BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 754/TCT-CS | Hà Nội, ngày 01 tháng 2 năm 2008 |
Kính gửi: Cục thuế tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trả lời công văn số 3749/CT-KTr2 ngày 07/11/2007 của Cục thuế Thừa Thiên Huế về giao dịch liên quan đến quyền, nghĩa vụ thuế, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Điều 144 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về phạm vi đại diện như sau:
"1. Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền.
3. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
4. Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình.
5. Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác."
Điều 152 Bộ Luật dân sự quy định về người đại diện theo uỷ quyền như sau: “Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có thể uỷ quyền cho người khác phù hợp với quy định của Bộ luật này nhân danh mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Điều 585 Bộ Luật dân sự quy định về hợp đồng uỷ quyền như sau: “Hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền”.
Điểm 2 Điều 20 Luật Kế toán quy định ký chứng từ kế toán như sau: “Chữ ký trên chứng từ kế toán phải do người có thẩm quyền hoặc người được uỷ quyền ký”.
Điều 145 Luật Thương mại quy định nghĩa vụ của bên đại diện như sau: “Thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa và vì lợi ích của bên giao đại diện”.
Căn cứ các quy định nêu trên, việc chủ doanh nghiệp tư nhân uỷ quyền cho cá nhân thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với một số công việc kinh doanh của doanh nghiệp thì việc uỷ quyền là hợp pháp. Các hợp đồng kinh tế, hoá đơn mua hàng, hoá đơn bán hàng do người được uỷ quyền ký nếu đứng tên và ghi mã số thuế doanh nghiệp tư nhân phù hợp với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế thì được coi là chứng từ hợp pháp. Riêng việc kê khai thuế không thuộc phạm vi giao dịch dân sự, do vậy, chủ doanh nghiệp không được uỷ quyền trong việc kê khai thuế.
Trường hợp của doanh nghiệp tư nhân Trần & Lê, chủ doanh nghiệp trong thời gian đi vắng đã uỷ quyền cho mẹ là Trần thị Thu Hằng điều hành doanh nghiệp, trong bộ hồ sơ đề nghị hoàn thuế từ tháng 9/2006 đến tháng 7/2007 có đầy đủ các giấy tờ theo đúng quy định, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trực tiếp ký tên, đóng dấu và chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu đã kê khai với cơ quan thuế thì doanh nghiệp được xem xét giải quyết hoàn thuế GTGT.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục thuế được biết và thực hiện.
| KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG |
File gốc của Công văn số 754/TCT-CS về việc uỷ quyền thực hiện công việc kê khai thuế do Tổng cục Thuế ban hành đang được cập nhật.
Công văn số 754/TCT-CS về việc uỷ quyền thực hiện công việc kê khai thuế do Tổng cục Thuế ban hành
Tóm tắt
Cơ quan ban hành | Tổng cục Thuế |
Số hiệu | 754/TCT-CS |
Loại văn bản | Công văn |
Người ký | Phạm Duy Khương |
Ngày ban hành | 2008-02-01 |
Ngày hiệu lực | 2008-02-01 |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
Tình trạng | Còn hiệu lực |