Thông tư 017-TT/LB năm 1962 hướng dẫn cách thức trích nộp kinh phí cho quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Tài chính-Tổng công đoàn Việt Nam ban hành
Thi hành điều 68 của điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội với công nhân viên chức Nhà nước và các điều 2, 4, 5, 6, 7, của nghị định số 39-CP ngày 22-03-1962 của Hội đồng Chính phủ.
Bộ Tài chính và Tổng công đoàn Việt nam hướng dẫn cụ thể việc trích nộp kinh phí cho quỹ bảo hiểm xã hội như sau:
...
VII. VIỆC BÁO CÁO THU CHI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Hàng tháng, các Ban bảo hiểm xã hội cơ quan, xí nghiệp… có trách nhiệm cùng với bộ phận tài vụ (kế toán, quản trị) của các cơ quan, xí nghiệp… làm báo cáo về tình hình thu chi và quản lý kế hoạch thu chi quỹ bảo hiểm xã hội ở đơn vị mình gửi lên Liên hiệp công đoàn cấp trên (đã được Tổng công đoàn ủy nhiệm quản lý trực tiếp quỹ bảo hiểm xã hội).
VIII. SƠ KẾT TÌNH HÌNH THU CHI VÀ QUẢN LÝ KẾ HOẠCH THU CHI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI QUÝ I VÀ QUÝ II NĂM 1962
Trong thời gian qua, vì chưa có những quy định cụ thể về cách thức trích nộp kinh phí cho quỹ bảo hiểm xã hội các cơ quan, xí nghiệp… mới tạm ứng kinh phí để chi về các khoản trợ cấp cán bộ, công nhân, viên chức theo các chế độ bảo hiểm xã hội.
Để thanh toán cụ thể và rứt khoát số tiền của các cơ quan, xí nghệp đã tạm ứng chi cho quỹ bảo hiểm xã hội và số tiền các cơ quan, xí nghiệp phải nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội trong quý I và quý II năm 1962, các cơ quan, xí nghiệp cần tiến hành sơ kết ngay các khoản thu chi về bảo hiểm xã hội quý I và quý II theo quy định sau đây:
a) Đối với những cơ quan đã sơ kết xong tình hình thu chi quỹ bảo hiểm xã hội quý I:
- Cần xem xét lại việc trích nộp, nếu có điểm nào chưa đúng với những quy định trong văn bản này thì điều chỉnh lại cho số liệu được chính xác.
- Xúc tiến ngay việc sơ kết thu chi quỹ bảo hiểm xã hội quý II năm 1962.
b) Đối với những cơ quan xí nghiệp tới nay chưa sơ kết tình hình thu chi quỹ bảo hiểm xã hội, cần làm ngay báo cáo thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội quý I-1962 trước và gửi đến Liên hiệp công đoàn, đồng thời tiếp tục làm ngay báo cáo thu chi quỹ bảo hiểm xã hội quý II-1962.
c) Mẫu báo cáo: Báo cáo sơ kết thu chi quỹ bảo hiểm xã hội quý I và quý II-1962 phải làm theo mẫu thống nhất do Tổng công đoàn hướng dẫn và gửi cho Liên hiệp công đoàn để Liên hiệp công đoàn tổng hợp gửi lên Tổng công đoàn.
d) Thời hạn báo cáo:
- Sơ kết quý I-1962:
Chậm nhất đến ngày 20-06-1962, các cơ quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường phải sơ kết xong quý I-1962 và gửi báo cáo đến Liên hiệp công đoàn khu, tỉnh, thành phố và công đoàn ngành dọc.
Chậm nhất đến ngày 30-06-1962, các Liên hiệp công đoàn khu, tỉnh, thành phố và công đoàn ngành dọc phải tổng hợp xong báo cáo quý I-1962 gửi lên Tổng công đoàn Việt nam.
- Sơ kết quý II-1962:
Chậm nhất đến ngày 15-07-1962, các cơ quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường phải gửi báo cáo thu chi quỹ bảo hiểm xã hội quý II-1962 đến Liên hiệp công đoàn khu, tỉnh, thành phố và công đoàn ngành dọc.
Chậm nhất đến ngày 30-07-1962, các Liên hiệp công đoàn khu, tỉnh, thành phố và công đoàn ngành dọc phải tổng hợp xong báo cáo quý II-1962 gửi Tổng công đoàn Việt nam.
e) Những quy định cụ thể trong việc thanh toán thu chi quỹ bảo hiểm xã hội quý I và quý II năm 1962:
a) Theo nguyên tắc điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-1962.
b) Những cơ quan, xí nghiệp… nào chưa kịp phổ biến điều lệ, chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ, công nhân, viên chức, thì riêng chế độ ốm đau được hoãn lại 1 tháng, nhưng bắt đầu từ ngày 01-02-1962, toàn bộ chế độ bảo hiểm xã hội nhất thiết phải được thi hành.
c) Theo bản triết tính cụ thể của Liên bộ Tài chính, Lao động, Nội vụ, Tổng công đoàn thì trong tỷ lệ 4,7% so với thực chi quỹ lương nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội, số tiền trợ cấp cho cán bộ, công nhân, viên chức trong những ngày nghỉ vì ốm đau chiếm 2,8%. Như vậy:
- Trong tháng 01-1962 nơi nào đã thi hành toàn bộ các chế độ bảo hiểm xã hội (kể cả chế độ trợ cấp ốm đau do quỹ bảo hiểm xã hội trả) từ ngày 01-01-1962 thì phải nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ 4,7% so với thực chi quỹ lương tháng 01-1962 và thanh toán theo thực chi.
- Trong tháng 01-1962, nơi nào vẫn trả lương cán bộ, công nhân, viên chức trong những ngày nghỉ việc vì ốm đau vào quỹ lương thì chỉ phải trích nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ (4,7% - 2,8%) 1,9% so với thực chi quỹ lương trong tháng 01-1962.
- Trong tháng 01-1962, nơi nào đã trả trợ cấp cán bộ, công nhân, viên chức trong những ngày nghỉ vì ốm đau vào quỹ bảo hiểm xã hội từ ngày 16-01-1962 trở đi thì trong tháng 01-1962 phải trích nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ (4,7% - 1,4%) 3,3% so với thực chi quỹ lương tháng 01-1962.
- Còn những tháng sau 2, 3, 4, 5, 6… tất cả các cơ quan, xí nghiệp đều phải nộp kinh phí cho quỹ bảo hiểm xã hội hàng tháng theo tỷ lệ 4,7% so với thực chi quỹ tiền lương trong tháng. Cơ quan, xí nghiệp nào chậm nhất đến ngày 01-02-1962 vẫn chưa thi hành chế độ bảo hiểm xã hội về trợ cấp ốm đau mà vẫn trả 100% lương cho cán bộ, công nhân, viên chức cho những ngày họ nghỉ vì ốm đau thì các cơ quan, xí nghiệp đó phải tính lại để thi hành kể từ ngày 01-02-1962 và phải trích nộp kinh phí cho quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ 4,7% so với thực chi quỹ tiền lương.
Số tiền lương đã trả cho cán bộ, công nhân, viên chức ốm đau phải điều chỉnh lại theo chế độ trợ cấp ốm đau quy định ở điều 7 chương II của điều lệ bảo hiểm xã hội số tiền chênh lệch phải truy hoàn trả quỹ lương.
Nhưng để chiếu cố trường hợp hoàn cảnh gia đình khó khăn của một số cán bộ, công nhân, viên chức ốm đau, cơ quan, xí nghiệp có thể phối hợp với Công đoàn để xét cụ thể từng trường hợp và giải quyết việc truy hoàn bằng cách cho trừ dần vào lương hàng tháng, nhưng tối đa không được kéo dài quá 3 tháng.