lâm trong năm 1401 rồi lần lượt được thăng lên Thông Chương đại phu, Đại lí tự Khanh kiêm Trung thư thị lang, Tư nghiệp Quốc tử giám. Quân Minh xâm lược, ông cùng vua tôi nhà Hồ bị giặc bắt giải về Kim Lăng. Ông khuyên Nguyễn Trãi phải trở về phục thù và báo hiếu cho cha bằng con đường cứu quốc.
III | ||||||||||||||||
104 | Đặng Tất | Tháng 10-1407, Giản Định Đế tức vị ở Trường An, thuộc tỉnh Ninh Bình. Trương Phụ chuyển quân vào đánh, Giản Định Đế vào Nghệ An, ông nghe tin, dấy quân đánh quân nhà Minh ở đấy rồi nghinh tiếp vua Giản Định. Vua Giản Định phong ông làm Quốc Công, cùng lo khôi phục đất nước.
IV | ||||||||||||||||
105 | Nguyễn Trãi | Năm 1918, ông cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo. Suốt 10 năm kháng chiến cứu nước, ông đã góp nhiều ý kiến về chiến lược quân sự, ngoại giao giúp cuộc kháng chiến thành công. Lê Lợi lên ngôi phong tước Quan Phục Hầu và cho theo họ vua. Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Hải Dương, ngụ nơi vườn vải (Lệ Chi Viên) của ông rồi đột ngột mất tại đây, gian thần nhân đó ghép tội ông vào tội đã khiến nàng hầu Nguyễn Thị Lộ giết vua rồi bắt ông giam vào ngục. Năm 1442, ông bị giết cả 3 họ, thọ 62 tuổi. Sang đời Lê Thánh Tông, nỗi oan của ông được giải, ông được truy phong làm Tế Văn Hầu. Các tác phẩm tiêu biểu của ông còn lưu truyền: Bình ngô đại cáo, Ức trai dư địa chí, Quốc âm thi tập, Ngọc đường di cáo... | II | |||||||||||||||
106 | Lương Thế | Năm 1463, ông đỗ Trạng nguyên 23 tuổi. Ông làm đến Thừa chỉ ở Viện Hàn lâm, tham gia trong Tao Đàn nhị thập bát tú thời ấy. Bình sinh hiếu học, đọc rộng các sách, ông có soạn nhiều sách về đạo Phật và quyển Toán pháp đại thành. Các sĩ phu và nhân dân cảm phục tài đức ông, tục gọi ông là Trạng Lường (biểu dương ông về khoa toán pháp). Khi ông mất, được phong làm Phúc thần, nơi đình Cao Hương còn có bức vẽ chân dung ông. | II | |||||||||||||||
107 | Ngô Sĩ Liên | Năm 1442 ông đỗ Tiến sĩ, làm Tả thị lang bộ Lễ, rồi giữ việc biên soạn sử sách ở Viện Hàn lâm. Sau làm đến đô Ngự sử, trong đời Lê Thánh Tông, làm việc ở Viện Quốc sử.
III | ||||||||||||||||
108 | Đặng Trần | Ông thông minh, hiếu học, gặp lúc chúa Trịnh Giang cấm nhân dân Thăng Long không được để đèn sáng hoặc đốt lửa ban đêm, ông phải đào hầm dưới đất thắp đèn mà học. Ông thi đỗ Hương cống, được bổ Phủ học huấn đạo, rồi làm Tri huyện Thanh Oai (Hà Đông), sau thăng chiến Khán Ngự sử đài. Chẳng bao lâu thì ông mất khi chưa đến 40 tuổi. Tác phẩm của ông đều bằng chữ Hán. Ngoài bản Chinh phụ ngâm còn có: Tiêu tương bát cảnh (thơ), Bích câu Kỳ ngộ (truyện thơ), và các bài phú: Trương Hoàng tư thuần lô, Trương lương bố y, Khấu môn thanh. | IV | |||||||||||||||
109 | Cống Quỳnh | Ông sinh vào đời Hậu Lê, thơ văn cũng như tính tình ông có tính cách trào lộng, sâu sắc. Thi đỗ Hương cống (cử nhân), không làm quan và chỉ ngao du sơn thủy, làm thơ phúng thích nhân tình thế thái.
IV | ||||||||||||||||
110 | Nguyễn Bỉnh Khiêm | Năm 1535, ông đỗ Nhất giáp Tiến sĩ đệ nhất danh (Trạng nguyên) năm 44 tuổi. Các kỳ thi Hương, Hội, Đình ông đều đỗ đầu, làm quan đến Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Ở triều được 8 năm, ông xin về trí sĩ (năm 1542), làm nhà ở làng gọi là Bạch Vân am, do đấy có hiệu là Bạch Vân cư sĩ, rồi mở trường dạy học bên cạnh sông Hàn chảy qua làng.
II | ||||||||||||||||
111 | Vũ Như | Sau đó xảy ra binh biến, ông mất năm 1517 ở ngoại thành Thăng Long. | IV | |||||||||||||||
112 | Phùng Khắc Khoan | Ông nổi tiếng thơ văn, chí khí, khảng khái, hào hùng. Năm 1550, ông đỗ đầu khoa thi Hương, được bổ làm Ngự doanh ký lục, coi sóc quân Tứ vệ góp sức chiêu dân vào Thanh Hóa lập nghiệp, được thăng chức Lễ khoa cấp sự trung. Năm 1580, đời Lê Thế Tông, ông đỗ Nhị Giáp tiến sĩ (Hoàng Giáp), làm Đô cấp sự trung, sau phong Hồng lô tự khanh, rồi giữ chức Thị lang bộ Công. Các tác phẩm chính: Nông sự tiện lãm, Nghị trai thi tập, Ngư phủ nhập Đào nguyên, Sứ hoa bút thủ trạch thi. | III | |||||||||||||||
113 | Đoàn | Bà cùng với anh cần cù học tập trở nên người sành văn chương. Người anh mất, bà đảm nhận gánh nặng gia đình, bấy giờ, người làng Sài Trang, huyện Đường Hào có con gái tiến cung, đón bà vào cung ở dạy nàng cung tần ấy. Tương truyền chính bà đã dịch Khúc ngâm Chinh phụ của Đặng Trần Côn (nhưng cũng có sách cho rằng bản dịch đó là của Phan Huy Ích). Điều biết chắc chắn là bà giỏi văn chương, có nhiều thơ văn xướng họa với anh, với chồng khá nhiều, nhưng phần lớn đã thất lạc. Duy còn một bản Tục truyền kỳ cũng gọi là Truyền kỳ tân phả (để phân biệt với Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ). | III | |||||||||||||||
114 | Nguyễn Cư | Ông đỗ hương tiến (cử nhân), có tài văn võ, làm quan đến Thượng thư bộ Lại, kiêm Tào vạn sứ, tước Nghị Biểu Hầu, ông nổi tiếng liêm chánh, giỏi việc chính trị, doanh điền, ngoại giao. Thơ văn ông còn lưu truyền nhiều, gồm một số thơ chữ Hán và chữ Nôm, đặc sắc nhất là Truyện Sãi Vãi và Độn Am thi tập. Đến đời Minh Mạng, ông được truy tặng là Khai quốc công thần, Hiệp biện đại học sĩ, đổi tên thụy là Văn Cách, truy phong tước Tân Minh Hầu, cho tòng tự ở Thái miếu. | III | |||||||||||||||
|
|
115 | Lương Hữu Khánh | Năm 1538, đời nhà Mạc, ông đỗ thứ hai thi Hội nhưng lại không vào thi Đình vì được tin nhà Lê đang chấn chỉnh lại ở Thanh Hóa. Ông vào Thanh, được Trịnh Kiểm tiếp đón ân cần, đưa vào ra mắt vua Lê. Từ ấy, ông dốc lòng phò nhà Lê chống Mạc, có nhiều công lao to lớn, được vua Lê, chúa Trịnh đều trọng đãi. Sau làm đến Thượng thư bộ Binh, tước Đạt Quận Công, là trọng thần trong đời Trung Hưng nhà Lê. | IV | |||||||||||||
116 | Hải Thượng Lãn Ông | Ông vốn là một cao sĩ và là y sư nổi tiếng đời Lê Hiến Tông. Tài lược hơn đời, thanh liêm rất mực, quê ông ở xã Liêu Xá, phường Thượng Thống, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương, nên lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Ông đỗ hương cống, nhưng buổi bấy giờ vua Lê chỉ còn là hư vị, Trịnh Nguyễn, Tây Sơn còn đang giao chiến, ông chán công danh, lánh về ở ẩn nơi xã Phúc Lộc, huyện Hương Sơn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh). Thơ ông đầy vẻ cao khiết u trầm, đúng là bậc xử sĩ, cao hiền và là vị y sư đáng kính trọng của nhân dân ta hồi thế kỷ XVIII. Lê Hữu Trác không những là một văn sĩ nổi danh mà ông còn là một y sư kiệt xuất của nhân dân ta. Ông mất nhằm ngày rằm tháng giêng âm lịch năm 1792, thọ 72 tuổi. | II | |||||||||||||||
117 | Lê Quý Đôn | Năm 1760, làm Phó sứ đi sứ Trung Quốc, khi về được phong tước Dĩnh thành Bá, rồi thăng Hàn lâm viện thừa chỉ đốc đồng Hải Dương. Sau ông chuyển về kinh làm tổng tài quốc sử quán cùng Nguyễn Hoàn khảo duyệt phần “tục biên quốc sử”.
I | ||||||||||||||||
118 | Nguyễn Gia | Ông nổi tiếng cả về văn, triết, sử, thông hiểu âm nhạc, hội họa, kiến trúc. Trên đường công danh từ 18 tuổi (1759), ông làm Hiệu úy, Quân trung mã tả đội, năm 22 tuổi thăng Chỉ huy Thiêm sự, năm 26 tuổi thăng Chỉ huy Đồng tri, 30 tuổi làm Tổng binh, được phong tước Ôn Như Hầu. Năm 29 tuổi, ông làm Đô chỉ huy sứ, sau đó có lệnh điều động đi trấn thủ Hưng Hóa.
IV | ||||||||||||||||
119 | Nguyễn Huy Tự | Năm 1759, ông đỗ Hương cống. Từ năm 1767, ông nhận chức Tri phủ Quốc Oai. Đến năm 1770, ông được ưu đãi theo hàng Tiến sĩ, thăng Hiến sát sứ Sơn Nam, sau đó cải sang võ chức (1774), tước Nhạc Đình Bá, rồi làm Đốc đồng Sơn Tây (1782). Đến năm 1784, ông có tang mẹ vợ, cáo về cư tang.
IV | ||||||||||||||||
120 | Phan | Năm 1777, làm Đốc đồng Thanh Hóa, sau về triều làm thiêm sai Tri hình ở phủ chúa Trịnh. Đến năm 1788, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ hai, ông được vua Quang Trung phong làm Tả Thị lang bộ Hộ, tước Thụy Nham Hầu. Đầu năm 1790, ông nhận lệnh vua Quang Trung cùng sứ bộ sang nhà Thanh (gồm 150 người). Đi sứ về năm 1792, ông được thăng Thị trung Ngự sử ở tòa Nội Các.
IV | ||||||||||||||||
121 | Hồ Xuân Hương | Bà nổi tiếng văn chương, thơ bà được lưu truyền nhiều và đều thật hay, từ trước đến nay thân thế và văn chương của bà đã được nhiều người phổ biến trên nhiều bài báo, trên 10 quyển sách đã xuất bản. Hầu hết đều thương cảm cuộc đời bà, thơ bà chua cay, sắc sảo nhằm đả kích bọn đội lốt trưởng giả. | II | |||||||||||||||
122 | Nguyễn Huy Lượng | Ông đỗ Hương cống, làm quan nhà Lê chức Phụng Nghi. Sau làm quan nhà Tây Sơn, ông đóng góp nhiều công sức với chức Hữu thị lang bộ Hộ, tước Chương Lĩnh Hầu.
IV | ||||||||||||||||
123 | Lê | Năm 1788, mở khoa thi, ông trúng tuyển được cử làm Hàn Lâm viện chế cáo, giữ việc biên soạn sổ sách. Ít lâu, ông được thăng Hữu tham Tri, rồi thăng đến Thượng thư bộ Binh. Năm 1802, ông làm Chánh sứ sang Trung Quốc, khi về được thăng làm Thượng thư bộ Hộ.
III
| ||||||||||||||||
124 | Nguyễn Du | Năm 1802, Vua Gia Long mời ông ra làm quan bổ làm Tri huyện Phù Dung, rồi làm Tri phủ Thường Tín. Năm 1805, được thăng làm Học sĩ điện Đông các rồi thăng cần Chánh điện học sĩ, sau được làm Chánh sứ đi Trung Quốc, đi sứ về được thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ. Năm 1820, ông được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhưng ông bị bệnh và mất ngày 16-9-1820 (55 tuổi).
II | ||||||||||||||||
125 | Phạm Đình Hổ | Ông đọc rộng biết nhiều, năm 1821, vua Minh Mạng vời ông ra và bổ làm Hành tẩu Viện Hàn lâm, ít lâu ông từ chức. Năm 1826, vua Minh Mạng lại cho triệu ông triều và làm Thừa chỉ Viện Hàn lâm và Tế tửu Quốc tử giám (như giáo sư Đại học), sau được thăng Thị giảng Học sĩ. Đến năm 1832, ông về hưu.
IV | ||||||||||||||||
126 | Nguyễn Công | Năm 1813, ông đỗ sinh đồ (Tú tài). Đến năm 1819, đỗ Giải nguyên. Sơ bổ hành tẩu ở Quốc sử quán, rồi làm Tri huyện Đường Hào (Hải Hưng), trải qua các chức vụ: Lang trung bộ Lại, Tư nghiệp Quốc tử giám (1824), Tham hiệp trấn Thanh Hóa (1825), Thị lang bộ Hình (1827), rồi thăng Hữu tham tri bộ Hình, sung chức Dinh điền sứ Nam Định, Ninh Bình. Có lúc làm Tổng đốc Hải An, Tả đô ngự sử Viện đô sát, Tuần phủ An Giang. Đến năm 70 tuổi (1848), ông ba lần xin hưu trí mới được. Khi làm Dinh đền sứ, ông có công khẩn hoang, lập hai huyện Kim Sơn, Ninh Nhất trong năm 1829. Tính ông khảng khái, hào hùng lại phong nhã, nên trong đời có rất nhiều giai thoại thú vị. Thơ ca của ông được lưu truyền rất nhiều. Ông mất ngày 14-11-1858 âm lịch, thọ 80 tuổi. | III | |||||||||||||||
127 | Phan | Năm 1824, ông được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc. Năm 1828, làm Thủ thừa tỉnh Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp trần Quảng Nam. Năm 1830, ông lại đi sứ Trung Quốc.
IV | ||||||||||||||||
128 | Võ Trường Toản | Ông học rộng, có đức hạnh hơn người. Thời loạn lạc, ông không cầu công danh, ở ẩn dạy học, đào tạo rất nhiều nhân tài cho đất nước.
IV | ||||||||||||||||
129 | Trương Quốc Dụng | Năm 1825, ông đỗ cử nhân, năm 1829 đỗ Tiến sĩ, từng làm Tri phủ Tân Bình (Gia Định) rồi được về Kinh làm Lang trung bộ Hình. Sau được thăng làm Án sát Quảng Ngãi (1837), Án sát Hưng Yên (1840). Năm 1841, ông về triều làm Tả thị lang bộ Lễ rồi trải qua bộ Lại, bộ Hình, bộ Công, sau được thăng đến Thượng thư bộ Hình. Sau khi mất được tặng Hàm Đông các đại học sĩ, thụy Vân Nghi. Ông là tác giả các sách: Công hạ kỉ văn, Nhu Trung thi văn tập...
IV | ||||||||||||||||
Nguyễn Văn Siêu | Ông nổi tiếng văn học, thi Hương đỗ Á nguyên (cử nhân thứ hai). Đến 1838, đỗ Phó bảng lúc 39 tuổi làm quan đến Kiểm thảo Viện Hàn lâm, rồi trải qua các chức vụ Chủ sự bộ Lễ, Thị giảng học sĩ...
IV | |||||||||||||||||
| Bùi Hữu Nghĩa | Năm 1835, ông đỗ Giải nguyên trường thi Gia Định, lúc 28 tuổi. Sơ bổ Tri huyện Phước Long, tỉnh Biên Hòa, rồi tuyên bổ Tri huyện Trà Vang (tức là Trà Vinh, nay thuộc tỉnh Trà Vinh). Vì tính cương trực, ông đương đầu với đám cường hào ác bá tại Trà Vinh bị quan trên tham nhũng cáo gian, tìm cách hãm hại. Ông thoát cảnh lao tù, nhưng phải sung quân, đóng đồn ở Vĩnh Thông (Châu Đốc).
IV | ||||||||||||||||
132 | Huỳnh Mẫn Đạt | Huỳnh Mẫn Đạt là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, góp công rất nhiều trong công cuộc chống Pháp xâm lược hồi đầu thế kỷ. Ông còn là nhà thơ nổi tiếng của miền Nam.
IV | ||||||||||||||||
133 | Cao Bá Quát | Ông nổi tiếng văn chương đương thời. Năm 1831, ông 22 tuổi đậu Á nguyên trường thi Hà Nội. Năm 1841, quan đầu tỉnh Bắc Ninh đề cử ông với triều đình, ông được triệu vào cung, sung chức Hành tẩu bộ Lễ. Năm 1854, ông đổi tên Sơn Tây làm Giáo thọ ở Phú Quốc Oai. Năm 1854, ông bị hành quyết vì đã tham gia khởi nghĩa chống triều đình.
III | ||||||||||||||||
134 | Phan Bá Vành | Ông xuất thân là nông dân nghèo, có võ nghệ. Khoảng năm 1821 - 1822, vùng Châu Thổ sông Hồng gặp nạn đói, nhân dân Nam Định, Thái Bình, Hải Dương bị nạn cường hào bức hiếp, ông nhân thời cơ khởi xướng phong trào, tập hợp lực lượng nông dân chống địa chủ, cường hào, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo.
IV | ||||||||||||||||
135 | Nguyễn Hữu Huân | Khi Pháp xâm lược miền Nam, ông đứng vào hàng ngũ kháng chiến, phối hợp với Âu Dương Lân và Võ Duy Dương làm Phó quản đạo, tích cực chống Pháp. Địa bàn hoạt động là vùng Tân An, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười... Pháp dụ hàng nhưng ông kiên trung, bất khuất và ông hy sinh trong năm 1875. | III | |||||||||||||||
136 | Trương Định | Tháng 2-1859, Pháp chiếm thành Gia Định, ông đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều chặn giặc và thắng trận ở Cây Mai, Thị Nghè... Năm 1860, ông tham gia giữ đồn Kỳ Hòa dưới quyền Tổng thống Quân vụ Nguyễn Tri Phương. Sau được triều đình Huế thăng chức Phó Lãnh binh, từ đó ông cùng các chiến sĩ rút về Tân Hòa, Gò Công xây dựng căn cứ kháng Pháp. Tại đây ông tổ chức nhiều trận phục kích quân địch ở một vùng rộng lớn từ Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn... tiêu hao rất nhiều lực lượng địch. Sau triều đình phong ông chức Lãnh Binh. Nghĩa quân và nhân dân vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho... suy tôn ông là “Bình Tây Đại Nguyên Soái”.
137 | Phạm Phú Thứ | Năm 1842, ông thi Hương đỗ Giải nguyên, năm 1843, thi Hội đỗ Hội nguyên đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, được bổ làm Tri phủ Lạng Giang. Sau đó, ông về kinh giữ các chức vụ quan trọng tại triều: Thượng thư bộ Hộ, Tổng đốc Hải An, sung chức Thương chính đại thần, Tham tra bộ Binh. Năm 1863, ông được cử làm Phó sứ sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
IV | ||||||||||||||
138 | Nguyễn Đình Chiểu | Giặc Pháp xâm chiếm Gia Định, ông lui về Ba Tri, Bến Tre tiếp tục dạy học và làm thuốc, nhiệt tình yêu nước. Ông liên hệ mật thiết với các nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, Lãnh binh Trương Định. Ông lên tiếng căm hờn bọn cướp nước trong bài Chạy giặc, tích cực dùng văn chương kích động lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân, ông làm văn tế Vong hồn mộ nghĩa. Ông mất ngày 24-05-1888 âm lịch, thọ 66 tuổi.
II | ||||||||||||||||
139 | Phạm Viết Chánh | Năm 1846, ông đỗ cử nhân, được bổ về Nam làm quan ở tỉnh Gia Định, trải qua cuộc kháng chiến chống giặc Pháp trong suốt các năm 1859 - 1861. Sau Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862), ông về kinh làm việc, thăng đến chức Ngự sử đạo Hải Yên. Sau khi để mất tỉnh An Giang vào tay Pháp, ông bị kết án nhưng xin được ở lại quê nhà điều dưỡng. Sau ông về quê ở làng Lương Mỹ, tục gọi chợ Mỹ Lồng tỉnh Bến Tre sống cuộc đời ẩn dật. Cho đến ngày 22-1-1886, ông mất ở Mỹ Lồng, thọ 62 tuổi. | IV | |||||||||||||||
140 | Nguyễn Thông | Năm 1859, giặc Pháp chiếm Gia Định, ông về Nam tòng quân đánh giặc. Năm 1862, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ, ông ra tị địa ở Bình Thuận, rồi nhận chức Đốc học Vĩnh Long. Thời gian này ông tích cực lo việc giúp nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trong việc giáo dục. Năm 1866, khi xây xong Văn miếu, ông viết bài kí tại Văn Xương Các. Sau đó, ông ra tị địa ở Bình Thuận lần thứ hai rồi lãnh chức Á sát Khánh Hòa. Năm sau 1868, lại được điều về kinh giữ chức Biện lí bộ Hình, đến cuối năm được cử làm Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1881, ông được triều đình sung chức Điền nông Phó sứ kiêm lãnh chức Đốc học Bình Thuận. Ông mất năm 1884 (57 tuổi). Các tác phẩm của ông: Khâm định nhân sự Kim giám, Dưỡng chính lục... | IV | |||||||||||||||
141 | Nguyễn Trường Tộ | Ở ẩn nơi quê nhà, ông lần lượt gửi lên triều đình nhiều bài điều trần giá trị, đề nghị chính quyền cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục... Các điều trần của ông nếu áp dụng là một sách lược lớn biến Việt Nam thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển biến quan trọng trong lịch sử của dân tộc ta.
III | ||||||||||||||||
142 | Phan | Năm 1860, ông đỗ cử nhân năm 32 tuổi, tính ông trung hậu, có tiết tháo được mọi người kính mến. Khoảng tháng 5-1861, ông chia quân đóng giữ ở phía Nam Biện Kiều tổng Bình Thạnh. Không bao lâu ông bị Pháp bắt và ông không khuất phục, chúng giết ông trong khoảng tháng 7-1861, hy sinh năm 33 tuổi. Triều đình Huế nghe tin, truy tặng ông hàm Tri phủ. | IV | |||||||||||||||
143 | Hồ Huân Nghiệp | Ông nổi tiếng thơ văn, có khí tiết, được sĩ phu trọng vọng, ông dạy học, ngoài 30 tuổi vẫn xem thường công danh.
IV | ||||||||||||||||
144 | Võ Duy Dương | Ông kết nghĩa thâm giao với Trương Định. Khi giặc Pháp xâm lược miền Nam, ông tham gia trong hàng ngũ kháng chiến do Trương Định lãnh đạo.
IV | ||||||||||||||||
145 | Lãnh Binh Thăng | Vào triều Tự Đức, ông đầu quân được thăng đến chức Cai cơ năm 1858, sau đó thăng Lãnh Binh đóng quân ở Gia Định. Năm 1859, Pháp tấn công vào cửa Cần Giờ rồi tiến chiếm Gia Định, ông giữ đồn Thủ Thiêm. Trước hỏa lực địch, ông rút quân về Định Tường để bảo tồn lực lượng.
II | ||||||||||||||||
146 | Phan | Khi Pháp đánh chiếm Gia Định, ông cùng các sĩ phu yêu nước tích cực cổ động nhân dân ủng hộ các nhóm kháng chiến.
III | ||||||||||||||||
147 | Ông Ích Khiêm | Năm 1852, ông đỗ cử nhân, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Ông rất giỏi cầm binh, đã đánh dẹp cuộc nổi loạn chống triều đình của Ngô Côn và bình nhiều cuộc nổi loạn khác.
III | ||||||||||||||||
148 | Nguyễn Khuyến | Năm 1864, ông đỗ Giải nguyên. Năm 1871, ông đỗ Hoàng giáp lúc 36 tuổi. Vì từ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu và là người làng Yên Đỗ (tục gọi làng Và), nên người đời gọi ông là Nghè Và hoặc Tam Nguyên Yên Đỗ.
III | ||||||||||||||||
149 | Tống | Từ năm 1885, ông hưởng ứng phong trào cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, trở thành vị thủ lĩnh kháng chiến tỉnh Thanh Hóa.
IV | ||||||||||||||||
150 | Nguyễn Trung Trực | Năm 1861, hưởng ứng hịch cần Vương chống Pháp, ông chiêu mộ được một số đông nông dân nổi dậy đánh phá các đồn Pháp ở các vùng thuộc phủ Tân An, lập được nhiều chiến công nên được triều đình Huế phong chức Quản cơ. Nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của ông, tổ chức cuộc phục kích đốt tàu chiến của Pháp trưa ngày 10-12-1861 tại Vàm Nhật Tảo. Sau đó, ông tiếp tục chiến đấu qua lại trên địa bàn Gia Định, Biên Hòa. Năm 1862, ông được phong làm Lãnh binh. Năm 1867, ông được triều đình phong chức Hà Tiên thành phủ úy để trấn giữ đất Hà Tiên.
III | ||||||||||||||||
151 | Dương Khuê | Khi Pháp xâm lược, ông dâng sớ lên vua Tự Đức bàn phải chống Pháp. Ông bị giáng làm Chánh sứ Sơn phòng trông coi việc khai hoang, mấy năm sau thăng An sát tỉnh Hải Phòng, sau ông làm Đốc học Nam Định.
IV | ||||||||||||||||
152 | Bùi Viện | Có lòng yêu nước, ông cùng Hoàng Phan Thái, Nguyễn Tư Giản... lập Tân đảng chủ ý khuyến cáo triều đình nên duy tân cải cách chính trị, quân sự, văn hóa... Ông là người xuất ngoại đầu tiên và vận động bang giao với Mỹ.
IV | ||||||||||||||||
153 | Đinh Công Tráng | Thành Ba Đình rộng 400 thước, dài 1200 thước, bao bọc 3 làng Mậu Tịnh, Mỹ Khê, Thượng Thọ. Thành vỡ, ông về Nghệ An và mất trong đêm 5-10-1887. | III | |||||||||||||||
154 | Nguyên Lâm | Năm 1864, ông được Vua Tự Đức gả em gái là Công chúa Đồng Xuân rồi phong làm Phò mã Đô úy. Năm 1872, khi Nguyễn Tri Phương làm Tổng đốc Quân vụ đại thần, ông tự nguyện ra giúp cha chống Pháp. Đến cuối năm 1973, khi Pháp tấn công thành Hà Nội, ông cùng cha chiến đấu, chống trả quyết liệt và đã tử thương ngày 20-11-1873, hy sinh năm 29 tuổi. Ông được triều đình truy tặng Binh bộ Tả thị lang, liệt thờ vào hai điện Trung Nghĩa và Trung Hiếu. | IV | |||||||||||||||
155 | Âu Dương Lân | Pháp sai tên tay sai Trần Bá Lộc vừa đàn áp vừa khuyến dụ nhưng không lay chuyển được tấm lòng yêu nước của ông. Đến khi bị bắt, ông vẫn thản nhiên tỏ vẻ khinh bỉ kẻ phản bội đất nước, ông đã bị tra tấn hành hạ và hy sinh năm 1875. | IV | |||||||||||||||
156 | Phan Đình Phùng | Năm 1885, khi Vua Hàm Nghi ra Tân Sở kháng chiến chống Pháp, ông cùng Tôn Thất Thuyết tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ lâu dài ở vùng núi Hương Sơn - tỉnh Nghệ Tĩnh, lập xưởng chế tạo vũ khí và đã chiến thắng nhiều trận. Pháp và tay sai ra sức đàn áp và dùng nhiều thủ đoạn (bắt thân nhân tra tấn và khai quật mồ mả tổ tiên) nhưng vẫn không làm ông sờn lòng. Sau gần 10 năm kiên cường kháng chiến, ông đã lâm bệnh và mất ngày 28-12-1895 ở núi Quạt. | III | |||||||||||||||
157 | Đào | Năm 1867, ông đỗ cử nhân, làm Tổng đốc Nghệ An, sau làm Hiệp tá Đại học sĩ. Khoảng năm 1902, ông về quê nhà ở ẩn. Ông giỏi văn chương, nổi tiếng thanh liêm, công bình, được hầu hết sĩ phu kính trọng. Ông thích soạn tuồng và là người sáng lập ra bộ môn hát bội ở Bình Định, ông có lập một trường dạy kịch nghệ gọi là Học bộ đình. Năm 1907, ông mất, thọ 62 tuổi. Các tác phẩm của ông gồm tập Mộng mai thi tồn, Mộng mai từ lục... các vở tuồng xuất sắc Quần trân hiếu thoại, Tứ quốc lai vương... | IV | |||||||||||||||
158 | Đinh | Khi Pháp xâm lược nước ta, ông từ quan về quê nhà, vào rừng núi tham gia cùng các lực lượng kháng chiến chống Pháp. Sau ông bị bắt và hy sinh, các sĩ phu và nhân dân thương tiếc. | IV | |||||||||||||||
159 | Trần Xuân Soạn | Năm 1937, ông cùng Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Tạo đắc cử vào Hội đồng Quản hạt của báo La Lutte. Từ khi đắc cử, có tiếng nói công khai trong Hội đồng Quản Hạt, nhóm của ông đã gây được tiếng vang trong sinh hoạt chính trị và báo chí ở Sài Gòn.
IV | ||||||||||||||||
160 | Dương Lâm | Năm 1891, ông về Hà Nội làm chủ bút tờ báo Đồng Văn. Năm 1895, ông làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Sau về triều ông giữ chức Thượng thư Bộ Công kiêm Phó Tổng tài Quốc sử quán, khi triều đình sửa đổi phép học, phép thi, ông được cử đứng đầu Ban Tu thư cùng các ông Đoàn Triển, Đỗ Văn Tâm, Bùi Hướng Thành soạn sách Tân giáo khoa. Lúc về nghỉ hưu ông được tặng Hiệp tá Đại học sĩ và mở trường dạy học ở quê nhà. Ông mất năm 1920, thọ 69 tuổi, được truy tặng tước Khánh Vân Nam. | IV | |||||||||||||||
161 | Lương Văn Can | Năm 1908, ông liên kết với các đồng chí lập ra trường Đông Kinh nghĩa thục, khởi xướng phong trào Duy Tân, các sĩ phu yêu nước và nhân dân tiến bộ nhiệt tình tham gia, thực dân hoảng hốt ra lệnh đóng cửa trường và bắt giam một số người. Đến năm 1914, vụ ném lựu đạn ở Khách sạn Hà Nội, ông bị bắt giam rồi kết án lưu đày ở Nam Vang (Campuchia). Ngày 25-11-1921, ông được trả tự do. Trở về Hà Nội ông vẫn dạy học, mở trường Ôn Như và chuyên tâm soạn sách. Ông mất ngày 13-6-1927, thọ 73 tuổi, sĩ phu đều thương tiếc, có làm thơ tưởng niệm ông đăng trên báo. | IV | |||||||||||||||
162 | Cầm Bá Thước | Ông chủ trương kinh tài bằng cách đem ngọc quế bán, để lấy tiền mua quân lương khí giới. Ông tích cực hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Pháp và hy sinh năm 1895. | IV | |||||||||||||||
163 | Tăng | Sau ông ra nước ngoài làm nghề hàng hải. Năm 1903, ông về nước, năm sau cùng Phan Bội Châu, Đặng Từ Kính sang Nhật Bản tổ chức phong trào Đông Du. Năm 1905, ông đem bài thơ Khuyên thanh niên du học của Phan Bội Châu về truyền bá, cổ động trong nước và đi khắp nơi liên lạc tìm đồng chí.
IV | ||||||||||||||||
164 | Hoàng Hoa Thám | Từ năm 1886, ông trở thành vị lãnh tụ nghĩa quân lập chiến khu ở vùng Yên Thế và địa bàn hoạt động quanh vùng Bắc Giang - Thái Nguyên - Hưng Hóa khiến Pháp kinh hoàng, Pháp phối hợp với Tổng đốc tay sai Lê Hoan một mặt đàn áp một mặt dụ hàng nhưng vẫn không khuất phục được ông. Đến năm 1894, Pháp chấp nhận điều đình và cắt nhượng cho ông 6 tổng gồm 22 làng ở Phồn Xương, để ông lập đồn điền, lập khu tự trị đưa đến giải trừ quân bị.
III | ||||||||||||||||
165 | Mai | Ông là lãnh tụ phong trào Cần vương kháng Pháp ở Bình Định. Tháng 9-1885, ông cùng Đào Doãn Địch phát động cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược và đánh nhiều trận dữ dội. Pháp dùng hai tên tay sai Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc đàn áp nghĩa quân do ông lãnh đạo. Tháng 4-1887, với thủ đoạn dã man, chúng bắt mẹ của ông tra tấn độc ác và tàn sát nhân dân ở quê ông.
IV | ||||||||||||||||
166 | Nguyễn Văn | Khi Pháp xâm lược, ngày 16-12-1883, thành Sơn Tây mất, ông từ quan tập hợp nghĩa quân kháng chiến chống Pháp. Sau ông hợp lực với Nguyễn Quang Bích, được Tôn Thất Thuyết tin dùng bổ làm Tuần phủ Sơn Tây, phân Trung tướng Hiệp đốc quân đại thần.
IV | ||||||||||||||||
167 | Võ Trứ | Sau một thời gian, ông tập hợp tăng sĩ cư dân miền núi (do chí sĩ Trần Cao Vân tham mưu) dấy lên chống Pháp tại các vùng cao tỉnh Phú Yên. Sau khi Trần Cao Vân bị bắt, ông tập hợp lực lượng nghĩa quân hoạt động ở địa bàn Đá Bạc, Sơn Hòa, Động Bà Thiên chuẩn bị để tiến về đồng bằng.
IV | ||||||||||||||||
Đào Nguyên Phổ
| Năm 1898, ông đỗ Đình nguyên (Hoàng giáp). Năm 37 tuổi, làm chức Hàn lâm thừa chỉ. Một năm sau, ông từ quan ra Hà Nội làm báo Đăng cổ tùng báo. Đây là tờ báo đầu tiên viết chữ quốc ngữ ở Hà Nội. Ông là nhà Nho tiếp thu tư tưởng tư sản dân quyền đầu tiên ở nước ta khi ông làm quan ở Huế. Tuy không trực tiếp tham gia nhưng ông đã ủng hộ phong trào Duy tân và tham gia Ban Giảng huấn của Trường Đông Kinh nghĩa thục.
IV | |||||||||||||||||
Chu Mạnh Trinh | Năm 1892, ông đỗ Tiến sĩ được bổ Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, rồi thăng An sát, làm quan ở các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
IV | |||||||||||||||||
170 | Sương Nguyệt Anh | Năm 1918, bà lên Sài Gòn làm chủ bút báo Nữ giới chung (Tiếng chuông nữ giới), tờ báo quy tụ những cây bút có tiếng ở Sài Gòn lúc ấy. Báo chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương, nhất là đề cao vai trò của nữ giới, nhưng đến ngày 17-7-1918 thì tự đình bản. Bà mất năm 1921, bà làm thơ khá nhiều, thơ man mác nỗi buồn về đất nước, cảnh nhân dân sống trong lầm than khổ cực. | III | |||||||||||||||
171 | Tôn | Năm 1886, ông nhận chức Khâm sai Tán lí quân vụ, đóng quân ở vùng cao tỉnh Hà Tĩnh, ông giữ việc liên lạc giữa vua Hàm Nghi và các lực lượng nghĩa quân thuộc khu vực Nghệ-Tĩnh-Bình. Anh em ông lo bảo vệ nhà vua và chỉ huy các cuộc phản công đánh trả quân Pháp trên các trận tuyến thuộc Sơn Phòng, Quảng Bình, Hà Tĩnh. Đêm 01-11-1888, nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, em ông hy sinh, ông tự vẫn ngày 15-11-1888 (22 tuổi). | IV | |||||||||||||||
172 | Phan | Từ sau khi thi đỗ, ông càng dốc tâm trí lo việc cứu nước, giao kết với các chí sĩ khắp nơi. Năm 1904, ông vận động thành lập hội Duy Tân. Năm sau, ông cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi Nhật Bản gây dựng phong trào Đông Du. Năm 1911, ông trở lại Trung Quốc thành lập Hội Việt Nam Quang phục và Hội Chấn Hoa Hưng Á. Ông bị bắt giam ở Quảng Châu. Sau khi được trả tự do, ông càng tích cực hoạt động. Năm 1922, cải tổ Hội Việt Nam Quang Phục thành Đảng Việt Nam Quốc dân. Thơ văn của ông phổ biến sâu rộng trong quần chúng. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm văn học yêu nước, đóng góp phong phú cho nền văn học Việt Nam gồm: Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Lưu cầu huyết lệ tân thư, Việt vong thảm trạng. | II | |||||||||||||||
173 | Trần Chánh Chiếu | Ông xuất thân trong một gia đình giàu có. Thuở nhỏ ông lên Sài Gòn học Trường Trung học Pháp, tốt nghiệp ông về Rạch Giá làm giáo học, rồi làm thông ngôn cho Tham biện Rạch Giá. Năm 1900, ông lên Sài Gòn làm báo, tham gia các tổ chức yêu nước, phong trào Đông Du, Duy Tân ở Nam Kỳ, có lần ông sang Nhật Bản gặp Phan Bội Châu và các đồng chí khác. Ông là một nhà chính trị, yêu nước, kinh tài, mà còn là nhà văn, nhà báo nổi tiếng có công đầu đối với báo chí, văn học Việt Nam, ông đã vận dụng ngòi bút của mình vào con đường duy tân cứu nước. Các tác phẩm của ông: Hương Cảng nhân vật, Tiền căn hậu báo... | III | |||||||||||||||
174 | Nguyễn Thượng Hiền | Năm 1907, ông từ quan sang Nhật hưởng ứng phong trào Đông Du, cùng Phan Bội Châu lo việc cứu nước. Khoảng năm 1915, ông sang Thái Lan liên lạc với công sứ Đức và Áo bàn kế hoạch hợp tác đánh Pháp nhưng không thành và gặp nhiều chuyện đau xót. Ông sang Trung Quốc rồi vào tu ở chùa Thường Tịch Quang ở Hàng Châu. Ông mất ngày 28-12-1925. Ông không chỉ đóng góp về mặt chính trị, trong văn học ông cũng có nhiều tác phẩm có giá trị như: bộ Nam chi tập, Mai Sơn ngâm tập... và hơn 600 bài thơ. | IV | |||||||||||||||
175 | Trần | Năm 1904, ông đỗ Tiến sĩ thứ nhất, bổ làm Giáo thụ Thăng Bình, rồi sang dạy ở Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa). Ông nhiệt thành yêu nước, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Đông Du và tích cực hoạt động Duy Tân, nâng cao dân trí, dân sinh, nên rất được các sĩ phu kính trọng. Năm 1905, ông cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng làm bài thơ “Chí thành thông thánh” và bài phú “Danh sơn lương ngọc ” khơi dậy lòng yêu nước trong giới trí thức, ảnh hưởng lan rộng khiến giới trí thức cả nước quan tâm.
IV | ||||||||||||||||
176 | Trần Tế Xương (Tú Xương) | Ông rất nổi tiếng trong lĩnh vực văn học, nhất là về thơ trào phúng. Thơ ông có sắc thái rất độc đáo và được lưu truyền nhiều. Nhà nghèo, sống đạm bạc, bình dị nhưng ông có lòng yêu nước nồng nàn. Ngoài lối thơ trào phúng, ông có nhiều bài thơ chứa chan lòng yêu nước như: Bài thơ tỏ niềm thương nhớ Phan Bội Châu, Sông Lấp Nam Định...
III | ||||||||||||||||
177 | Phan | Ông nhiệt thành yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1905, ông từ quan cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng vào Nam để tìm bạn đồng tâm và xem xét tình hình. Năm 1906, ông bí mật đi Nhật gặp Phan Bội Châu trao đổi ý kiến. Ở Nhật về, ông tích cực hoạt động với chủ trương: thức tỉnh lòng dân, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền, đường lối cứu nước của ông là dựa vào lý tưởng cách mạng Pháp để tiến hành cải cách. Năm 1925, ông trở về nước, lâm bệnh và mất ngày 24-03-1926 (54 tuổi). | II | |||||||||||||||
178 | Phan Kế Bính | Ông viết báo từ năm 1907, phụ trách phần chữ Hán trong Đăng Cổ Tùng báo và cộng tác với các báo như: Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn... Ông mất năm 1921 (46 tuổi). Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Nam Hải dị nhân, Việt Nam phong tục... ông cũng là dịch giả: Tam quốc chí, Đại Nam Điển lễ toát yếu... | IV | |||||||||||||||
179 | Huỳnh Thúc Kháng | Năm 1926, ông được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, sau từ chức, sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Tiếng Dân đến năm 1943. Ông mất ngày 21-4-1947 tại Quảng Ngãi (thọ 71 tuổi). | III | |||||||||||||||
180 | Ngô Đức Kế | Năm 1922, ông làm báo Hữu Thanh ở Hà Nội và nhiệt tình hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Thơ văn ông nồng nàn yêu nước, ông cũng xuất bản những loại sách có tư tưởng tiến bộ, các tác phẩm Phan Tây Hồ di thảo, Đông Tây vĩ nhân...
IV | ||||||||||||||||
181 | Thái Phiên | Thuở nhỏ ông học chữ Hán, sau theo Tây học. Năm 1903, ông tham gia phong trào Duy Tân, Đông Du với Phan Bội Châu. Năm 1908, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ ông đã thoát trong trận khủng bố của Pháp.
III | ||||||||||||||||
182 | Dương Bá Trạc | Năm 1904, ông cùng Phan Châu Trinh vào mật khu Yên Thế bàn việc nước với Hoàng Hoa Thám, sau đó cùng các đồng chí đảm nhiệm giảng dạy ở Trường Đông Kinh nghĩa thục (Hà Nội). Năm 1908, ông bị giặc Pháp bắt và bị kết án 15 năm biệt xứ đày ra Côn Đảo.
IV | ||||||||||||||||
183 | Hồ Biểu Chánh | Sau khi rời khỏi quan trường, ông sống với nghiệp văn đến cuối đời. Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lại hơn 100 cuốn tiểu thuyết và các thể loại khác như nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bản dịch văn học cổ điển Trung Quốc như: Tình sử, Kim cổ kỳ quan... Ông mất ngày 4-11-1958, thọ 74 tuổi. | IV | |||||||||||||||
184 | Phan Khôi | Năm 1906, ông ra Hà Nội học Pháp văn, lúc này phong trào Duy Tân bị khủng bố, ông bị bắt và đưa về giam ở nhà lao Hội An (Quảng Nam), đến năm 1911 mới được trả tự do. Sau ông tham gia vào làng báo làng văn Việt Nam và trở nên nổi tiếng trong văn đàn với phong cách nói thẳng.
IV | ||||||||||||||||
185 | Trần | Năm 1912, ông lập gia đình, sống ở Sài Gòn với nghề báo, nghề văn. Ông là người chịu ảnh hưởng Học thuyết Duy vật sớm nhất Việt Nam, xuất bản nhiều sách biên khảo về chính tri, xã hội và dịch giả nhiều sách về Chủ nghĩa Dân quyền của các học giả Trung Quốc. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng lớn trong giới học thuật lúc bấy giờ. Năm 1928, ông bị bắt giam tại Khám lớn Sài Gòn, bị kết án 18 tháng tù.
IV | ||||||||||||||||
186 | Tản Đà | Ông sáng tác văn chương, làm thơ, soạn kịch, làm báo, xuất bản sách. Ông là chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí sau vào Nam ông viết cho tờ Đông Pháp thời báo rồi viết bài ở Tạp chí Phật học Tiếng chuông sớm. Cuộc sống của ông có lúc rất khó khăn. Ông mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng xem lý số Hà Lạc...
III | ||||||||||||||||
187 | Huỳnh Khương Ninh | Tốt nghiệp bằng Thành chung, ông không hợp tác với Pháp và đã mở trường tư mang tên ông, trường nổi tiếng với các nhà giáo có tên tuổi như: Lê Bá Cang, Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng, Phạm Văn Đồng... Trường Huỳnh Khương Ninh là một trường tư thục nổi tiếng và có uy tín ở Sài Gòn trong những năm mất nước, vì trường có một ban giáo huấn có lương tâm, có tâm hồn yêu nước và cũng là trung tâm của giáo chức yêu nước Sài Gòn trước đây. Cuối năm 1945, Pháp ra lệnh đóng cửa trường. Đến năm 1947, trường mới được mở lại và ông vẫn làm hiệu trưởng. Trường đã đào tạo nhiều thanh niên yêu nước. Ông mất ngày 20-4-1950, thọ 60 tuổi. | IV | |||||||||||||||
188 | Lương Ngọc Quyến | Năm 1905, ông sang Nhật. Năm sau, ông được Phan Bội Châu đưa vào học ở Chấn Võ học hiệu. Tháng 12-1915, ông bị đế quốc Anh bắt giao cho Pháp, ông bị đưa về nước và kết án khổ sai chung thân, giam tại khám Thái Nguyên. Trong nhà giam, ông bị hành hạ tàn nhẫn nhưng ông vẫn tuyên truyền, kết nạp được một số binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp là Đội Cấn sẵn sàng làm nội ứng. Đêm 30 rạng 31-8-1917, binh sĩ gồm 300 người do Đội Cấn chỉ huy phát động cuộc khởi nghĩa, Lương Ngọc Quyến được cử làm cố vấn kiêm Phó Tư lệnh.
IV | ||||||||||||||||
189 | Nguyễn An Khương | Những năm 1900-1910, ông thường viết báo, dịch sách, các tác phẩm dịch thuật của ông có: Tam quốc chí, Chinh Đông... | IV | |||||||||||||||
190 | Cao Văn Lầu | Cách mạng Tháng Tám thành công, ông tham gia công tác Mặt trận Liên Việt ở xã Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1947, ông được chính quyền tỉnh Bạc Liêu giao cho công tác đặc biệt, cứu một số cán bộ bị bắt, ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ông mất năm 1976, thọ 84 tuổi. | IV | |||||||||||||||
191 | Nguyễn Phan Chánh | Ông nhiệt thành yêu nước, tích cực phụng vụ nhân dân và Tổ quốc, được giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Nguyên Đại biểu Quốc hội khóa III, Ủy viên Ban Chấp hành Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, giảng viên Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội... Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý. Ông mất ngày 22-11-1984, thọ 92 tuổi. | IV | |||||||||||||||
192 | Ngô Tất Tố | Ông nhiệt thành yêu nước, tham gia cách mạng và tích cực hoạt động, ông có nhiều cống hiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông mất năm 1954, thọ 60 tuổi, ông để lại các tác phẩm nổi tiếng như: Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng... | IV | |||||||||||||||
193 | Võ Văn Tần | Năm 1924-1925, ông tham gia “Hội kín Nguyễn An Ninh”. Năm 1926, ông gia nhập “Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội”. Cuối năm 1929, ông chuyển sang An Nam Cộng sản Đảng và được cử làm Bí thư Chi bộ đầu tiên ở Đức Hòa. Ngày 4-6-1930, ông trực tiếp chỉ đạo cuộc biểu tình của nông dân xã Tân Phú tại huyện Đức Hòa. Thực dân Pháp khủng bố và kết án tử hình vắng mặt ông. Năm 1932, ông làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Định. Năm 1937, ông được cử làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ và sau được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
IV | ||||||||||||||||
194 | Lê Hồng Phong | Năm 1925, ông được Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) huấn luyện trở thành người học trò xuất sắc của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông vào học Trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Quốc, rồi sang Liên Xô học Trường Đại học Phương Đông. Cuối năm 1934, ông sang Liên Xô tham gia Đại hội Quốc tế Cộng sản làn thứ VII cùng Nguyễn Thị Minh Khai (được ban lãnh đạo Đảng tổ chức hôn lễ) và Hoàng Văn Nọn. Giữa năm 1938, ông bị Pháp bắt, kết án 10 tháng tù và bị quản thúc ở quê nhà nhưng ông tích cực hoạt động. Đến ngày 29-9, ông bị bắt lần thứ hai, giam ở Khám Lớn Sài Gòn, rồi bị kết án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo. Ông bị hành hạ, tra tấn, bị bệnh và kiệt sức, ông mất ngày 6-9-1942 (40 tuổi). | II | |||||||||||||||
195 | Phạm Hồng Thái | Năm 1924, ông được nhóm chỉ định cùng Lê Hồng Sơn thi hành việc ám sát Martial Merlin - Toàn quyền Đông Dương. Dù biết khó khăn nguy hiểm có thể phải hy sinh nhưng ông vẫn quyết tâm thực hiện. Đêm 18-6-1924, việc ám sát không thành công, ông đã hy sinh năm 28 tuổi. | III | |||||||||||||||
196 | Hồ Tùng Mậu | Đến năm 1925, qua nhiều lần tiếp xúc với Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc), ông trở thành một cán bộ xuất sắc trong tổ chức “Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội”. Tháng 03-1926, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông và Lê Hồng Sơn bị chế độ Tưởng Giới Thạch bắt giam nhiều lần. Tháng 11-1929, ông bị buộc rời Hương Cảng. Ngày 26-6-1931, ông bị bắt ở Thượng Hải, kết án tù khổ sai chung thân, ông bị đưa về nước. Sau thời gian giam giữ ở các nhà tù Hỏa Lò, Vinh..., đến tháng 03-1943, ông vượt nhà giam về hoạt động ở Trung Bộ.
III | ||||||||||||||||
197 | Đặng Thái Thuyên | Khoảng năm 1919-1920, ông dự định xuất dương làm cách mạng nhưng đến năm 1926, sau khi vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, ông được chọn đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) tham dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc hướng dẫn. Sau lớp tập huấn, ông được cử về hoạt động ở Thái Lan.
IV | ||||||||||||||||
198 | Thích Quảng Đức | Năm lên 7 tuổi, ông vào tu ở chùa của Hòa thượng Hoằng Thâm (là cậu của ông). Năm 15 tuổi thọ Sa di, 20 tuổi thọ Tì kheo, có pháp danh là Thị Thủy, Pháp tự là Hành Pháp, hiệu là Thích Quảng Đức. Năm 1943, ông vào miền Nam hóa đạo khắp các tỉnh: Sài Gòn, Định Tường, Hà Tiên... và sang Campuchia nghiên cứu kinh điển Pali hơn 3 năm. Trong thời gian hành đạo, ông đã có công xây dựng và trùng tu hơn 31 cảnh chùa.
IV | ||||||||||||||||
199 | Sư Thiện Chiếu | Năm 1926, ông trụ trì chùa Linh Sơn. Năm 1936, ông về Rạch Giá thành lập Hội Phật học Kiêm Tế, ra Tạp chí Tiến Hóa hô hào cải cách Phật giáo, mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho con em lao động. Năm 1942, ông bị bắt và lưu đày ra Côn Đảo. Đến năm 1945, ông được trả tự do.
IV | ||||||||||||||||
200 | Lê Văn Phan | Năm 1923, ông cùng Hồ Tùng Mậu và một nhóm thanh niên cấp tiến thành lập Tâm Tâm xã, chủ trương bạo động cứu quốc và cùng hợp tác với Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong. Năm 1928, ông bị Tưởng Giới Thạch trục xuất khỏi Hương Cảng do hoạt động cách mạng. Đến năm 1930, ông và Hồ Tùng Mậu góp phần tích cực trong việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương.
IV | ||||||||||||||||
201 | Cao | Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm Hiệu trưởng Trường Trung học Nguyễn Xuân On ở Nghệ An. Từ năm 1949-1959, ông phụ trách giảng dạy Triết học cổ đại Phương Đông trong các trường ở vùng kháng chiến và các trường đại học ở Hà Nội. Năm 1958, ông được phong chức Giáo sư, Trưởng ban Hán học, Trưởng ban Văn học cổ đại Việt Nam ... Ông mất năm 1983. Ông để lại giáo trình đại học xuất sắc về: Kinh dịch, Luận Ngữ... | IV | |||||||||||||||
202 | Trần | Tháng 6-1927, ông bị bắt vì tham gia tổ chức yêu nước. Năm 1928, ông thành lập Cường học thư xã chuyên xuất bản sách cổ vũ tinh thần yêu nước, nâng cao dân trí; cũng trong năm này, ông gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng và tổ chức Đảng bộ trong Nam. Ông bị bắt vào khoảng tháng 8-1928, bị kết án 5 năm và bị đày ra Côn Đảo. Trong nhà giam, ông tiếp thu Chủ nghĩa Cộng sản và tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người Cộng sản. Năm 1935, ông được tự do. Năm 1936, ông ra Bắc và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tích cực hoạt động đến tháng 10-1939, ông bị bắt đưa đi đày ở Sơn La, Bá Vân. Tháng 03-1945, ông tham gia phá trại giam Nghĩa Lộ, trở về Hà Nội tiếp tục công tác.
III | ||||||||||||||||
203 | Nguyễn Thái | Năm 1927, ông thành lập Đảng Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Quốc dân Đảng) và ông được bầu làm Đảng trưởng, chủ trương của Đảng là dùng bạo lực để giành lại quyền độc lập dân tộc. Năm 1929, ông lui vào hoạt động bí mật và chủ trương khởi nghĩa. Vào ngày 10-02-1930, ông tổ chức cuộc khởi nghĩa bằng cách tấn công vào các cơ sở quân sự của Pháp ở một số nơi như: Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An... nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại. Ngày 20-02-1930, ông cùng một số đồng chí bị bắt và đến ngày 17-6-1930, ông bị đưa lên máy chém ở Yên Bái. Ông hy sinh năm 29 tuổi. | III | |||||||||||||||
204 | Châu | Ông sớm giác ngộ cách mạng và nhiệt thành yêu nước. Năm 1926, ông vận động đồng bào địa phương và học sinh Long Xuyên làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh. Ông được kết nạp vào Ban Thường vụ Kỳ bộ Việt Nam Cách mạng đồng chí Hội Nam Kỳ. Ông thôi dạy học, dốc hết tâm lực phụng sự cách mạng. Tháng 6-1929, ông được cử làm Đại biểu Kỳ bộ Nam Kỳ đi dự đại hội ở Hương Cảng, về nước với nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội để thành lập Đảng Cộng sản (do đó An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở miền Nam).
III | ||||||||||||||||
205 | Hà Huy Tập | Năm 1927, ông vào Nam, dạy học ở An Nam học đường ở Sài Gòn và cùng các đồng chí Nguyễn Đình Kiên, Đào Xuân Mai... hoạt động phát triển tổ chức Tân Việt. Tháng 12-1928, ông cùng một số đồng chí sang Quảng Châu liên lạc với Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội và được giới thiệu sang học Trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô với bí danh Suixkine.
III | ||||||||||||||||
206 | Phan Đăng | Tốt nghiệp, ông làm việc tại Sở Nuôi tằm Vĩnh Phú. Cuối năm 1925, ông đổi về Diễn Châu (Nghệ An). Tại đây, ông gặp các nhà yêu nước như: Trần Phú, Trần Văn Tăng và tiếp cận báo Người cùng khổ và các sách khác của Nguyễn Ái Quốc. Chính quyền địa phương tình nghi ông bị đổi vào Bình Định, Đà Lạt... Năm 1940, ông phụ trách Xứ ủy Nam Kỳ. Chuẩn bị Khởi nghĩa Nam Kỳ, ông được cử ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương Đảng. Khi về Sài Gòn, ông bị mật thám bắt ngày 22-11-1940. Sau cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Pháp xử bắn ông cùng một số đồng chí tại Hóc Môn. Ông hy sinh ngày 28-8-1941 (39 tuổi). | II | |||||||||||||||
207 | Đặng Thai Mai | Ông tham gia “Đảng Tân Việt” của Lê Văn Huân và bị bắt. Sau khi được trả tự do, ông về sinh sống và dạy học ở Hà Nội. Năm 1936, ông là hội viên hội “Truyền bá Quốc ngữ” và được Đảng Cộng sản Đông Dương giới thiệu ứng cử vào Viện Dân biểu Trung kỳ. Ông bắt đầu nghiên cứu Chủ nghĩa Mác- Lênin, viết báo bằng tiếng Việt và tiếng Pháp với tư tưởng tiến bộ, cách mạng công khai ở Hà Nội.
III | ||||||||||||||||
208 | Vũ Ngọc Phan | Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông nhiệt tình tham gia công tác văn hóa kháng chiến và ông giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến khu Đống Đa - Hà Nội, Ủy viên Thường trực Đoàn Văn hóa kháng chiến Liên khu IV, Ủy viên Chấp hành Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Các tác phẩm của ông: Trên đường nghệ thuật; Tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam và một số truyện dịch... Ông mất ngày 14-6-1987, thọ 85 tuổi và được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý. | IV | |||||||||||||||
209 | Nguyễn Nghiêm | Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ, ở Quảng Ngãi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông, cuộc khởi nghĩa phát đi từ làng Tân Hội và cả gia đình ông tham gia chỉ đạo phong trào. Nhân dân kéo đến chiếm huyện đường Đức Phổ, bắt các người có nợ máu với nhân dân, biểu tình trấn áp chính quyền tại các làng tổng trong huyện. Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa.
IV | ||||||||||||||||
210 | Lương Khánh Thiện | Năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 1-5-1930, sau cuộc biểu tình, ông bị bắt, bị kết án khổ sai chung thân và bị đày ra Côn Đảo. Đến năm 1936, ông được trả tự do và vẫn một lòng phục vụ cách mạng.
IV | ||||||||||||||||
211 | Nguyên Công Hoan | Ông đã trải qua nhiều chức vụ như: Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam... Ông mất ngày 6-6-1977, được Đảng và nhà nước CHXHCH Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến thắng, Huân chương Lao động hạng Nhất. Qua 50 năm sáng tác, ông để lại hơn 200 truyện ngắn và 30 truyện dài; nhiều bút ký, hồi ký; nhiều tiểu luận về ngôn ngữ, văn học; các tác phẩm nổi tiếng như: Bước đường cùng; Kép Tư Bền, Đời viết văn của tôi... | IV | |||||||||||||||
212 | Phạm Hữu Chí | Năm 1935, ông từ chối nhập quốc tịch Pháp để được dự thi tuyển 3 Y Viện trưởng cho Trường Đại học Y khoa Pháp. Cảm phục trước tinh thần dân tộc cao cả đó, Giáo sư người Pháp đã can thiệp để ông được tham dự, ông đỗ thủ khoa và làm giảng viên của tất cả các y sĩ Pháp nổi tiếng tại bệnh viện C.Bernard. Sau đó, ông về nước hợp tác cùng bác sĩ Đặng Vũ Lạc mở Bệnh viện Henri Copprin tại Hà Nội, ông tận tâm làm việc, hết lòng cứu chữa bệnh nhân. Ông lâm bệnh và mất ngày 25-02-1938 (33 tuổi). | IV | |||||||||||||||
213 | Tống | Ngày 15-1-1930, chúng đưa ông và một số đồng chí ra tòa án xét xử. Ông khẳng khái lên án thực dân đế quốc cướp nước tàn bạo, sau ông bị đưa ra Côn Đảo. Năm 1943, ông cùng một số đồng chí vượt nhà giam về đất liền tiếp tục hoạt động. Ít lâu sau, ông lại bị bắt và bị tra tấn rất tàn nhẫn. Ông hy sinh năm 1935 (30 tuổi). | IV | |||||||||||||||
214 | Tô Ngọc Vân | Từ năm 1935-1940, ông dạy ở Trường Trung học PnomPenh và Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Sau năm 1945, ông tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp, phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc. Ông hy sinh ngày 17-6-1954 (48 tuổi). Ông được xem là người có công đầu trong chất liệu sơ dầu ở Việt Nam. Tranh của ông được triển lãm ở Sài Gòn, Hà Nội vào những năm 1930-1836. Vào khoảng năm 1959, ông tham gia triển lãm ở Ba Lan, Liên Xô, Hung-ga-ri, Ru-ma-ni. | IV | |||||||||||||||
215 | Hoàng Văn Thụ | Đến năm 1932, khi được tiếp xúc với Lê Hồng Phong, ông trở thành một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, vừa là người lãnh đạo Đảng bộ địa phương, vừa là cán bộ giúp việc tích cực của Ban Lãnh đạo Đảng nước ngoài. Tháng 11-1940, ông được vào Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng và nhận nhiệm vụ chỉ đạo phong trào Bắc Sơn - Vũ Nhai, sau ông được cử vào Tổng bộ Việt Minh lâm thời.
II | ||||||||||||||||
216 | Nguyễn Đức Cảnh | Tháng 9-1927, ông được Việt Nam Quốc dân Đảng cử đi Trung Quốc gặp Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội để thống nhất hành động chống Pháp. Ông đã gặp Nguyễn Ái Quốc và chuyển hướng hoạt động. Năm 1929, ông là người thành lập Tổng Công hội Bắc Kỳ. Ngày 03-02-1930, ông tham gia thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, là Đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng.
III | ||||||||||||||||
217 | Ngô Gia Tự | Cuối năm 1928, ông vào Sài Gòn hoạt động, là một công nhân ở bến cảng, tuyên truyền giáo dục, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh. Khoảng năm 1929, ông ra Hà Nội dự phiên họp thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại số nhà 5D, phố Hàm Long, rồi ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương ở Nam Kỳ.
III | ||||||||||||||||
218 | Lê Công Kiều | Địa bàn hoạt động của ông và nghĩa quân trải rộng từ Mỹ Tho đến Tân An. Năm 1862, khi Định Tường (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) thất thủ, ông rút về lập chiến khu ở Đồng Tháp Mười và lập căn cứ ở vùng Mỹ Quý (thuộc tỉnh Đồng Tháp).
IV | ||||||||||||||||
219 | N’Trang Lơng |
III | ||||||||||||||||
220 | Kha Vạn Cân | Năm sau, ông cùng với Bộ Thuộc địa Pháp về Việt Nam nghiên cứu hệ thống đường sắt Đông Dương. Từ năm 1940, ông ở lại Sài Gòn làm Giám đốc hãng Luyện thép và Cơ học, rồi mở hãng Luyện thép tư nhân lớn nhất Đông Dương ở Chợ Quán. Tại Sài Gòn, ông là thành viên sáng lập Thanh niên Tiền phong, làm thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong ở Chợ Lớn. Trong những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến (23-9-1945), ông làm Chủ tịch Ban Hậu cần cho các lực lượng kháng chiến, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, phụ trách kinh tế từ năm 1946-1954.
IV | ||||||||||||||||
221 | Hoài Thanh | Các tác phẩm của ông: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến, Phê bình và tiểu luận tập I, II, Tuyển tập Hoài Thanh l, II
IV | ||||||||||||||||
222 | Phạm Ngọc Thạch | Ngày 23-9-1945, cuộc kháng chiến bùng nổ, ông là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính khu Sài Gòn - Gia Định. Ông là một bác sĩ y khoa xuất sắc, tích cực hoạt động ở cương vị Bộ trưởng Y tế, đã có nhiều cống hiến cho nền y học nước nhà, đặc biệt là trong việc chống bệnh sốt rét.
II | ||||||||||||||||
223 | Đặng Văn Ngữ | Đến năm 1945, ông về nước phục vụ kháng chiến, ông chế ra nước lọc pê-ni-xi-lin, nghiên cứu kế hoạch tiêu diệt bệnh sốt rét... Ngày 08-02-1960, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và ông càng hăng say phục vụ Tổ quốc. Ông lên tận Vĩnh Linh và trên dải Trường Sơn - những nơi có bệnh sốt rét để nghiên cứu và chế thuốc điều trị cho các chiến sĩ đang chiến đấu ở chiến trường. Ông hy sinh tháng 4-1967 (57 tuổi) ở Vĩnh Linh. Ông được phong là Anh hùng Lao động trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. | IV | |||||||||||||||
224 | Nguyễn Thị | Đến năm 1930, bà sang Trung Quốc làm việc ở Văn phòng Đông Phương Bộ Quốc tế Cộng sản. Năm 1931, bà bị mật thám Pháp bắt ở Hồng Kông. Năm 1934, bà mới được trả tự do, trong năm này bà được cử làm đại biểu chính thức đi dự Đại hội làn thứ VII của Quốc tế Cộng sản tại Mạc Tư Khoa.
II | ||||||||||||||||
225 | Phan Ngọc Hiển | Năm 1931, ông dạy ở Rạch Gốc, xã Tân An ở Mũi Cà Mau (nay thuộc tỉnh Cà Mau). Ở đây, ông hết lòng giáo dục học sinh và nhân dân trong vùng về tinh thần yêu nước, đấu tranh chống áp bức bóc lột, nhất là sau khi tiếp xúc với các chiến sĩ cộng sản. | III | |||||||||||||||
|
| Ông đã góp nhiều công sức cho Chi bộ Đảng ở Cà Mau, gây dựng được nhiều cơ sở cách mạng vững mạnh. Cuộc Khởi nghĩa Hòn Khoai do ông chỉ huy trong đêm 13 rạng ngày 14-12-1940, giết tên chủ đảo là Olivier và làm chủ hoàn toàn trong đêm ấy. Sau ông và các đồng chí rút về Rạch Gốc. Đến cuối tháng 12 thì ông bị bắt. Tháng 01-1941, ông bị Pháp kết án tử hình, ông hy sinh năm 31 tuổi. |
| |||||||||||||||
226 | Lê Văn | Sau khi từ Côn Đảo về, ông hoạt động ở miền Nam trong Xứ ủy Nam Bộ. Đầu tháng 12-1945, ông được chỉ định làm Chính ủy khu 8. Khi Pháp chiếm thị xã Sa Đéc, ông cùng lực lượng vũ trang xuống Khu 9. Cuối năm 1946, ông ra miền Trung, rồi Hà Nội. Đến năm 1947, ông vào Nam cùng Lê Duẩn. Khoảng tháng 5, ông được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn.
III | ||||||||||||||||
227 | Huỳnh Khương An | Ông nhiệt tình yêu nước, có lý tưởng phụng sự cách mạng. Trong thời gian học tập, ông đã tiếp xúc với phong trào cộng sản và công nhân Pháp. Ông gia nhập tổ chức sinh viên cộng sản, ông tích cực hoạt động và là cán bộ có uy tín, được bầu làm Bí thư của Thanh niên Cộng sản Lyon. Cuối năm 1938, ông về sống ở Paris và tiếp tục thi học Thạc sĩ.
IV | ||||||||||||||||
228 | Tôn Thất Tùng | Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được cử làm Giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn, Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm cố vấn phẫu thuật ngành Quân y ở Bộ Quốc phòng. Năm 1947, ông làm Thứ trưởng Bộ Y tế. Từ năm 1954, ông được giao nhiều chức vụ như: Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, giáo sư tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội, Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Liên Xô... Do những cống hiến trong lĩnh vực Y học, ông được Chính phủ Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương cao quý. Ông là giáo sư Y khoa nổi tiếng về gan và giải phẫu gan, ông đã đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ và giáo sư Y khoa cho nước nhà. Ông mất ngày 7-5-1982, thọ 70 tuổi. | IV | |||||||||||||||
229 | Trần Đại Nghĩa | Từ năm 1935 - 1946, ông ở Pháp, ông thi đỗ vào Trường Đại học Quốc gia Cầu - Đường - một trường lớn của Pháp và Bộ Thuộc địa phải cấp học bổng cho ông. Sau đó, ông còn theo học các Trường Đại học Điện, Mỏ, Bách Khoa và Học viện Kỹ thuật Hàng không. Ông đỗ nhiều bằng kỹ sư, đồng thời thi lấy nhiều chứng chỉ về khoa học cơ bản ở Trường Đại học Tổng hợp Xoóc-bon. Suốt 11 năm ở Pháp, ông chỉ theo đuổi một mục tiêu duy nhất là học cho kỳ được cách chế tạo vũ khí của phương Tây. Ông lặng lẽ tìm kiếm các bí mật quân sự, các bản thiết kế, tài liệu về vũ khí hầu hết là tài liệu mật và ông đã tự học một cách âm thầm và bí mật. Sau thắng lợi của Chiến dịch Thu - Đông 1947, ông đã là thiếu tướng và cũng là trí thức Việt Nam đầu tiên được tặng danh hiệu Anh hùng (1953) và ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. | III | |||||||||||||||
230 | Tô Hiệu | Năm 1929, ông vào Sài Gòn hoạt động cùng anh ruột là Tô Chấn trong Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1930, ông bị bắt và bị đày ra Côn Đảo. Ở đây, ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đến năm 1934, ông được trả tự do về hoạt động ở Hà Nội. Năm 1938, ông phụ trách các tỉnh duyên hải Bắc Kỳ và là Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Đến tháng 12-1939, ông bị bắt và bị đày lên Sơn La. Ông bị tra tấn nhiều cực hình, bị bệnh và mất ngày 7-03-1944 (32 tuổi). | IV | |||||||||||||||
231 | Lý Tự Trọng | Năm 1929, ông về nước với nhiệm vụ thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản và làm giao liên cho Xứ ủy Nam Kỳ với Trung ương Đảng, đặt trụ sở tại Sài Gòn. Ngày 9-2-1931, trong buổi mit-tinh kỷ niệm ngày bạo động Yên Bái tổ chức tại Sài Gòn, ông bắn chết thanh tra mật thám Legrand và ông đã bị bắt. Trong nhà giam, ông nêu cao khí tiết cách mạng, anh dũng bất khuất trước những tra tấn cực hình và cám dỗ của Pháp, thực dân kết án tử hình. Ông hy sinh năm 18 tuổi. | II | |||||||||||||||
232 | Trần Quốc Thảo | Năm 1936, ông tham gia Mặt trận Dân chủ tại Quảng Trị, góp sức trong việc khôi phục Đảng bộ Cộng sản Đông Dương tỉnh Quảng Trị. Tháng 6-1937, ông được cử vào Tỉnh ủy. Đến cuối năm 1938, ông phụ trách công tác Tuyên huấn Xứ ủy. Năm 1940, tham gia Ban Thường vụ Xứ ủy Trung Kỳ. Năm sau, khi đi dự hội nghị Trung ương Đảng ở Cao Bằng về, ông bị bắt. Ông bị kết án 20 năm khổ sai tại nhà lao Ban Mê Thuột. Đến ngày 9-03-1945, ông trở về tiếp tục hoạt động cách mạng ở quê nhà.
III | ||||||||||||||||
233 | Thái | Nhưng khi về nước, ông sớm giác ngộ cách mạng và đã quyết đứng vào hàng hàng ngũ những người yêu nước. Tháng 03-1945, ông cùng các ông Mai Văn Bộ, Phạm Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Thủ được Xứ ủy Nam Kỳ giao nhiệm vụ tổ chức Thanh niên Tiền phong Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 23-9-1940, Khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, ông bị Pháp bắt và tra tấn dã man nhưng ông cương quyết không để lộ tên tuổi và địa vị xã hội. Ít lâu sau, ông được trả tự do.
IV | ||||||||||||||||
234 | Nam Cao | Năm 1943, ông tham gia vào Hội Văn hóa cứu quốc. Năm 1946, ông theo đoàn quân vào miền Nam Trung Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm công tác tuyên truyền, báo chí và văn nghệ ở Việt Bắc. Tác phẩm của ông để lại như: Chí Phèo, Sống mòn, Truyện biên giới, Đôi mắt...
IV | ||||||||||||||||
235 | Hồ Văn Huê | Cách mạng Tháng Tám thành công, ông cùng lực lượng công nhân Quản Lợi thành lập chính quyền và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Sở Cao su. Kháng chiến bùng nổ, ông vào chiến khu Đ phục vụ quân đội, ông được phong hàm Đại tá Quân y. Sau đó, ông giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Y tế Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, Phó Cục trưởng Cục Hậu cần Miền, Trưởng phòng Quân y Miền...
IV | ||||||||||||||||
236 | Lương Định | Từ năm 1954, ông tập kết ra Bắc và tận tụy làm việc, được Chính phủ và Quốc hội tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lao động. Đến năm 1967, trong lần đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua lần thứ tư, ông được biểu dương công trạng và thành tích của người trí thức yêu nước.
IV | ||||||||||||||||
237 | Phạm Ngọc Thảo | Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, ông ở lại miền Nam dạy học tại các trường tư thục ở Sài Gòn. Ông bị mật vụ của Pháp vây bắt, sau ông về dạy học tại thị xã Vĩnh Long. Ông được Giám mục Ngô Đình Thục giới thiệu với anh em ông Diệm, ông cùng gia đình lên sống ở Sài Gòn. Đầu năm 1956, ông làm việc ở Ngân hàng Quốc gia Sài Gòn, sau ông giữ cấp bậc “Đại úy đồng hóa” trong quân đội Sài Gòn. Từ đó ông được giữ nhiều chức vụ như: Tỉnh đoàn trưởng Bảo an Vĩnh Long, Chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương, sau khi dự những lớp chỉ huy, tham mưu quân sự trong và ngoài nước ông được thăng Thiếu tá, làm việc tại Phủ Tổng thống. Tại đây, ông được anh em ông Diệm rất tin cậy trong các công tác chính trị, an ninh nội bộ, rồi đề cử ông làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (nay là tỉnh Bến Tre) với cấp bậc Trung tá. Trong thời gian này, ở miền Nam ít người biết ông là một nhà tình báo nhiều cơ mưu, chiến lược tình báo lão luyện, chỉ biết ông là nhà quân sự có khả năng chính trị và ngoại giao... Sau ngày thống nhất đất nước, ông được Đảng và Chính phủ Việt Nam truy phong liệt sĩ với hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. | IV | |||||||||||||||
238 | Phan Đình | Cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn tổng phản công, ông tình nguyện vào bộ đội. Trong quân đội, ông học tập, công tác, rèn luyện, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được cấp trên giao.
III | ||||||||||||||||
239 | Huỳnh Văn | Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, ông ở lại miền Nam hoạt động. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông được cử vào Ban Thường vụ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, phụ trách an ninh phân khu 1. Ông hy sinh trong một đợt bom rải thảm của B52 ngày 8-6-1969 tại Bến Súc, xã Thanh Tuyền, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. | IV | |||||||||||||||
240 | Đặng Trần Thi | Ông có nhiều bài viết trong Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tác phẩm chính của ông có: Truyện và ký sự. | IV | |||||||||||||||
241 | Văn Cao | Cha mất sớm, ông sống cùng với mẹ và anh trai tại khu lao động nghèo bên bờ sông Hải Phòng. Năm 1941 -1942, ông lên Hà Nội sinh sống. Thời gian này, ông sáng tác nhiều nhạc phẩm có giá trị vượt thời gian như: Thu cô liêu, Suối mơ, Đàn chim Việt, Buồn tàn thu... Từ năm 1943-1944, ông tham gia Mặt trận Việt Minh, hoạt động bí mật ở nội thành.
IV | ||||||||||||||||
242 | Lê Thị Riêng | Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, bà được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, là Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam.
IV | ||||||||||||||||
243 | Hồ Hảo Hớn | Năm 1960, cơ sở bị lộ, ông được tổ chức đưa vào khu. Đến năm 1962, ông là Bí thư Ban Cán sự Sinh viên Học sinh Sài Gòn. Năm sau, ông trở vào Sài Gòn hoạt động. Đến năm 1965, ông là Phó Bí thư khu Sài Gòn - Gia Định, rồi Bí thư Thành đoàn Thanh niên Lao động.
IV | ||||||||||||||||
244 | Nguyễn Thi | Ông vào miền Nam sống từ thuở nhỏ. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông tham gia kháng chiến. Năm 1946, ông vào bộ đội chiến đấu tại Nam Bộ. Đến năm 1954, tập kết ra Bắc. Năm 1962, ông vào Nam phục vụ tại các chiến trường miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Ông hy sinh ngày 9-5-1968 (40 tuổi). Các tác phẩm của ông: Trăng sáng, Đôi bạn, Người mẹ cầm súng... | IV | |||||||||||||||
245 | Cù | Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông nhập ngũ làm giao liên, sau làm tiểu đội trưởng. Năm 1951, ông cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Hòa Bình và được lệnh phục kích chặn đánh địch ở Giang Mỗ trên đường số 6, địch với 6 xe tăng có đại bác và máy bay yểm trợ. Ông cùng đồng đội bắn cháy 4 xe, một chiếc lăn xả bắn đại bác vào trận địa của ta, ông nhiều lần dũng cảm xung phong quyết tâm bắn hạ, cuối cùng ông dùng lựu đạn đánh xe tăng bốc cháy, ông nổi tiếng với danh hiệu “Anh hùng đánh xe tăng, anh hùng đường số 6” và được tặng thưởng Huân chương Quân công.
III | ||||||||||||||||
246 | Bế Văn Đàn | Trước hỏa lực ác liệt của địch, tầm súng trung liên của xạ thủ Pù quá thấp không bắn tới phía địch được. Ông nhảy ra khỏi công sự, băng qua tầm lửa đạn lao mình về phía khẩu trung liên của đồng chí Pù, không chút ngập ngừng, ông quỳ rạp người xuống, lôi khẩu súng lên lưng hai tay ghì chân súng. Ông làm giá súng để đồng chí Pù bắn, đồng đội bàng hoàng cảm kích và kính phục trước sự hy sinh anh dũng cao cả của ông.
III | ||||||||||||||||
247 | Hoàng Lệ Kha | Thực hiện Luật 10-59 tàn sát những người yêu nước, ông bị mật vụ Mỹ - Diệm bắt và kết án tử hình. Ông hy sinh năm 1960. | IV | |||||||||||||||
248 | Võ Thị Sáu | Từ năm 12 tuổi, bà tham gia hoạt động cách mạng, được học chữ, học chính trị và công tác ở đơn vị Công an xung phong, là lực lượng trừ gian diệt ác vùng Đất Đỏ. Tháng 12-1950, trong một lần ám sát cai Cả Tòng - tên tay sai thường xuyên hà hiếp bắt bớ giết hại đồng bào vô tội trong thôn xóm, gây đau thương tang tóc cho dân làng, nhưng vụ ám sát không thành công và bà đã bị bắt. Sau nhiều cực hình tra tấn rất dã man và không khai thác được gì, bà bị Pháp kết án tử hình và lưu đày ra Côn Đảo. Bà đã hy sinh anh dũng vào ngày 23-01-1952 ở Côn Đảo, năm 17 tuổi. | II | |||||||||||||||
249 | Trừ Văn Thố | Ngày 5-5-1965, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng Ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. | III | |||||||||||||||
250 | Điểu Ong |
III | ||||||||||||||||
251 | Nguyễn Văn | Đầu năm 1964, ông ra Căn cứ Vườn Thơm (thuộc huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) học chính trị và nghệ thuật đánh biệt động tại nội thành. Tháng 5-1964, Chính phủ Hoa Kỳ cử một phái đoàn quân sự cao cấp do Bộ trưởng Quốc phòng là Robert Macnamara dẫn đầu sang Sài Gòn nghiên cứu tình hình miền Nam, ông xin Ban Chỉ huy Quân sự Biệt động tiêu diệt phái đoàn này. Trong lúc đang tiến hành gài mìn ở cầu Công Lý, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9-5-1964. “Đả đảo Nguyễn Khánh, Việt Nam muôn năm”
II | ||||||||||||||||
252 | Lê Anh Xuân | Năm 1954, ông tập kết ra Bắc học ở Trường Học sinh miền Nam, là trường Nguyễn Trãi và học Đại học Tổng hợp khoa Sử, rồi làm cán bộ phụ giảng, ít lâu sau, ông được cử đi học ở nước ngoài, nhưng ông xin được về quê hương tiếp tục kháng chiến. Cuối năm 1964, ông về Nam trong đoàn cán bộ giáo dục, công tác ở Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, sau chuyển về công tác ở Hội Văn nghệ giải phóng. Ông hy sinh ngày 25-05-1968 trong cuộc Tổng Tiến công Tết Mậu Thân. Các tác phẩm gồm: Tiếng gà gáy, Hoa dừa..., bài thơ nổi tiếng Dáng đứng Việt Nam. | IV | |||||||||||||||
253 | Lê Thị Hồng Gấm | Một lần cùng đi công tác với 2 đồng chí nữ khác ở địa phương, bị máy bay địch phát hiện đổ quân vây bắt, bà giúp 2 đồng chí cùng đi thoát khỏi vòng vây, một mình ở lại chiến đấu rất dũng cảm đến viên đạn cuối cùng, bắn rơi một máy bay và tiêu diệt nhiều tên địch. Bà hy sinh anh dũng lúc mới 19 tuổi.
IV | ||||||||||||||||
254 | Lê Văn Ngôn | Ông mất ngày 27-11-1976. Trong lĩnh vực Y học, Văn học, ông đã có những đóng góp đáng kể, các tác phẩm nổi tiếng như: Nợ vu sơn, Bịnh ho lao. | IV | |||||||||||||||
255 | Pasteur | Ông là người phát minh ra khoa vi trùng học, sự lên men, nổi danh về phương pháp trị bệnh cho con tằm, các bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là trị bệnh chó dại, bệnh nấm than (charbon). Nhân loại xem ông là vị ân nhân, các bác sĩ Calmette, Yersin đều là những người kế tục sự nghiệp khoa học của ông và đã lập tại Việt Nam bốn Viện Pasteur nghiên cứu Y học ở Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt và Sài Gòn (nay là TP.Hồ Chí Minh). |
D. NHỮNG NGÀY, ĐỊA DANH VÀ SỰ KIỆN LỊCH SỬ | |||||||||||||||
256 | Bạch Đằng | Tháng 11-938, Ngô Quyền dùng cọc gỗ lim vót nhọn bí mật mắt xuống sông Bạch Đằng đánh quân Nam Hán. Năm 981, Lê Hoàn đánh quân Tống. Năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên - Mông. | II | |||||||||||||||
257 | Diên Hồng |
IV | ||||||||||||||||
258 | Chi Lăng | Nơi đây đã diễn ra nhiều chiến thắng oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Năm 1288, nhà Trần đã chặn đánh quân Thoát Hoan trên đường rút lui. Năm 1427, Lê Lợi cho quân bố trí mai phục quân Minh tại đây và tiêu diệt đội quân tiên phong do Liễu Thăng chỉ huy. | IV | |||||||||||||||
259 | Lam Sơn | Lam Sơn là quê hương của phong trào yêu nước do Lê Lợi lãnh đạo và là căn cứ chống quân xâm lược Minh trong suốt 10 năm. Lam Sơn tượng trưng cho ý chí quật cường, tinh thần bền bỉ và niềm tự hào của dân tộc ta. | IV | |||||||||||||||
260 | Đống Đa | Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang xâm chiếm miền Bắc. Ngày 25-11-1788, Vua Quang Trung dẫn 10 vạn quân, ông cho quân sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước và thần tốc tiến ra Thăng Long. Tại đồn Khương Thượng, Đống Đa, quân Tây Sơn bí mật bao vây vào lúc trời còn tối, nhân dân cùng trực tiếp tham gia nổi dậy chiến đấu, tấn công dữ dội vào đồn giặc. Nghĩa quân dùng rơm rạ bện thành con cúi, tẩm dầu đốt, tạo thành vòng vây lửa uy hiếp quân địch. Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt. Đề đốc Sầm Nghi Đống quá khiếp sợ thắt cổ tự vẫn. Quân Thanh chết nhiều vô kể, thây được đắp thành gò, nên gọi là gò Đống Đa.
IV | ||||||||||||||||
261 | Yên Thế | Trong thời gian quân kháng chiến còn hoạt động, nhiều nhà cách mạng đã lên đây thăm và hội đàm với thủ lĩnh Yên Thế trong đó có Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Dương Bá Trạc... | IV | |||||||||||||||
262 | Bãi Sậy | Từ năm 1885 - 1889, nhà yêu nước Nguyễn Thiện Thuật cùng nghĩa quân lập căn cứ để hoạt động chống Pháp, sau người Pháp dùng chiến thuật bao vây, cuộc khởi nghĩa mới thất bại. | IV | |||||||||||||||
263 | Ba Đình |
III | ||||||||||||||||
264 | Đông Du | Cuối tháng 7-1905, mở đầu phong trào Đông Du của Hội Duy Tân, nhà yêu nước Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính đưa 03 thanh niên đầu tiên xuất dương sang Nhật du học. Trong thời gian ở Nhật lần này, ông đã viết bài Khuyến quốc dân du học văn và Khuyến quốc dân tư trợ du học văn để kêu gọi đồng bào toàn quốc xuất dương du học và ủng hộ, giúp đỡ việc du học. Đến tháng 02-1909, Chính phủ Nhật có lệnh buộc Phan Bội Châu và Cường Để rời khỏi nước Nhật, từ đây phong trào Đông Du thất bại và tan rã. | IV | |||||||||||||||
265 | Phú Riềng | Ngược dòng lịch sử, Phú Riềng cùng với Dầu Tiếng là một trong hai đồn điền lớn của Công ty Cao Su Mit-Sơ-Lanh ra đời năm 1917. Ở đây có đội ngũ công nhân đông đảo từ những lớp phu được tuyển mộ từ miền Trung và miền Bắc vào. Tuy vẫn còn mang tính tự phát nhưng công nhân cao su Phú Riềng có những cuộc đấu tranh làm chấn động dư luận. Thực hiện chủ trương “vô sản hóa” của Kỳ Bộ Thanh Niên Cách mạng đồng chí Hội ở Nam Kỳ (thành lập năm 1927), nhiều hội viên đã vào làm phu, làm thợ máy tại các đồn điền. Trong đó có đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (tức Nguyễn Văn Vĩnh), quê ở Bắc Ninh, là học sinh trường Bưởi, có bằng tú tài, nói tiếng Pháp thành thạo, sớm giác ngộ cách mạng được cử đến “vô sản hóa” ở đồn điền cao su Phú Riềng vào khoảng năm 1928. Anh Nguyễn Xuân Cừ bắt liên lạc với anh Trần Tử Bình, công nhân làm việc ở trạm xá, người nổi tiếng trong các cuộc đấu tranh của công nhân trước đây. Sau khi thành lập vào tháng 08/1929, Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng cử đồng chí Ngô Gia Tự vào Nam Kỳ để xây dựng cơ sở Đảng trong đó có đồn điền Phú Riềng (cao su Miền Đông). Ngày 20/10/1929, một cuộc bãi công của 2000 công nhân tham gia nổ ra ở Phú Riềng. Công nhân đưa ra các yêu sách đòi tăng lương, chống đánh đập, không ăn gạo mục, nữ công nghỉ đẻ được hưởng lương... Cuộc đấu tranh giành thắng lợi đã cổ vũ phong trào công nhân. Đêm 28/10/1929, tại khu rừng sau lưng làng Ba, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng được thành lập có 06 Đảng viên: Nguyễn Xuân Cừ, Trần Tử Bình, Phạm Thu Hồng, Tạ, Hòa và Danh do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư. Đây là Chi bộ Cộng sản đầu tiên của ngành cao su Việt Nam. Để phát triển cơ sở tổ chức cách mạng, Chi bộ đã biết gắn kết chặt chẽ với phong trào đấu tranh của công nhân. Cuối tháng 01-1930, Chi bộ chủ trương mở một cuộc đấu tranh lớn đòi quyền lợi kinh tế cho nhiều đối tượng ở đồn điền, lấy tổ chức nghiệp đoàn công nhân Phú Riềng làm nòng cốt. Ngày 03-2-1930, 5000 công nhân thực hiện cuộc tổng bãi công với khẩu hiệu: cấm đánh đập, chống cúp phạt, đòi miễn sưu thuế, trả lương cho công nhân bị tai nạn lao động, trả những người hết hạn giao kèo về nơi ở cũ; một số bị bắt, nhưng công nhân vẫn tiếp tục đấu tranh. Công nhân 10 làng đồng loạt tham gia kéo lên quận Bà Rá với khẩu hiệu mới “chủ cơ sở không chấp nhận yêu sách quyết không đi làm”. Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh, Quận Trưởng More cũng như chủ cơ sở XuMaNhắc (Soumagnac) phải chấp nhận giải quyết các yêu sách của công nhân bằng biên bản ký kết giữa chủ và thợ, cam kết thực hiện những yêu sách của công nhân. Thừa thắng, một số cán bộ Đảng viên có chủ trương tiến tới bạo động giành chính quyền ở Phú Riềng. Chi bộ Cộng sản đầu tiên đã lãnh đạo nghiệp đoàn công nhân đấu tranh giành thắng lợi. “Phú Riềng Đỏ” năm 1930 đã có ảnh hưởng to lớn trong việc phát triển cơ sở Đảng, cơ sở nghiệp đoàn và thúc đẩy phong trào công nhân miền Đông Nam Kỳ bước vào thời kỳ mới, thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. | I | |||||||||||||||
266 | 3 tháng 2 | Nguyễn Ái Quốc, nhà yêu nước vĩ đại, bao năm bôn ba khắp năm châu bốn biển đã bắt gặp Chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, sáng lập và trực tiếp huấn luyện cho Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, chuẩn bị đầy đủ về chính trị tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một mốc son lịch sử, đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác-Lênin với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo sẽ đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước. | I | |||||||||||||||
267 | Xô Viết Nghệ Tĩnh | Ngày 03-02-1930 được ghi đậm nét trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là ngày thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản duy nhất ở nước ta, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng vừa mới ra đời đã lãnh đạo dấy lên phong trào cách mạng rộng lớn, tiến đến cao trào phát triển trong quy mô cả nước. Sau cuộc biểu dương lực lượng quần chúng trong khắp nước kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 01-05-1930 và từ tháng 9-1930 trở đi, công nhân và nông dân Nghệ Tĩnh liên tiếp tổ chức những cuộc đấu tranh quyết liệt, làm tê liệt bộ máy chính quyền của Pháp ở huyện, xã và làm chủ nhiều vùng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng ở nhiều tổng, xã, gọi là chính quyền Xô Viết. Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sự kiện lịch sử vĩ đại và là đỉnh cao của cao trào 1930-1931. Tuy không tồn tại được bao lâu trước sức đàn áp tập trung tàn bạo và dã man của Pháp nhưng truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của Xô Viết Nghệ Tĩnh luôn là nguồn sức mạnh động viên giai cấp công nhân và dân tộc ta và đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào đấu tranh của công nhân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đấu tranh đi đến thắng lợi sau này. | III | |||||||||||||||
268 | Nam Kỳ Khởi Nghĩa | Cuộc khởi nghĩa không nổ ra ở Sài Gòn như đã định nhưng theo đúng lệnh của Xứ ủy đã ban hành, từ 0 giờ ngày 23-11-1940, hàng loạt các tỉnh xung quanh Sài Gòn như: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An và các tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên... đã đồng loạt khởi nghĩa, làm chủ tình thế, chiếm đồn, lấy súng, đốt nhà việc, phá cầu... Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ đã làm rung chuyển chính quyền thống trị của Pháp và phong kiến tay sai, làm tan rã bộ máy cai trị ở một số vùng nông thôn và nắm quyền làm chủ ở những nơi đó.
III | ||||||||||||||||
269 | Ba Tơ |
IV | ||||||||||||||||
270 | Cách mạng tháng Tám | Ngày 16-8, mở đầu công cuộc tổng khởi nghĩa, đội quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng Thái Nguyên, các địa phương khác như: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh... nối tiếp nhau được giải phóng. Ngày 17-8, cuộc biểu tình ủng hộ Việt Minh nổ ra tại Hà Nội, tiếp theo là Huế và Sài Gòn, chỉ trong vòng 15 ngày cuộc khởi nghĩa phát triển trên phạm vi toàn quốc.
II | ||||||||||||||||
271 | Điện Biên Phủ | Chính phủ Pháp bèn dựa vào viện trợ Mỹ để đối phó, thực hiện kế hoạch Navarre, lập cứ điểm Điện Biên Phủ rất hiểm trở và Navarre được cho là một pháo đài không thể công phá. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Đảng Lao động cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh họp và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, do tướng Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Sau gần 9 năm gian khổ, nhân dân Việt Nam đã đánh bại cuộc xâm lược của thực dân Pháp, một đất nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh, đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam. | II | |||||||||||||||
272 | Đồng Khởi | Trước tình hình thuận lợi nhiều mặt, tháng 12-1959, ban lãnh đạo miền Trung Nam Bộ đã triệu tập Hội nghị đại biểu các tỉnh để phổ biến tinh thần Nghị quyết và chủ trương chuyển hướng phong trào. Đảng bộ Bến Tre đã nhận bản tóm tắt các Nghị quyết 15 của Trung ương gửi đến và Chi bộ bàn bạc, chọn hình thức khởi nghĩa đồng loạt, tức là đồng khởi, tận dụng những thuận lợi, biến khả năng nhiều mặt của quần chúng thành sức mạnh tổng hợp tiến công địch quyết liệt, đều khắp, là phải giành cho được quyền chủ động, bất ngờ, phát động quần chúng nhất loạt vùng lên, lấy khí thế cách mạng trấn áp quân địch làm cho địch không kịp đối phó, không kịp trở tay. Đồng Khởi Bến Tre đã góp phần to lớn vào cao trào đồng khởi toàn miền Nam trong các năm 1959-1960, đánh dấu một bước chuyển mình cơ bản của cách mạng miền Nam. Từ Bến Tre, phong trào Đồng Khởi lan rộng ra nhiều tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng Liên khu V và buộc Mỹ phải chuyển hướng chiến lược trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. | IV | |||||||||||||||
273 | Ấp Bắc | Trận đánh diễn ra vào lúc 6 giờ sáng đến tối, quân dân ta đã đánh thắng và tiêu diệt nhiều sinh lực địch với một số quân ít hơn địch 10 lần, phối hợp đấu tranh vũ trang, nhân dân Ấp Bắc cùng với dân xã kéo lên quận Cai Lậy đấu tranh chính trị, phản đối việc bắn phá xóm làng. Chiến thắng Ấp Bắc đã nêu cao tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ miền Nam, chứng tỏ quân và dân miền Nam có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong “Chiến tranh đặc biệt”. | IV | |||||||||||||||
274 | Bình Giã | Trận Bình Giã là trận kéo dài nhất từ ngày có đấu tranh vũ trang chống Mỹ - ngụy của quân và dân ta đến tháng 12-1964 và đã giành được thắng lợi to lớn là tiêu diệt hơn 2.000 tên địch, diệt 37 xe quân sự, bắn rơi 24 máy bay, bắn hỏng 13 chiếc khác. Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa chiến lược lớn, đánh dấu sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. | IV | |||||||||||||||
275 | Bàu | Trận đánh giáp lá cà vô cùng ác liệt. Sau 3 giờ chiến đấu, quân giải phóng đã diệt 02 tiểu đoàn, 1 đại đội pháo binh, 2 chi đoàn xe thiết giáp, 2 đại bác 105 ly, 2 súng cối 107, 2 máy bay. | IV | |||||||||||||||
276 | Bom Bo | Bà con dân tộc Đắk Nhau - sóc Bom Bo ủng hộ gạo và với tinh thần sáng tạo, đồng bào đã dùng một cây gỗ sao dài đục thành 14 hoặc 15 lỗ cối để ngày đêm giã gạo. Riêng sóc Bom Bo với chưa đầy 30 hộ, bình quân mỗi hộ 50 ký gạo, với tinh thần khẩn trương đã giao nộp trước thời gian quy định 15 ngày. Trong điều kiện rất khó khăn, máy bay, pháo địch thường xuyên thả bom bắn phá suốt ngày đêm, lương thực lại khan hiếm chưa đến mùa thu hoạch, từ già trẻ trai gái đã bằng tinh thần lao động khẩn trương quyết tâm ngày đêm giã gạo phục vụ kịp thời cho chiến dịch.
III | ||||||||||||||||
277 | Đồng Xoài | Đêm 9-6-1965, quân giải phóng tiến công Đồng Xoài, một mắt xích trong hệ thống đồn trên phòng tuyến Sông Bé của địch. Quân giải phóng diệt gọn 5 đại đội, nhiều xe M113. Đến sáng ngày 10-6, địch cho 30 máy bay đổ 01 tiểu đoàn xuống, đi được một quãng thì bị quân ta bao vây, tiêu diệt. Trong 3 ngày, quân giải phóng đã diệt 1.500 tên trong đó có 50 lính Mỹ, bắn rơi 16 máy bay, phá hủy 02 đại bác 105 ly và 6 xe bọc thép. | III | |||||||||||||||
278 | 9 tháng 6 | Thực hiện yêu cầu trên, ta mở Chiến dịch Đồng Xoài nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải tỏa hành lang chiến lược giữa căn cứ Đông và Tây, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, khai thông tuyến liên lạc từ Trung Bộ về miền Tây Nam Bộ. Chi khu Đồng Xoài là vị trí quan trọng trong hệ thống phòng thủ của địch, hệ thống công sự, đồn bốt kiên cố, bố trí hỏa lực chặt chẽ, canh phòng nghiêm ngặt. Chiến dịch Đồng Xoài năm 1965 kết thúc thắng lợi, ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải tỏa các cụm căn cứ của địch đóng sát căn cứ của ta, nối thông hành lang chiến lược Đông - Tây và góp phần tích cực vào việc làm thất bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam nước ta. | III | |||||||||||||||
279 | 7 tháng 4 | Để chuẩn bị cho đợt tấn công ta chuẩn bị lương thực, thực phẩm, đạn dược về nơi tập kết. Tại Lộc Ninh, các đơn vị chủ lực của Miền, lực lượng vũ trang phân khu, các đại đội huyện, du kích áp sát mục tiêu được giao, hình thành thế bao vây quân địch. Lúc 5 giờ ngày 5-4-1972, Bộ Chỉ huy phát lệnh nổ súng tấn công, lực lượng từ các mũi đều đồng loạt nổ súng. Trong lúc bộ đội chủ lực vây hãm cụm cứ điểm Lộc Ninh, đại đội 31 của huyện cùng du kích các xã đánh chiếm các đồn bảo an; chớp thời cơ, nhân dân đồng loạt nổi dậy đánh phá toàn bộ bộ máy kềm kẹp, treo cờ Mặt trận giải phóng và kêu gọi binh lính địch ra đầu hàng. Tại khu vực ngã ba Lộc Tấn, bộ đội chủ lực phục kích tiêu diệt và bắt sống 950 tên, phá hủy và thu 104 xe các loại và toàn bộ vũ khí, có 4 khẩu pháo lớn và 57 máy thông tin. 14 giờ ngày 7-4-1972, ta hoàn toàn giải phóng Lộc Ninh. | II | |||||||||||||||
280 | Tà Thiết | Nhiều doanh trại thời chiến và kho hậu cần được xây cất nơi đây như: nhà làm việc của Thượng tướng Trần Văn Trà, bà Nguyễn Thị Định và cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh, hội trường và nhà bếp dưới lòng đất. | IV | |||||||||||||||
281 | 26 tháng 12 | Đối với vùng tranh chấp như Đồng Xoài, Phú Giáo là nơi cuộc đấu tranh diễn ra sôi động và quyết liệt, chúng thực hiện nhiều cuộc hành quân càn quét để giải tỏa lực lượng của ta và mở rộng phạm vi lấn đất giành dân, đồng thời dùng bom bắn phá ác liệt. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy địa phương, quân dân Đồng Xoài, Phú Giáo anh dũng đánh trả bọn địch một cách quyết liệt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, không cho chúng chiếm đất, giành dân, tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh.
II | ||||||||||||||||
282 | 14 tháng 12 | Đêm 12 rạng ngày 13-12-1974, ta tiến công Chi khu Bù Đăng và tuyến án ngữ gồm 25 đồn bốt chung quanh do 1 tiểu đoàn bảo an và cảnh sát, 1.200 phòng vệ dân sự chốt giữ. Ngày 14-12-1974, cả núi rừng Bù Đăng rung chuyển bởi các mũi tiến công đồng loạt nhả đạn vào Chi khu Quân sự Đức Phong. Cuộc chiến giữa ta và địch trở nên quyết liệt ở từng căn nhà, lô cốt. Sau 27 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt quân địch và làm chủ hoàn toàn trận địa. Nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược trở về buôn làng, Đến 17 giờ ngày 14-12-1974, ta hoàn toàn giải phóng huyện Bù Đăng. | II | |||||||||||||||
283 | Phước Long | Vào đêm ngày 03 rạng ngày 04-01-1975, quân giải phóng anh dũng tiến công tỉnh lỵ Phước Long, căn cứ quân sự và là nơi xuất phát các cuộc hành quân càn quét và lấn chiếm của địch. Đến 7 giờ tối ngày 6-01, quân và dân Phước Long tiêu diệt, làm tan rã và kêu gọi địch ra đầu hàng, làm chủ hoàn toàn căn cứ quân sự này, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh, bắn rơi 4 máy bay.
III | ||||||||||||||||
284 | 6 tháng 1 | Để mở màn cho Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, Trung ương Cục miền Nam giao nhiệm vụ cho quân và dân Phước Long diệt gọn các Chi khu “Bù Đốp lưu vong”, Chi khu Quân sự Đức Phong và yếu khu Bù Na nhằm chia cắt và cô lập Phước Long. Vào những ngày cuối tháng 12 -1974, các lực lượng vũ trang của Phước Long liên tục mở những mũi tiến công địch các hướng. Rạng ngày 31-12-1974, mở đầu trận quyết chiến giải phóng tỉnh Phước Long. Phối hợp với hoạt động vũ trang, quần chúng nhân dân cũng nỗi dậy đấu tranh kêu gọi chồng, con, em mình bỏ súng quay về với cách mạng. Chống ném bom bắn phá vào khu dân cư, tình hình bên trong thị xã sôi động hẳn lên, các đơn vị chủ lực có xe tăng, tăng cường đánh vào các mục tiêu: Dinh Tỉnh Trưởng, tiểu khu mới, tiểu khu cũ, tòa hành chánh và nhiều khu vực trong thị xã. Chiến thắng Phước Long vào đầu năm 1975 là chiến thẳng đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam Việt Nam mà nhân dân ta đã giành được quyền làm chủ trong phạm vi một tỉnh. Chiến thắng Phước Long mãi mãi được ghi vào lịch sử của tỉnh Bình Phước nói riêng và của dân tộc nói chung. Chiến thắng mở đầu cho cuộc tổng tấn công nổi dậy và có quy mô lớn nhất từ trước đến nay trong mùa xuân năm 1975, góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. | II | |||||||||||||||
285 | 30 tháng 4 | Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng thành căn cứ vững chắc của cả nước, miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Năm 1975, ta mở cuộc tấn công giải phóng miền Nam. Mất Quân khu 1 và 2, chúng gấp rút chấn chỉnh Quân khu 3 và 4, lập tuyến phòng thủ tại Tây Ninh, Xuân Lộc, Phan Rang nhằm chặn đường tiến công của ta. Mỹ cấp tốc lập cầu hàng không chuyên chở vũ khí hạng nặng gồm xe tăng và đại bác sang Sài Gòn và lệnh cho tàu sân bay Hen-cốc cùng 300 lính thủy đánh bộ Mỹ đến biển Đông. Lúc này, nội bộ chính quyền Sài Gòn mâu thuẫn trầm trọng. Kháng chiến chống Mỹ được kết thúc bằng thắng lợi oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước được hoàn toàn giải phóng, đồng bào hai miền Nam Bắc được sum họp một nhà. | I | |||||||||||||||
286 | 2 tháng 4 | Đêm ngày 9 rạng ngày 10-3-1975, ta mở đợt II hoạt động mua khô 1974--1975. Ngày 13-3-1975, ta giải phóng toàn bộ quận Dầu Tiếng. Sau khi Dầu Tiếng được giải phóng, ta xiết chặt vòng vây quanh thị xã An Lộc và giải phóng An Lộc ngày 23-3-1975. Cùng ngày, địch ở An Lộc rút chạy về Chơn Thành, hòng trấn giữ cửa ngõ vùng Tây Bắc Sài Gòn. Ngày 31-3-1975, ta tiếp tục tăng cường thêm lực lượng mở đợt tấn công mới vào Chi khu Chơn Thành. Pháo và bom địch rải thảm chung quanh cứ điểm, đánh mạnh vào đội hình ta. Mặc dù vậy, vòng vây Chi khu Chơn Thành vẫn được xiết chặt, địch không thể thoát khỏi thế bị vây hãm đến cùng. Sáng sớm ngày 2-4-1975, không có quân cứu viện, địch ở Chi khu Chơn Thành mở đường máu tháo chạy. Trên đường rút về Lai Khê theo lộ 13, địch tiếp tục bị truy kích và bị tổn thất nặng nề. Quân ta đánh chiếm các vị trí địch còn lại trong chi khu, đến chiều cùng ngày giải phóng hoàn toàn thị trấn Chơn Thành.
Từ khóa: Quyết định 1493/QĐ-UBND, Quyết định số 1493/QĐ-UBND, Quyết định 1493/QĐ-UBND của Tỉnh Bình Phước, Quyết định số 1493/QĐ-UBND của Tỉnh Bình Phước, Quyết định 1493 QĐ UBND của Tỉnh Bình Phước, 1493/QĐ-UBND File gốc của Quyết định 1493/QĐ-UBND năm 2015 xác lập Ngân hàng tên đường trên địa bàn tỉnh Bình Phước đang được cập nhật. Quyết định 1493/QĐ-UBND năm 2015 xác lập Ngân hàng tên đường trên địa bàn tỉnh Bình PhướcTóm tắt
|